QUYỂN BỐN Chương một
Năm mới qua rồi.
Rằm tháng Giêng cũng đã qua. Ngay cả tháng Giêng cũng từng ngày từng ngày trôi mất. Cuộc sống vẫn như cũ, nắng chiếu thì ấm, gió thổi thì lạnh, bị bệnh nhiệt thì đun thuốc, có người chết thì chôn.
Chôn người xong, nghĩ ra thì ở trong trường vẫn tốt. Người bệnh nhiệt và người bệnh nhiệt ở cùng nhau, nói nói cười cười, cuộc sống nhẹ nhõm và vui vẻ. Những người bệnh nhiệt ở tản mát trong nhà mình, nỗi cô đơn chất đầy nhà, đắp đầy sân, bệnh lại càng thêm nặng, ba phần thành bảy phần. Bệnh bảy phần thì sắp chết. Họ lại muốn đến trường học sống cuộc sống tập thể. Muốn vào trong trường, nhân việc mọi người đi tìm bố tôi đòi quan tài, cự cãi, lời qua tiếng lại, không bằng đến trường nói với ông tôi. Nói cho cùng, ông tôi vẫn là bố của bố tôi, cốt nhục tình thân.
Ngày hôm đó, sau khi ăn sáng xong, mặt trời đang lơ lửng chiếu, trong thôn ấm như có lửa liu riu sưởi. Triệu Đức Toàn, Đinh Dược Tiến, Giả Căn Trụ, Đinh Trúc Hỷ, Triệu Tú Cần, đều đang sưởi trong thôn. Chú tôi và Linh Linh, cũng đang sưởi ấm, họ đang đứng, nhìn nhau xuyên qua cả đám người.
Họ là những kẻ trộm yêu. Yêu như kẻ trộm vậy.
Trong lúc họ đang yêu trộm, có người bảo: “Ai đi nói với thầy giáo Đinh mọi người vẫn sống tiếp ở trong trường đi.”
Chú tôi liền cười, nói với cả đám người có bệnh nhiệt, nói: “Tôi đi cho.” Mọi người đều nói anh đi thì tốt, anh đi thì tốt. Chú tôi liền nhìn mọi người nói lớn: “Ai đi cùng với tôi?” Không chờ có người đáp, chú lại nói tiếp luôn: “Linh Linh, em đi cùng anh có được không?” Linh Linh đang do dự, Triệu Tú Cần liền gào lớn: “Linh Linh, cô đi đi. Bệnh cô nhẹ, chân còn khỏe.”
Linh Linh liền cùng với chú tôi ra khỏi Đinh Trang, đi về phía trường học.
Con đường không xa. Tiểu mạch hai bên đường đã hiện màu xanh trong mùa đông ấm, có mùi mạ xanh non bay bay trong nắng. Trong cái trong suốt của bình nguyên, thôn Liễu Trang, thôn Lý Nhị phía xa nằm như cái bóng trên mặt đất dưới bầu trời quang đãng. Đinh Trang phía sau họ rất gần, nhưng đầu thôn không có người. Mọi người đều tập trung ở sân ăn cơm giữa thôn để sưởi ấm. Chú tôi và Linh Linh sánh vai nhau, quay về phía sau nhìn nhìn, hướng về phía trước nhìn nhìn, chú liền kéo tay Linh Linh.
Linh Linh khẽ kinh ngạc, cũng quay về phía sau nhìn nhìn, hướng về phía trước nhìn nhìn.
Chú tôi nói: “Không có người.”
Linh Linh cười: “Nhớ em rồi à?”
Chú tôi nói: “Em không nhớ anh sao?”
Linh Linh nghiêm mặt: “Không.”
Chú nói: “Anh không tin.”
Linh Linh nói: “Em ngày ngày nghĩ đến bệnh của mình, không biết ngày nào em sẽ chết.”
Chú nhìn vào mặt Linh Linh, phát hiện ra sắc mặt cô khô hơn năm trước rất nhiều, thấp thoáng màu đen của người sắp chết, giống như một miếng vải đỏ pha chút đen lại bọc lên chút nước vàng nhờ. Trước Tết mặt cô còn ít mụn nhọt, sau Tết trên trán đã mọc lên mười mấy cái, màu nâu đỏ, còn có thêm ít mủ. Chú tôi cầm lấy tay Linh Linh, lật trước lật sau xem, nhìn thấy trên mu bàn tay, cánh tay, không có những nốt mụn mới, trên da vẫn còn hé lên ánh sáng ở độ tuổi của cô. Ánh sáng của cô dâu mới, hai mươi mấy tuổi. “Không sao,” chú tôi nói. “Yên tâm đi.”
Linh Linh nói: “Anh hiểu à?”
“Anh bệnh đã gần một năm, thành bác sĩ rồi.” Chú cười nói: “Để anh xem mụn trên hông em thế nào.”
Linh Linh liền đứng lại, nhìn chăm chăm vào mặt chú.
“Linh Linh, anh nhớ em không chịu nổi.” Chú nói rồi kéo cô vào trong đám cỏ bên đường. Đất nhà ai không trồng nữa, bỏ hoang, cỏ mọc quá đầu gối. Cuối đông rồi, cỏ tuy còn khô, nhưng vẫn cao quá gối, hiện rõ vẻ tươi tốt của năm trước. Trong mùi cỏ khô có mùi nấm mốc, tỏa ra trong ngày đông, nhưng vẫn có thể làm mát phổi hơn cả cỏ xanh mạ non. Linh Linh khăng khăng không đi vào trong bãi cỏ. Chú tôi nói: “Em thật sự không nhớ anh?” Linh Linh nói: “Nhớ.” Chú tôi lại dùng sức kéo tay Linh Linh, cô nói: “Chẳng có ý nghĩa gì, sống chẳng có ý nghĩa gì.” Chú liền vừa kéo mạnh vừa nói: “Không có ý nghĩa, cho dù sống một ngày thì cũng phải sống một ngày có ý nghĩa.” Rồi cứ thế kéo cô đi vào trong đám cỏ. Người trước người sau giẫm lên cỏ khô đi vào, đến chỗ cỏ rậm thì ngồi xuống, xô đổ đám cỏ đó.
Nằm xuống, lại đè ngã đám cỏ.
Họ ở trong chính đám cỏ đó làm chuyện nam nữ.
Họ làm việc đó như điên. Chú tôi như điên. Linh Linh cũng như điên. Cả hai đều như điên. Quên cả bệnh, như không có bệnh. Mặt trời chiếu sau lưng họ, chú tôi nhìn thấy mụn trên người Linh Linh đầy máu, sáng như mã não đỏ. Trên eo, trên lưng cũng đều có những nốt mụn đó, như những chiếc bóng đèn hình bầu vú bên đường trong thành phố. Đến lúc kích động, trên mặt cô tỏa ra ánh sáng, màu đen khô khốc sáng lên màu đỏ máu, như pha lê phản chiếu dưới nắng mặt trời. Lúc đó, chú liền phát hiện ra cô không chỉ trẻ, mà còn xinh đẹp, mắt to, long lanh đen láy; sống mũi thẳng, nhìn nghiêng thẳng tắp giống như cây đũa. Cô nằm ở chỗ khuất gió trong đám cỏ, trong đám cỏ khô, người vốn khô héo, nhưng trong chớp mắt lại xinh đẹp. Như nước long lanh. Trên người tuy có mụn, nhưng chính những cái mụn đó lại làm nền để vẻ non tơ trên người cô hiện rõ hơn. Màu trắng trên người cô, như mây trắng trên trời rơi xuống. Chú phát điên lên. Cô liền đón lấy sự điên cuồng của chú, như mầm cỏ trên bình nguyên đón lấy sự ấm áp của ngày xuân.
Cơn điên qua rồi, có mồ hôi, và cũng có nước mắt. Họ nằm thẳng, vai kề vai, lim dim mắt nhìn nắng trên trời.
Chú tôi nói: “Em là vợ anh thì tốt.”
Linh Linh nói: “Em đoán em không sống được quá năm nay.”
Chú tôi nói: “Cho dù em không sống quá được một tháng, nếu em muốn lấy anh, anh sẽ dám lấy em.”
Linh Linh nói: “Chị dâu Đình Đình thì sao?”
Chú tôi nói: “Để ý cô ta làm gì.”
Linh Linh liền ngồi dậy trên nền cỏ, nghĩ ngợi một lúc nói: “Thôi, anh và em đều là người sắp chết.” Chú tôi cũng ngồi dậy nghĩ một lát, cũng cảm thấy không đáng, liền cùng đứng dậy, nhìn nhìn đám cỏ bị ép đổ đó, đều cười.
Cười gượng gạo, nhếch môi cười đi về phía trường học.
Ông đang thu dọn phòng học lớn mà trước Tết mọi người thường tập trung, dùng giẻ lau những hình chó, lợn và rùa mà ai đó dùng phấn vẽ trên bảng, còn viết tên người lên trên những con lợn, chó, và rùa đó. Khi lau, ông nhìn thấy chú tôi đứng cười ngoài cửa, ông liền hỏi:
“Con viết à?”
Chú tôi nói: “Mọi người lại muốn trở về sống trong trường học.”
Ông tôi nói: “Nên để bọn trẻ đến trường.”
Chú liền nói: “Người lớn sắp chết rồi, bọn trẻ đi học làm gì?”
Ông liền nói: “Người lớn chết rồi bọn trẻ vẫn phải sống mà.”
“Người lớn chết hết thì ai nuôi bọn trẻ?” Linh Linh nhìn mặt ông tôi, đột nhiên cảm thấy sự thân thiết trên mặt của ông, như người bố chồng mà cô chưa từng gặp. Bố chồng cô chết sớm. Khi cô được gả đến Đinh Trang, chỉ nhìn thấy ảnh của bố chồng trên chiếc bàn ở chính đường trong nhà, đằng sau vẻ gầy guộc là tấm lòng vẫn còn luyến lưu cuộc sống. Bây giờ cô đã coi ông tôi là bố chồng, khi hỏi, cô nhìn vào mặt ông, nói: “Bác, bác nghĩ xem, người lớn có thể sống thêm một ngày, chẳng phải bọn trẻ sẽ bớt đi một ngày mồ côi, bớt đi một ngày chịu tội sao?”
Ông liền mắc giẻ lau lên chiếc đinh đóng trên khung bảng đen, vỗ vỗ bụi phấn trên tay: “Vậy thì để người bệnh đến đi.”
Linh Linh liền cùng với chú tôi trở về thôn thông báo cho mọi người việc trở lại sống trong trường học. Ra khỏi cửa trường học, họ lại nắm tay. Đến đám cỏ khô rậm rạp đó, họ nhìn nhau một chút, không nói gì, cứ nhìn như thế, rồi tay nắm tay đi vào trong đám cỏ rậm rạp.
Họ ngồi xuống.
Nằm xuống.
Nắng từ chính đỉnh chiếu lên thân thể trần truồng của họ.
⚝ 2 ⚝Muốn vào sống trong trường, đầu tiên cần phải thu lương thực của người bệnh. Tiêu chuẩn cũ, mỗi người mỗi tháng bao nhiêu bột, bao nhiêu bột ngô hoặc gạo. Liền thu lương thực ở giữa thôn, bột nộp lên đóng vào một túi, gạo nộp lên đóng vào một túi, đậu lớn đậu nhỏ trộn lẫn đóng vào một túi. Dược Tiến làm kế toán, anh ta đang cân, nhiều bớt ít bù, bảo mọi người đem ngô khoai, thóc gạo đổ vào trong túi tập thể. Triệu Tú Cần lo việc nấu cơm, không cần phải nộp lương thực, chờ khi lương thực thu nộp xong rồi, chị sẽ đem những túi gạo, túi mì tập trung buộc miệng lại. Khi buộc miệng bao, không hiểu sao chị phát hiện ra trong bao bột đã đựng đầy lại nhét mấy viên gạch. Một viên gạch nặng tròn năm cân, bốn viên gạch là hai mươi cân. Đi sờ tiếp một bao bột khác, không sờ ra gạch, nhưng lại sờ ra một hòn đá bằng cái bát. Lại đến bao gạo sờ, không có gạch, không có đá, nhưng có mấy viên ngói nặng mấy cân trong bao gạo. Liền đem gạch, đá, ngói sờ ra đó vứt hết ở giữa đường, cả một đống loảng xoảng loảng xoảng. Một đống. Đá như cái đầu húi cua của cánh đàn ông. Gạch ngói như bánh ngọt và bánh nướng làm bằng bột. Những viên gạch ngói đá dính bột chất đống lại trên đất, nặng đến hơn trăm cân. Tổng cộng thu được bốn bao rưỡi bột trắng, hai bao rưỡi gạo, hơn một bao đậu, và mấy bao ngô, gạch ngói đá đã chiếm trọng lượng hơn một bao. Mọi người đều ngạc nhiên vây lấy chỗ gạch đá đó, nói những lời nguyền rủa.
Nói: “Bà nội ơi, thế mới biết lòng người, đã mắc bệnh nhiệt rồi còn tham lam.”
Nói: “Mẹ kiếp! Sắp chết cả rồi còn làm việc thất đức thế này.”
Triệu Tú Cần liền nhấc một viên gạch còn dính bột, gào lên: “Có gan thì mày đứng ra đây, mỗi người nộp năm mươi cân bột, mày để bốn viên gạch, một mình mày nộp thiếu hai mươi cân.” Mắng: “Mày là kẻ lòng lang dạ sói, mày nộp ít hơn hai mươi cân, đến khi tao nấu cơm, lương thực không đủ, mọi người lại nghĩ Triệu Tú Cần này ăn cắp.”
Chị giơ viên gạch lên trước hết bao bột này đến bao bột khác, xé cổ họng ra gào: “Này, dân Đinh Trang, mọi người đều nhìn thấy rồi chứ? Trước đây mọi người đều chửi Triệu Tú Cần tôi là kẻ trộm trong thôn, tôi có trộm chẳng qua cũng chỉ là tiện đường đến vườn nhà người ta nhổ một cây hành, nhìn thấy củ cải thì nhổ củ cải về cho chồng con ăn, nhìn thấy dưa chuột thì hái một quả ăn cho đỡ khát. Nhưng kẻ không phải trộm này lại dám đặt bốn viên gạch trong năm mươi cân bột. Dám đặt mấy hòn đá to trong nửa bao gạo. Triệu Tú Cần vứt gạch trong tay xuống bên cạnh một bao bột, rồi lại đi ôm lấy viên đá trắng còn dính bột. Viên đá to như cái bát, trước đây khi chưa có bệnh, một mình chị có thể ôm mấy viên, có thể gánh hai giỏ, nhưng bây giờ, có bệnh nhiệt rồi, không có sức nữa, mới đầu chị không ôm nổi viên đá đó, phải ôm thêm một lúc nữa mới nhấc được lên, như ôm cái đầu của một đứa trẻ con, đi đi lại trong đám người hét:
“Mọi người xem, hòn đá này rốt cuộc nặng bao nhiêu, đến tôi cũng ôm không nổi. Không biết tên khốn nạn hèn mạt nào lại coi hòn đá này là lúa gạo, có bản lĩnh thì mày ra đây ôm hòn đá này về nhà mày, cho vào nồi mà luộc.” Chị vứt hòn đá xuống đất đánh cộc một phát, chân phải giẫm lên đá, chân trái duỗi thẳng ra, tay chống nạnh như đàn ông chửi:
“Xoong nồi nhà mày hàng ngày chỉ nấu đá không nấu cơm à? Già trẻ nhà mày chỉ ăn gió ị sương à? Nhà mày bưng chậu gạch ngói ra để báo hiếu bố mẹ chúng mày à?”
Triệu Tú Cần chửi rủa trong đám đông, vừa đi vừa chửi, chửi mệt quá thì ngồi bệt lên một bao lương thực. Thời điểm mọi người nộp lương thực là sau bữa trưa, lúc này, mặt trời đã chính ngọ, tụ lại trên đỉnh thôn. Thôn trang ấm như được ủ trong chăn. Đông chưa đi, xuân đã tới, mọi người đều vẫn mặc áo bông, khoác áo khoác lớn, áo khoác nhỏ. Người già còn khoác áo bằng da dê trên người. Nhưng trên trạc cây hòe trong thôn đã mọc những mầm non xanh, mầm non vàng, màu vàng xanh trong suốt trên chẽ cây như những giọt nước trong nắng. Tất cả mọi người, tất cả người trong thôn đều ra khỏi nhà, trưng thu lương thực là một việc có chút náo nhiệt. Trong lương thực có gạch đá thì càng là việc không thể náo nhiệt hơn. Hai năm nay, sau khi trong thôn có bệnh nhiệt, trong thôn chưa có việc nào náo nhiệt như thế, già trẻ trai gái liền ra khỏi nhà, dồn tới xem, vây lại xem, mắng kẻ thất đức đó.
Nhìn Triệu Tú Cần mắng kẻ thất đức đó.
Giả Căn Trụ là người mới mắc bệnh nhiệt, là người muốn đến sống trong trường học nhất. Anh ta đi thì mẹ anh ta không cần phải khóc thầm khi nhìn anh ta mỗi ngày. Vợ anh cũng không cần lo lắng bệnh nhiệt sẽ truyền cho chị và các con nữa. Khi nộp lương thực, anh ta nộp gạo trắng nhất, bột mịn nhất, khi nhìn thấy mọi người không nộp gạo trắng bột mịn như mình, anh ta cảm thấy bị thiệt. Lúc này, anh cảm thấy lỗ vốn lớn rồi. Liền nhìn vào đống gạch đá nói:
“Mẹ kiếp! Mẹ kiếp! Trả bột gạo lại cho tôi, tôi không đến cái trường đó nữa.”
Chú tôi nói: “Nếu trả thì trừ của anh mười cân bột.”
Căn Trụ trừng mắt: “Vì sao?”
Nói: “Mọi người đều rút thì gạch đá trả cho ai?”
Căn Trụ nghĩ một lúc: “Mẹ kiếp, vậy tôi vẫn đến trường ở.”
Đứng trước đống gạch ngói đó, tất cả những người nộp lương thực Đinh Trang đều đưa tay ra sờ, mặt trời đã chếch về tây, trên đường thôn đã có sắc đỏ. Gió cuối đông, hình như là gió cuối đông thổi trên bình nguyên, mọi người ở trên đường đều xoa xoa tay cho ấm. Lúc này, ông tôi đi đến. Ông không chờ được người trong thôn nên đã từ trường học đến. Sau khi hỏi tình hình, ông liền đứng bên đống gạch đá đó nhìn một lát, nói: “Không tìm được kẻ gian thì mọi người không đến trường học nữa sao?”
Người trong thôn nói: “Đến chứ, ai lại muốn chờ chết ở nhà.”
Ông tôi nói: “Vậy thì đi thôi.”
Nhưng mọi người đều đứng im, đều nhìn vào đống gạch đá trên đường, như thể mỗi người đều đang phải chịu nỗi thiệt thòi vô cùng lớn. Thực ra cũng chẳng phải thiệt thòi gì lớn lắm, chỉ là cảm thấy mình không chiếm được món hời đó.
Tất cả đều sững lại, không ai động tĩnh gì.
Ông tôi nói: “Nếu không đến trường thì mọi người về đi.”
Mọi người vẫn không nói gì như cũ.
Ông tôi nói: “Nếu đi thì mau mau tìm cái xe kéo lương thực về trường.”
Những người đang đứng, đang ngồi, đang hai tay đút ống tay áo hoặc túi áo ngơ ngác nhìn nhau, im lặng một hồi, dù sao cũng cảm thấy sự tình không nên như vậy. Tất cả đều bất động giữa thôn, trong cái tĩnh lặng đó, mặt trời kẽo kẹt chuyển về tây, như quả cầu lửa sắp rơi tỏa ra những tia nắng và hơi ấm cuối cùng. Cuối cùng, ông tôi thấy mọi người không nói gì, không làm gì, liền hỏi Đinh Dược Tiến:
“Chỗ gạch đá này nặng bao nhiêu?”
Dược Tiến nói: “Cân thử nhé.”
Giả Căn Trụ và Triệu Đức Toàn liền đặt chỗ gạch đá còn dính bột đó vào những cái làn, để Dược Tiến cân từng làn từng làn một. Tổng cộng, tất cả chín mươi sáu cân, ông tôi lại hỏi tất cả có bao nhiêu người đến trường ở, bổ theo đầu người, bình quân mỗi người bao nhiêu lương thô và lương tinh, nhưng chưa kịp nói xong, Giả Căn Trụ liền đứng dậy trước mặt ông nói: “Thầy giáo Đinh, đánh chết tôi cũng không chia chỗ lương thực này, không tin thầy hỏi Đinh Dược Tiến, gạo và bột tôi nộp là loại tốt nhất. Hạt gạo vừa to vừa trắng, như răng sữa trẻ con, bột tinh như bọt nước bắn trên sông.”
Sau khi Giả Căn Trụ nói xong, Triệu Đức Toàn cũng nói theo, ngồi xổm bên một bao bột, cuối cùng cũng lầu bầu bật ra được một câu: “Tôi… tôi cũng không chia chỗ lương thực này.”
Mọi người cũng đều nói không chia chỗ lương thực đó.
Ông tôi đứng một lúc, nghĩ một lúc, không nói gì, đi về phía đông thôn. Đi về phía phố mới, để mọi người lại giữa thôn. Người trong thôn không biết ông tôi sắp làm gì, nên đều ở giữa thôn chờ ông, như trời hạn chờ một trận mưa. Không lâu sau, quả nhiên ông tôi quay lại. Từ phố mới quay lại, trong bóng chiều tà của thôn trang, ông tôi bắt bố tôi dùng xe đạp chở hai bao bột. Hai cha con họ người trước người sau, bố trước ông sau giẫm lên sự yên tĩnh của thôn trang, đón lấy ánh mắt kinh ngạc của mọi người. Họ đi thong thả, không nhanh không chậm, dây xích chiếc xe đạp mà bố đẩy kêu lanh canh lanh canh, như hát, lúc đến gần, mọi người đều nhìn thấy thứ mà bố tôi chở toàn là bột tiêu chuẩn của xưởng bột nhà nước. Bột nhà tôi ăn đều là bột tiêu chuẩn của người thành phố. Bố đẩy bột phía trước, ông theo phía sau xe. Lúc đầu, trên mặt bố có vẻ lạnh lùng khinh khỉnh, bộ dạng rất coi thường người Đinh Trang, nhưng khi bố sắp đến ngã tư, chờ khi người trong thôn có thể nhìn thấy sắc mặt của bố, bố lại nở nụ cười hết cỡ, cười xán lạn, đi đến đám người nhìn Đinh Dược Tiến, Giả Căn Trụ cùng Triệu Tú Cần, và cả những người khác, những người từng đến nhà bố đòi quan tài, cười nói: “Chẳng phải chỉ là chín mươi mấy cân bột sao, hàng xóm láng giềng, đã bệnh đến mức này, có đáng để so đo vậy hay không?”
Nói rồi, bố nhìn nhìn đống đá còn dính bột đó, dỡ hai túi bột xuống bên chỗ lương thực trưng thu, vỗ vỗ vào chỗ ngồi sau xe còn dính bột trắng: “Đây là một trăm cân, đều là bột tinh mà người thành phố ăn, xem như là tấm lòng mà Đinh Lượng em tôi dành cho mọi người.” Nói xong, bố liền quay đầu xe, giọng đanh lại: “Mọi người hãy nhớ rõ, ở Đinh Trang, Đinh Huy tôi sẽ không làm bất cứ việc gì có lỗi với mọi người. Chỉ có mọi người có lỗi với Đinh Huy, không có chuyện Đinh Huy có lỗi với mọi người.”
Nói xong bố liền đi.
Nói xong rồi đi.
Bố đẩy xe, bước vài bước rồi đạp xe đi mất, biến mất rất nhanh.
Mọi việc đã được giải quyết như vậy. Người Đinh Trang dần dần ngộ ra, khi ngộ ra, cảm thấy có lỗi với bố tôi, có lỗi với nhà họ Đinh, từ đó không còn nghi ngờ gì bố tôi nữa, cũng thêm phần kính trọng ông tôi.
Đêm đến, trường học vẫn như mọi ngày, trước đây ai ngủ ở đâu, thì giờ ngủ chỗ đó. Chú tôi vẫn ngủ trong phòng của ông. Trước khi ngủ, họ vặn nhỏ đèn nằm trên giường nói chuyện.
Chú tôi nói: “Mẹ kiếp, lỗ vốn rồi.”
Ông tôi nói: “Sao vậy?”
Chú tôi nói: “Con chỉ bỏ một viên đá vào trong bột, anh con đã phải cho người ta hai túi bột.”
Ông liền ngồi dậy, nhìn ra cửa sổ chỗ chú hai không nói gì.
Chú hai nói: “Bố, bố đoán xem ai đã để chỗ gạch đó vào trong bột.”
Chú hai nói: “Con đoán là Dược Tiến. Anh ta cân, chỉ có anh ta cân, mới dám đặt bốn viên gạch vào một túi, hai mươi cân. Hơn nữa, năm ngoái khi vợ anh ta chết, nhà anh ta từng mua gạch, mua gạch xây mộ cho vợ anh ta.”
Đang nói như thế, bên ngoài cửa sổ có tiếng động, nghe như tiếng ho, ho một cái, âm thanh đó liền đột nhiên im bặt, chỉ còn tiếng bước chân không biết đi về phía nào. Chú tôi nghe âm thanh đó, rồi lại nói chuyện với ông một chút, nói muốn ra ngoài đi vệ sinh, rồi mặc áo lên bám theo âm thanh đó.
⚝ 3 ⚝Nửa tháng sau, chú và Linh Linh bị khóa trong gian phòng đựng bột và gạo đó, khi ông tôi bị gọi đến, tất cả những người bị bệnh nhiệt trong trường đều vây trước cửa.
Đêm vẫn sáng vằng vặc, ánh trăng như nước rắc xuống sân trường, mọi người đang đứng nhộn nhạo trước cánh cửa, đều nói mở cửa ra, mở để họ ra đi, nhưng lại không tìm thấy chìa khóa ở đâu. Mọi người đều mặc áo để ra ngoài hóng hớt. Hóng trò vui. Hóng xem đôi gian phu dâm phụ đáng xem nhất trong thiên hạ bị bắt.
Chờ tiếng bước chân ồn ào ngoài cửa yên tĩnh trở lại, chú tôi gào lên ở trong phòng: “Toàn là người sắp chết, toàn là người sống hôm nay không biết ngày mai, mọi người đối xử với tôi và Linh Linh như vậy có nhẫn tâm không?”
Triệu Tú Cần liền bước ra khỏi đám người, bật đèn nhà bếp, để ánh đèn từ cửa bếp ánh ra chiếu sáng ổ khóa của nhà kho bên cạnh. Thấy đó là khóa mới, nhìn rõ cả nước sơn đen bóng trên chiếc khóa, liền nói to với bên trong: “Em Lượng à, cửa này không phải chị khóa đâu. Chị đã sớm nhìn ra em với Linh Linh rồi, nhưng chị không hề nói với ai. Miệng của chị đóng chặt như cánh cửa này. Chiếc khóa này là khóa sắt mới ai đó đã mang từ nhà đến, người ta đã sớm muốn bắt quả tang em và Linh Linh rồi.”
Chú liền trầm ngâm một lúc trong phòng, rồi tức giận gào lớn với bên ngoài: “Bắt thì có cái gì? Bây giờ bắn chết, tôi cũng không sợ. Mấy người mắc bệnh cùng lúc với tôi đã chết cả rồi, tôi vẫn còn sống là may lắm, tôi sợ gì cái việc bắt gian.”
Bên ngoài trở nên tĩnh lặng, không ai có gì để nói nữa, như thể nhốt chú tôi và Linh Linh trong phòng là một việc sai lầm. Việc cực là sai lầm. Còn chú tôi và Linh Linh hoan lạc vụng trộm trong phòng mới là đúng, là chính xác. Đinh Mạch Toàn, Vương Quý Tử, Giả Căn Trụ, Đinh Dược Tiến, Triệu Tú Cần, cả đám người, đứng ngoài cửa nhìn lẫn nhau, không biết nên nói gì thì tốt.
Trong đám người, Triệu Đức Toàn là người có tuổi hơn cả, ông mượn ánh đèn nhìn mọi người trước cửa, nói như cầu xin thay cho chú:
“Mở cửa ra đi.”
Giả Căn Trụ liền nhìn ông: “Ông có chìa khóa à.”
Triệu Đức Toàn liền ngồi yên trên đất như một khúc gỗ, bất động không nói năng gì.
Đinh Dược Tiến liền đi ra khỏi đám người, đến trước cửa kéo ổ khóa đó ra xem, quay đầu lại hỏi đám người: “Ai khóa cửa vậy?” Nói: “Đều là người sắp chết rồi, còn bắt kẻ gian dâm làm gì, có thể vui vẻ một ngày thì để họ vui vẻ một ngày.” Nói: “Mau mở cửa ra đi, Đinh Lượng tốt hơn Đinh Huy anh trai nó nhiều. Mở cửa ra đi.”
Giả Căn Trụ cũng đi lên phía trước nhìn nhìn chiếc khóa, quay đầu lại nói: “Mở cửa ra đi, Đinh Lượng và Linh Linh đều mới ngoài hai mươi, sống ngày nào thì họ phải được làm người ngày ấy, đừng để chuyện bé xé ra to, ảnh hưởng đến gia đình họ, như thế họ không có cách nào có thể làm người nữa.”
Tất cả đều đi lên phía trước nhìn ổ khóa, đều quay đầu lại nói những lời như mau mở cửa ra, nhưng lại không biết ai là người khóa cửa, không biết chìa khóa trong tay ai. Linh Linh liền òa khóc trong phòng, ngồi khóc ở một góc tường. Tiếng khóc từ trong phòng truyền ra ngoài như gió xuyên tường, mọi người đều cảm thấy cô đáng thương, mới ngoài hai mươi tuổi, gả đến Đinh Trang chưa kịp vui duyên mới được bao lâu, thì phát hiện mình mắc bệnh nhiệt. Không biết là cô phát hiện ra mình có bệnh nhiệt thì mới vội vã gả đến Đinh Trang, hay là sau khi gả đi rồi thì mới phát hiện ra bệnh nhiệt, nói gì thì nói, cô cũng mang tai họa đến nhà chồng. Nói gì thì nói, cô vừa đến thì những tháng ngày bình yên của nhà chồng đã không còn nữa, như một khối pha lê bị cô đập vỡ, cuộc sống trở thành những mảnh vụn. Tất yếu, cô đáng phải chịu sự ghẻ lạnh của nhà chồng.
Vừa có bệnh, lại vừa ngoại tình, nếu để Đinh Tiểu Minh biết thì quả là việc không thể chịu đựng nổi. Đã ngoại tình, lại còn ngoại tình với Đinh Lượng, vốn là anh con chú con bác thân thích với nhà mình, điều này càng không thể chấp nhận được. Việc không thể giải quyết, chỉ có thể khóc, khóc một cách thống thiết thương tâm, đến khi tiếng khóc bi ai của Linh Linh to dần lên trong căn phòng đó, đến khi chú tôi ở trong phòng đập cửa sổ ầm ầm, ông tôi nghe thấy tiếng động đi ra. Mới biết chú tôi đêm nào cũng rời ông lúc nửa đêm, không phải là đi nói chuyện với người này người khác, hay là nói đến phòng khác đánh cờ, mà hóa ra đều là ra ngoài hoan lạc vụng trộm với Linh Linh.
Ông tôi giận đùng đùng đi đến, mọi người đều tự động tránh đường cho ông, để ông bước nhanh lên phía trước. Tất cả dần im lặng, chờ xem ông tôi sẽ xử lí việc này như thế nào. Tất cả đều nghe thấy chú tôi ở trong phòng gào lên: “Bố…”
Cuối cùng ông cũng đứng ở trước cửa, tức giận nói: “Bố mày đã sớm bị mày và anh trai mày làm cho tức chết rồi.”
Chú tôi nói: “Bố mở cửa ra đã, có gì nói sau.”
Ông không đáp lời.
Chú lại nói: “Bố mở cửa đã rồi nói sau.”
Ông quay người lại, nhìn người trong thôn, cầu xin mọi người đưa chìa khóa. Cực kì yên tĩnh, mọi người nhìn lẫn nhau, không ai biết ai đã khóa căn phòng đó, không ai biết ai đang cầm chìa khóa đó. Linh Linh cũng không khóc hu hu nữa, cô đứng cùng với chú tôi sau cánh cửa, chờ hễ cửa mở thì lao ra. Dù sống hay chết cũng phải lao ra. Nhưng không có ai lấy chìa khóa, cũng không có ai nói mình nhìn thấy kẻ đã khóa căn phòng đó. Bên ngoài trường, khí lạnh cuối đông đã dâng lên, tràn qua bức tường bao quanh sân trường như nước tràn qua đê. Có thể nghe thấy tiếng chuyển động của khí lạnh trên bình nguyên, kêu róc ra róc rách. Kêu róc rách trong cái yên tĩnh đó. Còn có tiếng của một loài trùng, tiếng của loài trùng nào đó thỉnh thoảng vẫn vang lên trong đêm mùa đông, kêu ri ri rít rít, không biết là tiếng kêu của cổ đạo Hoàng Hà trong đêm tĩnh, hay là tiếng thở và tiếng kêu của loài trùng nào đó ở sâu trong bình nguyên, tất cả đều có thể nghe thấy trong sự yên tĩnh thẳm sâu này.
Nghe thấy một cách rõ ràng.
Ông tôi nói: “Mọi người đưa chìa khóa cho tôi đi, không được thì tôi xin thay Lượng và Linh Linh quỳ trước mọi người được không?”
Ông tôi nói: “Tốt xấu đều là người một thôn, đều là người chẳng sống được bao lâu.”
Chú liền gào lên ở trong phòng: “Bố, bố phá khóa đi!”
Liền có người đi ra ngoài tìm đá, đến nhà bếp tìm chày và dao, lúc sắp nạy khóa và đập được khóa, thì đột nhiên không cần đập, không cần nạy nữa.
Chồng Đinh Tiểu Minh của Linh Linh vội vã từ trong thôn chạy đến trường.
Em con chú của chú, chú họ Đinh Tiểu Minh của tôi từ bên ngoài chạy vào trường.
Chú không có bệnh, bởi vì chưa từng bán máu nên chú không mắc bệnh nhiệt. Bố chú từng bán máu, nhưng bố chú đã phát bệnh chết từ rất nhiều năm trước rồi, hôm nay không cần phải chịu sự giày vò của căn bệnh này nữa. Chú họ không có bệnh, đang khỏe mạnh, từ ngoài cổng trường chú sải bước bước vào, bước thẳng đến đám người bên trong.
Không biết ai trong đám người phía sau bất ngờ nói: “Mau nhìn xem, mau nhìn xem, ai trông giống chồng của Linh Linh lắm.”
Tất cả mọi người đều đồng loạt quay đầu lại.
Tất cả đều nhìn Đinh Tiểu Minh lao về phía đám người, lao đến như hổ báo. Và tất cả đều nhìn thấy ông tôi đứng dưới ánh đèn, mặt biến thành màu trắng. Tái nhợt như bức tường trắng trong trường. Có thể nói thế này, bố chú Tiểu Minh nhỏ hơn ông tôi hai tuổi, là anh em cùng bố cùng mẹ, nhưng từ năm bán máu đó, sau khi nhà tôi xây nhà lầu, sau khi nhà chú hai xây nhà ngói, còn nhà họ vẫn ở nhà tranh vách đất, hai nhà vì điều này mà ít qua lại. Tiếp nữa, bố Tiểu Minh đột ngột qua đời, có một hôm mẹ Tiểu Minh đứng trên đường, vô duyên vô cớ chỉ vào ngôi nhà mái ngói của chú hai, nói: “Nơi nào có nhà ngói, nơi đó là kho máu của cả thôn.” Chỉ vào bức tường trắng của nhà tôi nói: “Làm gì có tường gạch men, đó là xương người đấy.” Những lời này truyền đến tai bố tôi và chú tôi, hai nhà bắt đầu chia rẽ, ngoài lúc thăm viếng mồ mả thì không đứng cùng một chỗ nữa.
Sau khi bệnh nhiệt tràn đến Đinh Trang, tôi bị đầu độc chết, tin tức truyền đến từng nhà, từng nhà Đinh Trang, truyền đến tai mẹ của chú Tiểu Minh, bà thốt lên nói báo ứng mà, quả là báo ứng. Mẹ tôi liền lao đến nhà Đinh Tiểu Minh, lại cãi nhau, lại đánh nhau, từ đó, hai nhà không qua lại nữa.
Từ đó, người một nhà liền trở thành hai nhà.
Nhưng bây giờ, chú tôi và Linh Linh xảy ra việc gian dâm, Đinh Tiểu Minh đã lao đến chỗ họ như hổ như báo. Mọi người đều vội vã tránh đường cho Tiểu Minh. Không chờ Tiểu Minh đến đã tránh đường rồi, không nhìn rõ sắc mặt của Tiểu Minh trong ánh trăng, nhưng đều cảm thấy lúc chú đi cuốn theo một luồng gió. Tiểu Minh lao đến con đường mà mọi người vừa tránh ra. Trong ánh đèn, sắc mặt của mọi người đều trở nên trắng nhợt, như thể màu bệnh nhiệt đã không còn trên mặt họ, không còn màu đen xỉn và khô héo của những vết mụn đang mọc, đang đóng vẩy, chỉ có một màu trắng như tờ giấy bị thấm nước rồi lại phơi khô. Màu trắng nhợt cắt không ra giọt máu.
Ông tôi đứng đờ trước cửa.
Tất cả mọi người đều đờ đẫn đứng trước cánh cửa đó.
Khoảnh khắc đó trở nên yên tĩnh, cực kì yên tĩnh, ngay cả tiếng ri ri rít rít trong đêm sâu trên bình nguyên cũng không còn nữa, biến mất rồi. Mọi người đều nhìn Đinh Tiểu Minh đi đến gian nhà kho đó. Lao đến. Nhìn chú lướt qua người ông tôi. Như ngọn gió lướt qua một cái cây khô héo.
Không ngờ, không ai có thể ngờ rằng, không ai có thể nghĩ rằng, chú họ tôi lại cầm trong tay chiếc chìa khóa màu trắng của gian nhà kho đó. Chú có chiếc chìa khóa đó. Đúng là chìa khóa đó. Chú đến đứng trước cửa, lấy chìa khóa để mở. Lúc đầu không mở được, chìa khóa bị cắm ngược vào ổ, không cắm được, chú lại xoay ngược chìa khóa lại.
Mở được rồi.
Tách một tiếng khóa liền bật ra.
Cửa mở rồi, sự việc như có một luồng khí lạnh ập tới giữa ngày hạ nóng, cái nóng khủng khiếp và lạnh khủng khiếp gặp nhau, tất yếu sẽ có mưa đá, đá kêu cồm cộp, kêu cồng cộc. Rơi một hồi. Rồi trận mưa đá ào ào qua đi, thời tiết lại trở về như cũ.
Cửa đã mở, chú họ tóm lấy Linh Linh trong tay, giống như Linh Linh đứng ở cửa để chờ chú tóm.
Chú liền tóm lấy Linh Linh lôi ra ngoài. Chú đậm người, không được tính là cao, hùng hùng hổ hổ túm lấy vai áo Linh Linh đi ra ngoài, như con hổ bắt một con dê. Đi ra ngoài, mặt Linh Linh hết xanh lại trắng, tóc vắt trên vai, như bị xách lên, hai chân đi như không chạm đất, giống như cô bị kéo hai chân quét lê trên đất. Đinh Tiểu Minh không nói một câu. Một câu cũng không nói, cứ đanh mặt lại như thế, lúc đầu lướt qua người ông tôi đang đứng ngây trước cửa, sau đó vụt qua con đường mà đám người tách ra. Linh Linh đang bị kéo theo cũng vụt qua trước mặt đám người, mặt trắng, trắng nhợt, như một tia chớp vụt qua. Khi Đinh Tiểu Minh đi qua người ông tôi, ông tôi không nói gì, chỉ quay người nhìn theo dáng đi nộ khí ầm ầm của chú, nhưng chờ khi chú đi qua người ông tôi rồi, ông liền đuổi lên trước một hai bước, cũng chỉ là một bước, đứng lại gọi lớn:
“Tiểu Minh…”
Chú họ dừng chân, quay người lại.
“Bệnh nhiệt của Linh Linh đã không còn nhẹ nữa, cháu bỏ qua cho cô ấy một lần đi.”
Không lập tức trả lời ngay, cũng không dừng lại lâu, chú họ Tiểu Minh của tôi đứng trong ánh đèn, nheo mắt nhìn ông tôi một cái, nhổ “phì” một cái xuống đất, nhổ “phì” một cái trước mặt ông, rồi lại hừ mũi, lạnh lùng nói:
“Ông quản con trai nhà ông đi!”
Và đi mất.
Quay người đi mất.
Quay phắt lôi Linh Linh đi mất.
Lúc này, những bệnh nhân bệnh nhiệt trong trường, Triệu Tú Cần, Đinh Dược Tiến, Giả Căn Trụ, Triệu Đức Toàn, bảy, tám người, tám, chín người, đều cảm thấy sự việc không nên như vậy. Một vở kịch lớn không nên hạ màn một cách giản đơn như vậy, họ cứ nhìn theo chú họ tôi kéo Linh Linh băng qua sân trường, bước qua cổng trường biến mất, tất cả vẫn còn đứng nguyên chỗ cũ, như thể chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra, tất cả đều đứng nguyên chỗ cũ.
Đều ngây ra như khúc gỗ.
Đứng ngây ra.
Đứng ngây ra không biết phải làm gì.
Ánh trăng đã chếch về tây.
Liền nhớ ra chú tôi. Nhớ ra việc thông dâm hẳn phải có hai người, người nữ đi rồi, vẫn còn người nam đó. Tất cả liền quay đầu lại. Liền nhìn thấy chú tôi không biết đã ra khỏi gian phòng từ khi nào, đã mặc áo quần tề chỉnh, ngay cả cúc cổ áo bông cũng được cài chắc chắn, ngồi trên bậu cửa nhà kho, đầu cúi xuống, như đứa trẻ không vào được nhà ngồi trên bậu cửa, để hai cánh tay thõng xuống hai đầu gối. Cánh tay thõng xuống, bàn tay rũ xuống, giống như một đứa trẻ không vào được nhà ngồi trên bậu cửa, đói lả, đầu rũ sâu xuống không còn sức lực.
Mọi người đều quay đầu nhìn chú hai tôi, nhìn ông. Chờ xem ông tôi, chú tôi sẽ làm gì sau đó.
Ông tôi liền bước lên trước. Nhấc mạnh chân lên trước, không nói lời nào đá lên người chú tôi một cái: “Còn không nhanh về phòng đi, muốn ở đây chết vì xấu hổ à.”
Chú tôi liền đứng dậy đi vào phòng. Khi đi qua đám người, không ngờ trên mặt chú lại nở nụ cười. Nụ cười được ép ra trên mặt, liếc đám người trong thôn, cười nhạt nói: “Mọi người cứ cười đi, mọi người cứ cười đi, xin mọi người đừng nói với vợ tôi. Sắp chết rồi, tôi còn làm cái việc sợ vợ tôi biết nhất.”
Chú đi rất xa rồi, còn quay đầu lại gào lớn dặn dò: “Xin mọi người, ngàn vạn lần đừng để vợ tôi biết.”