- 4 -
Quá ít căn cứ để có thể dựa vào đấy, cái âm thanh không thành từ ấyĐó là suy nghĩ của Clay một tuần sau đó. Lúc này cậu bé đang nằm ngủ trong cái cũi đặt trong phòng ngủ, bởi vì Johnny chấp nhận nằm yên trong đó, và bởi vì Clay đã quá mệt mỏi với việc phải lôi cậu bé từ trong gầm giường ra. Cái cũi nhỏ giống như một buồng tử cung ấy dường như làm cho cậu bé thấy dễ chịu. Có lẽ nó giống một công đoạn định dạng nào đó mà cậu bé và những người điện thoại đã trải qua. Một kiểu định dạng nào đó. Những người điện thoại ở Kashwak đã biến cậu con trai của anh thành một đứa trẻ bại não, không có cả ý thức bầy đàn để dựa vào.
Ngoài kia, dưới bầu trời xám xịt, tuyết đang bắt đầu rơi lất phất. Một luồng gió lạnh len lỏi trên con phố Main Street không đèn. Hình như vẫn còn quá sớm để tuyết rơi, nhưng có lẽ cũng chẳng phải là quá sớm ở vùng cực bắc này. Khi tuyết rơi trước lễ Tạ ơn, ta sẽ phàn nàn, và khi tuyết rơi trước lễ Halloween, ta sẽ phàn nàn gấp đôi, và rồi có ai đó nhắc cho ta nhớ rằng ta đang ở Maine, không phải ở đảo Capri.
Anh băn khoăn không biết Tom, Jordan, Dan và Denise đang ở đâu trong đêm nay. Anh băn khoăn không biết Denise sẽ xoay sở ra sao khi sinh con. Anh nghĩ có lẽ sẽ ổn – đó là một cô gái rắn rỏi. Anh băn khoăn không hiểu Tom và Jordan có nhớ đến anh giống như anh đang nhớ đến họ hay không – đôi mắt nghiêm nghị của Jordan, nụ cười mỉa mai của Tom. Anh chưa bao giờ được nhìn thấy hơn phân nửa nụ cười ấy. Những gì họ trải qua không cho anh cơ hội đó.
Anh băn khoăn không biết mấy ngày chăm sóc đứa con đờ dại của mình có phải đã là những ngày cô đơn nhất trong cuộc đời anh hay chưa.
Clay nhìn chiếc điện thoại di động trong tay anh. Anh nghĩ về nó nhiều hơn bất cứ chuyện gì khác. Về việc liệu có nên gọi một cú điện thoại nữa hay không. Có những vạch sóng hiện rõ khi anh bật chiếc điện thoại lên, ba vạch đầy, nhưng pin không thể chạy mãi, và anh hiểu rõ điều đó. Và anh cũng không thể hy vọng Xung Động sẽ được phát đi mãi. Những chiếc pin chạy bộ phát Xung Động để gửi tín hiệu lên vệ tinh (nếu đó là những gì đã xảy ra, và nếu đó là những gì đang xảy ra) rồi sẽ cạn năng lượng. Hoặc Xung Động sẽ bị thay đổi và biến thành thứ tạp âm mà ta vẫn thường nghe thấy khi dò sóng.
Tuyết. Tuyết đổ vào ngày Hai mốt tháng Mười. Có phải là Hai mốt không nhỉ? Anh đã quên tính ngày. Có điều anh biết chắc là người điện thoại đang chết dần chết mòn ngoài kia, mỗi đêm một nhiều hơn. Nếu anh không tìm được Johnny, chắc chắn cậu bé khó lòng sống đến giờ nà
Câu hỏi là, anh đã tìm được gì?
Anh đã cứu ai đây?
Về.
Có lẽ thế.
Chắc chắn là kể từ lúc ấy, cậu bé chưa nói thêm từ nào nghe có vẻ giống như một từ thực sự. Cậu bé sẵn sàng đi theo Clay… nhưng hễ Clay không để ý là cậu bé lại có xu hướng tách ra để đi lang thang một mình. Mỗi lần như thế, anh lại phải đưa tay kéo cậu bé lại; và mỗi lần như thế, anh lại nhớ đến con rô bốt đồ chơi mà anh có khi còn bé. Con rô bốt ấy luôn tìm đường đi đến xó phòng rồi cứ đứng giậm chân liên tục cho đến khi anh xoay lưng nó lại và hướng nó ra phía giữa phòng.
Johnny đã vùng vẫy đôi chút lúc anh tìm được một chiếc xe có chìa khoá còn cắm trong ổ, nhưng khi anh đã đưa cậu bé vào xe và khoá chặt cửa lại rồi cho xe lăn bánh, cậu bé ngồi im và có vẻ như rất say mê. Cậu bé thậm chí còn tìm được nút bấm cho cửa kính hạ xuống và để cho gió tạt trên mặt mình, nhắm mắt lại và khẽ nhả đầu ra phía sau. Clay nhìn mái tóc dài và bẩn thỉu của con, thế này thì chẳng khác gì chăm một con chó.
Khi gặp phải vỉa nổi không thể vượt qua, Clay giúp Johnny xuống xe. Anh phát hiện thấy cậu bé đã tè ra quần. Nó đã mất thói quen vệ sinh anh nghĩ, cùng lúc với việc mất đi khả năng ngôn ngữ. Và đúng là như vậy, nhưng cũng không đến mức quá tồi tệ, bởi vì nếu anh cho xe dừng lại và bắt cậu bé ra bãi trống, cậu bé sẽ đi tiểu nếu cần. Hoặc nếu cần đi đại tiện, cậu bé sẽ ngồi xuống, ngửa mặt nhìn trời trong khi đẩy chất thải ra. Có lẽ là để tìm bóng dáng của những con chim trời. Cũng có thể không phải thế.
Không còn thói quen vệ sinh. Và một lần nữa, Clay không thể không nghĩ đến những con chó mà anh đã từng nuôi.
Chỉ có điều chó không thức dậy và la hét đến 15 phút vào lúc nữa đêm, đêm nào cũng như đêm nào.
Đêm đầu tiên, họ ở tại ngôi nhà cách Trạm mua bán Newfield không xa, và khi tiếng la hét bắt đầu cất lên, Clay đã nghĩ là Johnny sắp chết. Và cho dù cậu bé đã ngủ trở lại trong khi anh tỉnh dậy, cậu bé biến mất. Johnny không nằm trên giường nữa mà chui xuống dưới gầm giường. Clay bò vào và lôi đứa bé đang nằm co quắp trong đó ra. Đứa bé la hét ầm ĩ, to hơn mức mà anh có thể hình dung, và Clay hiểu rằng những âm thanh đó đã được phóng đại trong đầu óc anh. Tất cả sợi lông trên người và tóc trên đầu anh đều dựng đứng.
Johnny vừa giẫy giụa vừa la hét dưới gầm giường trong suốt 15 phút, rồi dừng lại một cách đột ngột như lúc bắt đầu. Cậu bé co quắp lại, một cánh tay cho ra sau gáy. Clay phải ghé tai vào sườn cậu bé (gầm giường quá thấm) để nghe xem cậu bé có còn thở không.
Anh lôi cậu bé ra, và đặt cái thân người bé nhỏ bẩn thỉu ấy lên giường. Anh cứ nằm đó với đôi mắt mở chong chong bên cái thân hình ấy. Rồi anh cũng ngủ thiếp đi. Khi anh tỉnh dậy vào sáng hôm sau, Johnny lại không còn nằm bên anh nữa. Cậu bé đã lại chui xuống dưới gầm giường. Giống một con chó vừa bị đòn chui vào xó xỉnh nhỏ bé nhất mà nó tìm thấy để trốn. Không giống với hành vi thông thường của người điện thoại, có vẻ thế… nhưng tất nhiên Johnny không giống bọn họ. Johnny là phiên bản mới, cầu Chúa phù hộ nó.