← Quay lại trang sách

- 3 -

Sự hung hăng và cuồng nộ của người điện thoại vẫn còn đó, trí thông minh bầy đàn cuồng dại của các sinh vật ấy cũng chưa mất đi. Vào trưa ngày hôm sau, một ngày giá lạnh với phong vị của tháng Mười ngập trong bầu không khí, Clay dừng lại để xem hai người điện thoại đánh nhau dữ dội trên lề đường. Hai người điện thoại ấy đấm nhau, vồ lấy nhau, vật lộn và cắn xé. Vừa đánh nhau, cả hai thân người vừa chầm chậm bay lên. Clay há hốc miệng khi thấy hai người điện thoại ấy bay lên độ cao đến 10 bộ, hai chân dạng ra như đang đứng trên không khí. Rồi một người điện thoại cắn ngập răng vào mũi kẻ còn lại. Kẻ bị cắn mặc chiếc áo phông bê bết máu có dòng chữ NHIÊN LIỆU NẶNG in trước ngực. Cắn Mũi đẩy NHIÊN LIỆU NẶNG lùi về phía sau. NHIÊN LIỆU NẶNG loạng choạng, rồi rơi bịch xuống đất giống như một tảng đá. Máu từ mũi ộc ra. Cắn Mũi nhìn theo, dường như lúc này mới nhận ra rằng mình đang ở độ cao ngang với tầng hai của một toà nhà, và từ từ hạ xuống đất. Giống như Dumbo bị mất đôi cánh thần, Clay nghĩ. Cắn Mũi quỳ xuống, nhe hàm răng đầy máu và gầm gừ với Clay khi anh bước qua.

Nhưng hai kẻ này chỉ là ngoại lệ. Phần lớn những người điện thoại mà Clay trông thấy trên đường (trong ngày hôm đó và cả tuần tiếp theo, anh không trông thấy một người bình thường nào) dường như đều mất phương hướng vì không còn ý thức bầy đàn. Clay nghĩ đi nghĩ lại một điều mà Jordan đã nói trước khi cậu bé bước lên xe buýt đê hướng thẳng tới những cánh rừng miền bắc không có sóng điện thoại di động: Nếu vi rút tiếp tục tấn công, những kẻ vừa được định dạng sẽ không phải là người điện thoại, cũng không phải là người bình thường.

Clay nghĩ chắc là giống Yêu tinh Nâu, có thể bị nhiễm nặng hơn một chút. Anh là ai? Tôi là ai? Anh có thể nhận thấy những câu hỏi này trông mắt họ, và anh ngờ - không, anh biết – rằng những câu nói lắp bắp của họ chính là những câu hỏi này.

Anh vẫn tiếp tục hỏi Có thấy một đứa bé không và cố truyền đi hình ảnh của Johnny trong đầu anh, nhưng anh không hy vọng nhận được một câu trả lời có ý nghĩa. Phần lớn là không có câu trả lời. Đêm tiếp theo, anh trú trên một chiếc xe moóc cách Gurleyville khoảng năm dặm về phía bắc; và vào sáng ngày hôm sau nữa, khoảng chín giờ hơn một chút, anh nhìn thấy một cái bóng nhỏ ngồi trên bậc đá bên ngoài quán cà phê Gurleyville, ở giữa khu thương mại của thị trấn.

Không phải, Clay nghĩ, nhưng anh vẫn bắt đầu bước nhanh hơn, và khi tới gần hơn một chút – gần đủ để biết rằng cái bóng ấy đúng là một đứa bé chứ không phải là một người lớn nhỏ con - anh bắt đầu chạy. Chiếc túi mới của anh nẩy tung trên lưng anh. Đôi chân đưa anh tới chỗ bắt đầu của vỉa hè bê tông.

Đó là một cậu bé.

Một cậu bé rất gầy có mái tóc dài rủ xuống vai chiếc áo phông Red Sox mà cậu bé đang mặc.

“Johnny!” Clay kêu to. “Johnny, Johnny - Gee!”

Cậu bé giật mình quay lại. Miệng cậu bé há hốc. Chẳng có gì trong đôi mắt cậu bé ngoài sự ngơ ngác. Có vẻ như cậu bé muốn bỏ chạy, nhưng trước khi cậu bé kịp đứng lên, Clay đã phủ lên khuôn mặt hốc hác và vô cảm của cậu bé bằng những nụ hôn.

“Johnny,” Clay nói. “Johnny, bố đã tìm được con rồi. Tìm được rồi. Bố đã tìm được con rồi.”

Và rồi cậu bé vòng tay ôm lấy cổ Clay. Có lẽ vì người đàn ông đang ôm cậu bé bắt đầu nhấc bổng nó lên và quay nó trọn một vòng. Cậu bé cũng thốt ra một từ gì đó. Clay không muốn tin rằng đó là một từ vô nghĩa, cái gì đó giống như tiếng gió thổi qua miệng chai. Đó là một từ. Có thể là từ mè. Có thể cậu bé muốn nó rằng mình đang mệt.

Cũng có thể là từ vè. Có lẽ cậu bé muốn anh đưa nó về nhà.

Clay bám lấy cách diễn giải ấy. Bám lấy ý nghĩ rằng đứa bé bẩn thỉu và vô hồn đang bám trên cổ anh biết nói rằng mình đang mệt và muốn về nhà.