← Quay lại trang sách

- 8 -

Ánh sáng từ chiếc đèn xách Coleman tỏa ra đủ để họ không phải dùng đến đèn pin. Đó là một thứ ánh sáng trắng và chói mắt, nhưng Clay thích vẻ rực rỡ của nó, thích cái cách mà nó xua đuổi tất cả những cái bóng của họ và cả của con mèo – lúc này đang nhảy lên tường trông giống như một hình ảnh về lễ hội Hallowen được cắt ra từ giấy kếp đen.

“Cháu nghĩ chú nên kéo rèm lại.” Alice nói.

Tom đang mở một trong những chiếc bao bố lấy từ quán Metropolitan, những chiếc bao có dòng chữ CHO CHÓ ở một bên và dòng chữ CHO NGƯỜI ở bên còn lại. Ông ta dừng lại và nhìn Alice bằng ánh mắt tò mò. “Tại sao?”

Cô bé nhún vai và mỉm cười. Clay nghĩ đó là một nụ cười kỳ dị nhất mà anh từng thấy trên khuôn mặt của một cô gái mới lớn. Cô bé đã chùi sạch máu trên mũi và cằm, nhưng có những quầng thâm quanh mắt cô bé; ánh sáng của chiếc đèn Coleman đã tẩy trắng khuôn mặt cô bé thành bộ mặt của người chết, và nụ cười làm ánh sáng phản chiếu trên những chiếc răng giữa đôi môi run rẩy bợt màu. Clay nghĩ cô bé trông giống như một diễn viên điện ảnh của những năm 1940 thủ vai một nhân vật đang bị suy sụp thần kinh. Chiếc giầy nhỏ được để trên bàn trước mặt cô bé, và cô bé đang xoay nó bằng một ngón tay. Mỗi khi cô bé xoay chiếc giầy, nhưng chiếc dây buộc giầy lại nảy nhẹ và kêu lách cách. Clay bắt đầu hi vọng cô bé sớm dừng trò chơi ấy lại. Cô bé càng chơi trò ấy lâu bao nhiêu thì sự việc càng trở nên tồi tệ hơn bấy nhiêu khi nó kết thúc. Cô bé đã xả được một chút, nhưng vẫn chưa đủ. Cho đến lúc này, anh là người đã xả được nhiều nhất.

“Cháu nghĩ là không nên để cho người ta nhìn thấy chúng ta ở đây, thế thôi.” Alice nói. Cô bé lại xoay chiếc giầy. Một thứ mà cô bé gọi là Nike Trẻ con. Nó xoay tròn. Những chiếc dây giầy kêu lách cách trên chiếc bàn cao được đánh véc ni sáng bóng. “Cháu nghĩ là nếu… mọi chuyện sẽ tồi tệ hơn.”

Tom nhìn Clay

“Có lẽ Alice nói đúng,” Clay nói. “Tôi không muốn chúng ta là ngôi nhà duy nhất thắp đèn trong toàn dãy phố này, cho dù là ánh đèn hắt ra từ phía sau nhà.”

Tom đứng dậy và kéo rèm che chiếc cửa sổ phía trên bồn rửa bát lại mà không nói thêm một lời nào.

Còn hai chiếc cửa sổ nữa trong bếp, và Tom kéo rèm che luôn cả hai chiếc cửa sổ đó. Ông ta bắt đầu quay trở lại bàn, rồi đổi hướng và đi tới đóng chiếc cửa giữa bếp và hành lang lại. Alice vẫn xoay xoay chiếc giầy trên mặt bàn. Dưới ánh sáng chói của chiếc đèn Coleman, Clay có thể nhận thấy chiếc giầy ấy có màu hồng và màu đỏ tía, những màu mà trẻ con thường ưa thích. Nó quay tròn. Những chiếc dây giầy bay bay và kêu lách cách. Tom nhìn, cau mày rồi ngồi xuống, và Clay nghĩ: Bảo cô ta vứt nó đi. Hãy nói là cô ta không biết nó đến từ đâu và ông không muốn thấy nó trên chiếc bàn của mình. Như thế cũng đủ để cô ta tỉnh lại và chúng ta có thể lo cho chuyện của chính chúng ta. Hãy nói đi. Tôi nghĩ là cô ta đang chờ ông nói điều đó. Tôi nghĩ đó là lý do khiến cô ta làm thế.

Nhưng Tom chỉ cắm cúi lấy bánh ra khỏi túi – thịt bò và pho mát, thịt cừu và pho mát – và chia phần. Ông ta lấy từ tủ lạnh ra một bình trà đá (“Vẫn còn lạnh,” ông ta nói), và lấy ra một gói thịt băm còn thừa cho con mèo.

“Nó xứng đáng được đối xử như thế,” ông ta phân bua. “Hơn nữa, cứ mất điện thế này thì tủ lạnh cũng chẳng thể dùng được, và gói thịt này sẽ thiu mất.”

Có một chiếc điện thoại treo trên tường. Clay thử nhấc ống nghe, nhưng lần này thậm chí anh còn chẳng nghe thấy tiếng tút tút. Nó đã chết cứng như là… ừ, người phụ nữ mặc bộ đồ vét bên công viên. Anh ngồi xuống bên bàn và bắt đầu ăn phần bánh của mình. Anh rất đói nhưng chẳng muốn ăn chút nào.

Alice bỏ chiếc bánh của cô ta xuống sau ba miếng cắn. “Cháu không thể nuốt nổi,” cô bé nói. “Không thể. Có lẽ vì cháu quá mệt. Cháu muốn đi ngủ. Và cháu muốn vứt bỏ chiếc váy này. Cháu nghĩ không thể tắm rửa – nhưng cháu sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để vứt bỏ chiếc váy chết tiệt này đi. Nó toàn mùi mồ hôi và mùi máu.” Cô bé lại xoay chiếc giầy. Nó quay tròn bên cạnh tờ giấy trên đó có chiếc bánh xăng đuých mà cô bé hầu như chưa đụng đến. “Cháu cũng không thể chịu đựng được mùi của mẹ cháu trên đó. Mùi nước hoa của mẹ cháu.”

Một thoáng yên lặng, không ai nói gì. Clay chìm vào suy tưởng. Anh hình dung thấy cảnh Alice cởi chiếc váy, chỉ còn xu chiêng và xi líp màu trắng, với đôi mắt hốc hác nhìn trừng trừng khiến cô gái trông giống như một con búp bê bằng giấy. Trí tưởng tượng nghệ sỹ của anh, thường rất dồi dào, bổ sung vào bức tranh đó những chiếc dây đeo xu chiêng trên vai và hai bắp chân dài bên dưới. Anh cảm thấy bị sốc không phải vì bức tranh ấy gợi dục mà vì nó hoàn toàn không gợi dục. Từ phía xa, rất xa, dội lại một tiếng nổ phùm trầm đục.

Tom phá vỡ sự yên lặng, và Clay thầm cảm ơn ông ta vì điều đó.

“Chú nghĩ là một chiếc quần bò của chú sẽ vừa với cháu, nếu cháu gấp ống lên.” Ông ta đứng dậy. “Cháu biết không, chú nghĩ thậm chí trông cháu sẽ xinh hơn, giống như Huck Finn trong vở kịch mang tên Sông Cái của một trường học dành cho các nữ sinh. Lên tầng trên. Chú sẽ lấy một ít quần áo cho cháu mặc vào buổi sáng và cháu có thể ngủ qua đêm trong phòng ngủ dành cho khách. Chú có rất nhiều quần áo ngủ, một đống. Cháu có cần chiếc đèn Coleman này không?”

“Chỉ cần… cháu nghĩ chỉ cần một chiếc đèn pin là đủ. Chú có nghĩ như vậy không?”

“Đúng thế,” ông ta nói. Ông ta cầm lấy một chiếc đèn pin và đưa một chiếc khác cho Alice. Hình như ông ta định nói câu gì đó về chiếc giầy trên mặt bàn khi Alice cầm nó lên, nhưng rồi có vẻ như ông ta nghĩ lại. Điều ông ta nói là, “Cháu cũng có thể tắm. Có thể không còn nhiều nước, nhưng vòi vẫn chảy được một chút cho dù mất điện, và chú tin chắc là chúng ta có thể lấy được đầy một chậu.” Ông ta nhìn Clay qua đầu cô gái. “Tôi luôn dự trữ một thùng nước đóng chai trong hầm rượu, vì vậy lúc này chúng ta sẽ không thiếu nước uống.”

Clay gật đầu. “Chúc ngủ ngon, Alice.” Anh nói.

“Chúc hai chú ngủ ngon,” Alice nói lí nhí, rồi cô bé nói thêm bằng một giọng rõ ràng hơn, “Rất vui vì được gặp hai chú.”

Tom mở cửa cho cô ta. Những ánh đèn pin nhảy nhót, và cánh cửa được khép lại. Clay nghe thấy tiếng bước chân họ trên cầu thang, rồi ngay trên đầu anh. Anh nghe thấy tiếng nước chảy. Anh chờ để nghi tiếng xì xì của không khí trong đường ống, nhưng nước đã ngừng chảy trước khi dòí kịp chuyển động. Một chậu đầy, Tom đã nói vậy, và đó có lẽ là lượng nước mà cô bé đã lấy được. Clay cũng bị máu và bụi bẩn bám đầy người và anh muốn gột rửa – anh nghĩ Tom cũng vậy – nhưng anh đoán ở tầng này chắc chắn cũng phải có phòng tắm, và nếu Tom cũng cẩn thận trong thói quen vệ sinh cá nhân của mình giống như anh thì nước trong bồn cầu chắc cũng đủ sạch. Và tất nhiên là còn có nước trong thùng đựng nước xả bồn cầu.

Rafer nhảy lên ghế của Tom và bắt đầu liếm vuốt dưới ánh sáng của chiếc đèn Coleman. Clay có thể nghe thấy tiếng gừ gừ của nó, cho dù có tiếng xì xì liên tục của chiếc đèn. Đối với chú mèo Rafe, cuộc sống vẫn bình lặng.

Anh nghĩ đến hình ảnh Alice xoay xoay chiếc giầy và băn khoăn, gần như là một kiểu suy nghĩ lúc nhàn rỗi, là liệu một cô gái 15 tuổi có thể bị suy sụp thần kinh hay không.

“Đừng có ngớ ngẩn,” anh nói với con mèo. “Tất nhiên là phải tính cách. Lúc nào mà chẳng có chuyện. Họ sẽ làm phim về chuyện này.”

Rafer nhìn anh bằng đôi mắt màu xanh uyên bác và tiếp tục liếm vuốt. Đôi mắt nó dường như muốn nói: Nói tiếp đi. Hồi còn bé anh có hay bị đánh đòn không? Anh có nhớ hơi mẹ mình không?

Mùi nước hoa của mẹ em.

Hình ảnh Alice hiện ra trong đầu anh, một con búp bê giấy với đôi mắt mở to.

Đừng có ngơ ngẩn, đôi mắt của Rafe nói. Búp bê không mặc xu chiêng. Anh là hạng nghệ sỹ nào?

“Hạng thất nghiệp,” anh nói. “Làm ơn câm mồm lại, được chứ hả?” Anh nhắm mắt lại, nhưng điều đó khiến cho mọi chuyện càng trở nên tồi tệ. Bây giờ thì đôi mắt của Rafer bồng bềnh trong bóng tối, giống đôi mắt con mèo Cheshire của Lewis Carroll: Tất cả chúng ta đều điên rồi, Alice ạ. Và trong tiếng xì xì không dứt của chiếc đèn Coleman, anh có thể nghe thấy tiếng gừ gừ của nó.