Chương năm
Khi ông đến nhà chú, chú đã dùng dao chém một nhát lên đùi mình, máu tuôn ra như nước suối. Hôm qua, ngã rách da trên đất, chú đau như sắp chết. Nhát chém này, cuối cùng cũng đến lượt chú qua đời. Đến lượt chú chết.
Linh Linh nằm đó chờ đợi, chú không thể không nhanh chóng chết để đuổi kịp cô. Chính lúc này, ông đến. Ông nhìn thấy máu đầy nhà, nhìn thấy Linh Linh đã ngủ bình yên trên giường nệm, chú ngồi bên người Linh Linh, hai tay ôm chặt lấy xương ống vừa dùng dao chém, không để máu chảy lên giường, chảy về phía thân thể đã ăn mặc tề chỉnh của Linh Linh. Vì chịu đau, cơn đau như khoan cắt, chú cắn môi, khiến cho môi và cằm bầm thành màu xám xịt. Giống như có một cục máu tụ dưới cằm. Nhịn đau, nhịn đau không kêu một tiếng, mồ hôi trên đầu bốc mù mịt ra ngoài, từng giọt từng giọt tí tách rơi trên giường đệm.
Chính lúc này, ông đến như một ngọn gió.
Lại là một buổi giữa trưa, Đinh Trang vẫn tĩnh lặng giống hệt ngày hôm trước, vẫn nóng y hệt thế, người trong thôn cũng đang nghỉ trưa ở nhà như thế. Những người bệnh trong trường học, cũng đều tìm ra chỗ thoáng gió để nghỉ trưa. Ông đang mơ màng nằm nghỉ, trong lúc mơ hồ, nghe thấy Linh Linh liên tiếp gọi bố, tiếng gọi như một lưỡi dao trắng tuyết bay loạn xạ trên bình nguyên. Ông tưởng rằng cô gọi ông, nhổm người ngồi dậy, nhưng không hề nhìn thấy Linh Linh trước mắt, ông có chút ngơ ngác, rồi lại nằm đổ xuống giường. Biết rằng tiếng gọi đó là từ ngoài cửa sổ, ngoài cửa chính chen vào, nghe một lát, ông lại ngủ thiếp đi, lại tiếp tục nghe thấy tiếng gọi bốn phương tám hướng ngổn ngang loạn xạ bay vào tai ông. Ông biết mình đang nằm mơ, liền để giấc mộng như nước dìm hẳn ông trên giường, dìm cả căn phòng và trường học, Đinh Trang và bình nguyên, cuối cùng cũng men theo tiếng gọi của Linh Linh, nhìn thấy chú từ trong phòng đi ra ngoài, Linh Linh quỳ xuống sau người chú, ôm lấy chân chú, gọi từng tiếng từng tiếng một, bố… bố không thể thế này!
Bố, bố nhất thiết không thể giống con.
Ông không biết vì sao Linh Linh lại gọi chú là bố, gọi chồng của cô là bố, mà không phải gọi là Lượng hay “này”. Ông cảm thấy mờ mịt trong tiếng gọi của Linh Linh, liền ở đó nghe cô gọi, nhìn họ giằng co và gào khóc, giống như xem một màn diễn trên sân khấu. Ông đứng đó nhìn bất động, nhìn thấy Linh Linh ôm một chân của chú, ngăn không cho chú từ trong phòng đi ra ngoài, nhưng vì cô gầy nhom và không có sức, chú vẫn kéo lê cô, kéo cô từ trong phòng ra ngoài sân. Cảnh tượng trong sân giống như khi chú và Linh Linh vẫn chưa từ bên ngoài chuyển về nhà ở, tán cây bào đồng che rợp cả góc sân lớn gần hai trăm mét vuông, từng đốm từng đốm nắng lọt xuống qua tán lá ken dày, cái sân râm mát ẩm ướt chỗ nào cũng là những đốm tròn sáng ngời rạng rỡ. Sợi dây thép để phơi quần áo vẫn kéo từ cây này sang cây khác như xưa, khiến hai thân cây bị siết ra vết sẹo sâu như ngón tay. Dưới chân tường nhà chính vẫn treo cái cuốc chim đã gỉ vì rất lâu không có người dùng đến.
Trước cửa nhà bếp vẫn bày cái máng đã từng cho lợn ăn. Nhưng bây giờ Đình Đình không ở đó nữa, con lợn cũng không còn, chỉ có cái máng không đặt đó. Còn lại không có gì khác với trước đây. Chỉ có một thứ khác duy nhất là, cái thùng tôn màu trắng, vốn khi không dùng thì đặt trong bếp, còn bây giờ nó lại bị tùy tiện đặt ở giữa sân, đặt ở chính giữa chặn đường mọi người, nước trong thùng chỉ còn một nửa, một cái gáo, vừa nhìn là biết ai đó trời nóng sau khi dội nước tắm xong đã không để thùng trở vào trong bếp. Khi ông nhìn thấy chú đi ra sân, nhìn ra chỗ cái thùng nước đó. Nhìn kĩ một hồi, bước qua cái thùng nước đó, kéo lê Linh Linh đang ôm lấy đùi chú vào trong bếp, đến trước cái bàn dài, chú nhấc con dao thái rau trên bàn lên, không hề do dự nhấc lên cao. Ông tưởng rằng chú nhấc con dao đó là muốn chém Linh Linh, đang lúc hoang mang muốn chạy đến ngăn chú lại, nhưng lại nhìn thấy chú nhấc đùi trái của mình lên, giẫm lên bàn, vèo một cái, liền cầm con dao chém xuống đùi mình.
Lúc chém xuống, chú còn thét lên một tiếng xé lòng, mẹ kiếp mày, vợ mày đã chết thì mày còn sống làm gì nữa.
Theo tiếng kêu của chú, ông lập tức sững người lại. Khi ông nhìn thấy dao giơ dao hạ, trước mắt có một tia sáng trắng, giống như một đường chớp rạch trước mắt ông. Ngay sau đó, cùng với khoảnh khắc mà con dao rút khỏi đùi chú, một luồng máu bắn ra, giống như nước đột ngột vọt ra trên đài phun nước của quảng trường ở Đông Kinh. Theo dòng suối bắn ra như cây nấm đó, xung quanh nguồn suối còn có những hạt máu đỏ như hạt ngọc. Khoảnh khắc đó, ánh mặt trời đang từ cửa sổ gian bếp chiếu vào, đang rơi trên người chú, luồng máu bắn lên giống như một cây cột trong suốt. Cây cột đó giống như cây đũa pha lê màu đỏ, nghiêng nghiêng bay cao chừng một thước, rồi lại đổ ầm xuống đất, bắn ra những chấm máu đỏ như hạt gạo tung tóe cả một vùng, máu liền chảy xuống đất theo chân chú.
Lúc này, Linh Linh đang quỳ gối gào khóc đột nhiên không khóc nữa, mặt trắng bệch đờ đẫn dưới bàn, nước mắt trên mặt ào ào tuôn ra.
Linh Linh gọi, Lượng… bố, bố thật là ngốc.
Chú liền cười với Linh Linh, cười bợt bạt võ vàng, cười như không còn một chút sức lực, nụ cười không ngừng lại lâu trên khuôn mặt, đau đớn ập mạnh lên người chú, chú liền đánh rơi con dao trong tay, dùng hai tay siết lấy vết chém lộ xương trắng thịt đỏ chừng hơn một tấc đó, khom lưng ngồi xuống dưới bàn, mồ hôi to như hạt đậu chi chít mọc dày trên trán chú.
Ông liền từ trường học ào đến nhà chú như một cơn gió, đẩy cánh cổng sân ra, quả nhiên nhìn thấy giữa sân có bày chiếc thùng tôn đó. Chiếc thùng tôn màu trắng. Trong thùng nước chỉ còn một nửa, cái gáo nổi trong thùng như chiếc thuyền. Tiếng kêu của ve sầu như trái quả chín mõm từ trên cây bào đồng trong sân rơi xuống. Chính trong những đốm nắng tròn rớt xuống ấy, trên đất có máu từ nhà bếp đến nhà chính. Trong sân còn có mùi máu. Ông sững lại trong sân, sững lại trong phút chốc, rồi hoang mang chạy lên nhà chính. Chạy như tên bắn. Xông vào phòng, liền nhìn thấy chú đã chết trên người Linh Linh, nằm sóng vai với cô, nằm ngửa, máu trên đùi chảy bên váy Linh Linh, làm cho bên váy cô nở đầy hoa.
⚝ 2 ⚝An táng cũng là một việc để giữ gìn thể diện.
Cũng trùng hợp, chú chết rồi, em trai Đinh Tiểu Dược của Dược Tiến cũng chết đúng vào thời điểm đó của ngày hôm đó. Khi Linh Linh chết, lại khéo trùng với thời điểm em họ Giả Hồng Lễ của Giả Căn Trụ chết. Bốn người chết, bốn người tạ thế, người lo việc mai táng trong thôn không đủ dùng. Khi ông vào thôn mời người đào mộ, tất cả mọi người đều nói không làm được, đều nói đã bị Chủ nhiệm Giả hoặc Chủ nhiệm Đinh mời trước một bước rồi. Nói nếu có thể để thi thể của chú và Linh Linh hai ngày, hơn hai ngày hoặc ba ngày, chờ sau khi chôn Tiểu Dược và Hồng Lễ mới có thể giúp đào mộ cho chú và Linh Linh.
Nói: “Hồng Lễ chết sớm hơn Linh Linh một lúc, Tiểu Dược chết sớm hơn Đinh Lượng một lúc, chôn người cũng phải có trật tự trước sau.”
Ông liền đi đến nhà Căn Trụ. Nhờ Căn Trụ bớt mấy nhân lực trong nhà, giúp ông an táng chú và Linh Linh. Căn Trụ liền nhìn ông hồi lâu không nói. Cuối cùng mở miệng đáp: “Ông quay về hỏi con cả nhà ông đi, nghe nói các Chủ nhiệm Ủy ban bệnh nhiệt thôn khác vì quản lí bệnh nhiệt tốt, bên trên đều thưởng cho một cỗ quan tài tốt, nhưng sao tôi và Dược Tiến vẫn không có?”
Ông liền đi đến nhà Dược Tiến, nhờ anh ta giúp bớt vài người lo việc tang lễ, Dược Tiến liền ngửa mặt lên nhìn trời, hỏi ông nói: “Chú, cán bộ thôn khác, bên trên đều phát cho một cỗ quan tài tốt, sao anh Đinh Huy lại không phát cho cháu và Căn Trụ?”
Ông liền ra khỏi nhà Căn Trụ. Ra khỏi nhà Đinh Dược Tiến, về đến nhà, ngồi canh bên thi thể của chú và Linh Linh, ngước nhìn trời, cúi nhìn đất, chờ bố tôi từ thành phố quay về. Cuối chiều, bố vội vã trở về, ngồi đối diện với ông trong góc sân nhà chú, đầu bức bí, không nói gì, ánh trăng ấm áp trải trong thôn, trong sân. Chú và thím Linh Linh nằm sóng đôi trên tấm ván cửa trên nhà chính. Sự tĩnh lặng trong nhà ngoài nhà, như không có người sống, cứ thế tĩnh đến nửa đêm, nghe thấy tiếng người đi giúp nhà họ Giả và nhà Dược Tiến đào mộ từ ngoài thôn trở về, bước qua trước cổng, ông mới ngẩng đầu nhìn bố tôi:
“Không thể không chôn được, quá ba ngày người sẽ bốc mùi.”
Nói: “Huy, con đều nhìn ra rồi, không phải là không đủ người, mà người trong thôn đều muốn thấy nhà họ Đinh chúng ta mất mặt.”
Nói: “Nếu sớm nghe lời bố, con có thể quỳ gối dập đầu trước người Đinh Trang, nói câu xin lỗi, mọi việc sẽ không đến mức như hôm nay.”
Bố liền chậm rãi đứng lên trước mặt ông, nhìn ông, hừ mũi một cái, nói: “Bố, yên tâm đi, bố xem con không cần một người Đinh Trang, không cần một chiếc xẻng của Đinh Trang, vẫn có thể chôn em và Linh Linh hiển hách thế nào.”
Nói xong câu này, bố liền ra khỏi sân nhà chú, lực dồn xuống bước chân, giống như có thể giẫm ra một cái hố trên đất, giống như không cẩn thận đá một hòn đá, một hòn gạch, có thể đá bay hòn đá, hòn gạch ra khỏi thôn, bay đến bên kia cổ đạo Hoàng Hà.
Rồi đi mất.
Để lại ông coi giữ bên thi thể của chú và Linh Linh.
⚝ 3 ⚝Yên tĩnh cả một đêm, không có việc gì bất ngờ xảy tới, nhưng ngày hôm sau khi trời vừa sáng, từ ngoài thôn có đến mười mấy người đàn ông bước đến. Đều là trai tráng khỏe mạnh của thôn bên, lớn thì chưa đến bốn mươi, nhỏ thì không dưới ba mươi, đều đang ở độ tuổi lí tưởng để làm việc, lại đều là thổ công xịn chuyên xây nhà đào mộ của các làng các thôn. Họ được một ông lão bảy mươi tuổi dẫn đầu, đến Đinh Trang, chỉ một ngày một đêm là đào xong mộ của chú và Linh Linh. Ở khu mộ phía nam thôn hơi chếch về tây của nhà tôi, bên dưới mộ bà nội tôi, trước hết đào một đường hào rất sâu, rồi lại mở một cánh cửa từ đường hào đó, từ cửa đào vào trong, đào ra một hang mộ to như một gian phòng lớn. Ngôi mộ này to hơn rất nhiều những ngôi mộ bình thường khác. Khỏi cần nói trước mắt chính là thời kì cao điểm của bệnh nhiệt trên bình nguyên, người chết nhiều như lá rụng, rụng ào ào, mộ không thể không đào nhỏ bằng một nửa so với trước đây, nhưng mộ chú tôi, là mộ đôi, còn to hơn mộ đôi của hồi chưa có bệnh nhiệt rất nhiều. To hơn rất nhiều.
Nếu chỉ to thôi thì cũng không phải nói nhiều, điều quan trọng là, trên tường mộ giống như một gian phòng này, những người lớn tuổi nhất trong mười mấy thợ đào mộ này lại dùng dao, xẻng và một chiếc xẻng nhỏ, trên một mặt của vách mộ đất pha cát, khắc bức tranh thành phố Đông Kinh trên cả một mặt tường, trong tranh có Long Đình và Thiết Tháp nổi tiếng của Đông Kinh, có hồ Phan Gia và hồ Dương Gia, còn có chùa Tướng Quốc được trùng tu từ thời Tống, Bao Công từ và miếu Đại Vũ trị thủy, làm cho tường mộ hiện rõ vẻ cố hương lại thêm phần cổ kính, giống như một bức tranh điêu khắc cung đình. Trên mặt kia của tường mộ thì khắc cao ốc và các tòa nhà cực lớn của Đông Kinh, có quảng trường, đài phun nước, còn có nơi làm việc của Chính quyền thành phố và Thị ủy. Còn có con phố đi bộ nổi tiếng. Trên phố đi bộ là dòng người đi lại như mắc cửi, cửa hàng này tiếp cửa hàng kia. Bức tranh cổ trên tường mộ bên trái lấy tên là Tống thành, bức tranh tân thời trên tường mộ bên phải lấy tên là Tần Đông Kinh, chữ được khắc ở trên đỉnh bức tranh. Tranh và chữ tuy không tinh như bút mực trên giấy, nhưng khắc tranh trong mộ thế này dù sao cũng là việc hiếm thấy trên bình nguyên. Là việc kì lạ trong thiên hạ đến với Đinh Trang, vì thế tin này liền truyền ra khắp thôn, đã có người bắt đầu đến mộ ngắm.
Từng đoàn, từng đoàn người đến ngắm mộ.
Xem xong rồi, đi ra nói mộ tốt thế nào, nét khắc tinh xảo thế nào, rồng và kì lân trên cột Long Đình đẹp và có hồn thế nào. Dường như có cả tiếng ồn ào trong dòng người trên phố đi bộ. Những lời như vậy, người này truyền người kia, già trẻ đều đến xem, giống như đi tham quan một cung điện bất ngờ được khai quật khỏi lòng đất.
Ngày thứ ba, là ngày cần phải được an táng chôn cất, mọi người đều đến mộ nhà tôi xem, như xem quang cảnh một cung điện ngầm. Lúc đó mặt trời trên bình nguyên vừa mới nhô lên, đường chân trời phía đông mênh mông sắc đỏ, như một mặt hồ màu đỏ. Một mặt hồ bốc lửa. Ruộng nương, mặt đất, chỗ nào cũng là ánh sáng chói mắt, những thân tiểu mạch cao chừng chiếc đũa đều ánh vàng. Và cỏ trên đất, cỏ vàng gầy guộc và cỏ xanh mập mạp đều như khắc ngọc. Lúc đó, ngôi mộ đôi của chú, ở phía dưới cùng khu mộ lớn nhà tôi, đất cát đào ra từ trong ngôi mộ đôi chất hai bên mộ bị người ta giẫm xuống chắc nịch, nhưng mùi thơm ngọt của đất mới vẫn rất nồng rất đặc. Người trong thôn liền đi xuống từ đường hào mộ, miệng tấm tắc nhìn lên, nói vài lời, rồi lại một đám người trong thôn nữa xuống xem, đi đến hỏi:
“Trông thế nào?”
“Đinh Lượng và Linh Linh chết cũng đáng giá.”
Hoặc là nói:
“Ai đào ngôi mộ này cho tôi, để tôi mắc bệnh nhiệt một trăm lần cũng được.”
Cũng chính lúc này, những người trong thôn giúp nhà Giả Căn Trụ và Đinh Dược Tiến đào mộ đi đến. Những thổ công giỏi nhất Đinh Trang đã đến. Người trong thôn liền nhường đường cho họ, để họ đi xuống xem mộ, tham quan cung điện dưới đất. Trèo xuống dưới, lại leo lên. Khi đi xuống trên mặt có vẻ không tin, khi đi lên, trên mặt nở nụ cười hoàn toàn bái phục, nhìn một người thợ ba mươi tuổi lúc nào cũng ngồi bên để giữ mộ, giữ đồ nghề nói:
“Anh khắc đấy à?”
“Là bác tôi.”
“Bác anh học kĩ nghệ này ở đâu đấy?”
“Gia truyền đấy.”
“Có thể mời bác anh đến ngôi mộ bên kia khắc không?”
Anh chàng ba mươi tuổi liền nhìn người thợ bốn mươi tuổi của Đinh Trang nói: “Đây là mộ dành cho quan viên, người xưa làm quan đến tứ phẩm chết mới có thể khắc tranh trên vách mộ. Bây giờ tuy không cần đến quan tứ phẩm, nhưng ai mời bác tôi đến khắc mộ phải được bên trên đóng dấu phê duyệt. Không được bên trên phê chuẩn, người bên dưới chết, không ai được tùy tiện khắc mộ quan.”
Hỏi: “Sao Đinh Lượng này chết lại có thể khắc mộ quan?”
Nói: “Anh trai Đinh Huy của anh ta là Chủ nhiệm Ủy ban bệnh nhiệt huyện mà.”
Cuối cùng không nói gì nữa, thợ đào đất trong thôn cũng tản về Đinh Trang. Mặt trời đã mọc lên, sau khi mặt trời mọc là thời điểm khâm liệm người chết, cần trở về khâm liệm mai táng rồi. Quan tài của Đinh Tiểu Dược và Giả Hồng Lễ đã sớm đặt ở cửa mỗi nhà. Đó là hai cỗ quan tài tốt, được làm sau khi Đinh Trang có bệnh nhiệt, đều là quan tài gỗ bào đồng làm từ cây bào đồng lớn, bản dày bốn tấc, gióng gỗ bách dày ba tấc, trên gióng khắc chữ “Cúng” chữ “Tế” to như cái chậu, trên chữ quét nhũ bạc nhũ vàng, giống như hai bông hoa vàng hoa bạc to bằng cái chậu. Căn Trụ và Dược Tiến đào mộ cho em của mình, quả thực không bằng bố tôi đào mộ cho em bố. Là mộ của quan. Mộ nhà quan. Mộ nhà quan đã không còn trên bình nguyên từ sau triều Tống. Trong mộ còn khắc tranh thành phố, nghĩa là đem cả thành phố phồn hoa đó làm đồ tùy táng cho em trai bố. Chỉ tiếc là, ngôi mộ đó khắc cho hai kẻ ngoại tình ở Đinh Trang, điều này làm Căn Trụ và Dược Tiến có chút nuốt không trôi, có chút mất mặt. Nhưng may mà, quan tài của hai nhà họ tốt, là quan tài loại hảo hạng mà trước đây người già sống đến tám mươi tuổi ở các thôn các xóm mới có thể dùng. Là quan tài mà nhà nào sung túc, có tiền tài thế lực mới có thể dùng.
Quan tài thượng hạng.
Là quan tài mà người có tiền tài địa vị mới làm được, mới muốn làm.
Quan tài đặt ở ngoài cửa mỗi nhà. Hai nhà sống trong cùng một con ngõ, cách nhau không quá xa, không xa lắm, giống như hai cỗ quan tài đó bày ở một chỗ. Người Đinh Trang, những người vây quanh xem, đều nói hai cỗ quan tài tốt, đều nói Đinh Dược Tiến và Giả Căn Trụ tốt với các em, tuy rằng không đào được mộ nhà quan như Đinh Huy đào cho em mình, nhưng rốt cuộc cũng chuẩn bị cho họ hai cỗ quan tài tốt. Cuối cùng vào lúc này, vào chính lúc này, có một chiếc xe hơi phóng vào Đinh Trang, phóng đến cửa nhà chú tôi. Từ trên chiếc xe đó cũng dỡ xuống hai cỗ quan tài. Quan tài được bọc trong giấy bìa, vải mềm. Dỡ xuống, đặt lên ghế băng rồi mới mở giấy và vải ra.
Vừa mới mở, người Đinh Trang liền vây đến, đều đến xem đôi quan tài này.
Là một bộ quan tài phu thê.
Là một bộ quan tài kim ngân gỗ hạnh hiếm thấy trên đời.
Vì bệnh nhiệt, người chết trên bình nguyên cũng như đèn tắt, như lá rụng, nên cần quan tài nhiều như cần nhà cửa, thiếu gỗ bào đồng làm quan tài như thiếu bạc, thiếu gỗ bách làm gióng như thiếu vàng, nhưng quan tài mà bố tôi cho người mang đến lại không phải là quan tài gỗ bào đồng, gióng gỗ bách, mà là gỗ ngân hạnh. Toàn bộ quan tài là gỗ ngân hạnh. Chú là đàn ông, quan tài to hơn, tên quan tài của chú là kim quan. Gỗ kim quan dùng là gỗ ngân hạnh nghìn năm dày ba tấc, gỗ ngân hạnh khi sờ thì mềm, khi dùng lại cứng, mặt gỗ phẳng, vân mảnh, không tì vết, thích hợp nhất cho điêu khắc và hội họa, ngoài mặt đáy quan tài, những mặt còn lại như mặt bên trái, mặt bên phải, nắp quan tài, và cả trên hai đầu to và đầu nhỏ của quan tài, tất cả đều khắc tranh thành phố thị trấn, khắc các nhân vật, khắc mây lành và gió xuân, khắc phố to ngõ nhỏ trong thành phố, khắc xe hơi và người qua lại, khắc nhà lầu và cầu vượt uốn lượn như ruột dê trong thành phố, khắc cây trong công viên, người dưới gốc cây, người thả diều và chèo thuyền. Kim ngân quan trước đây thường khắc Nhị thập tứ hiếu, khắc tranh Mạnh Khương Nữ khóc đổ Trường Thành, khắc truyện Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài, nhưng trên kim ngân quan của chú và Linh Linh lại khắc cảnh thành phố lớn. Là tranh thắng cảnh của thành phố lớn. Như Thiên An Môn của Bắc Kinh, tháp truyền hình của Thượng Hải, khách sạn lớn của Quảng Châu, còn có những con phố thương mại, phố phồn hoa, cầu vượt sông của những thành phố lớn nào đó. Khỏi cần nói, người khắc những thắng cảnh thành phố trên quan tài đó, phải là người đã đi nam về bắc, hiểu rộng biết nhiều, cho nên anh ta mới có thể khắc những thắng cảnh phồn hoa đó ở bên trong bên ngoài quan tài. Khắc Thượng Hải, khắc Bắc Kinh, khắc sự phồn hoa và náo nhiệt của rất nhiều thành phố lớn của Trung Quốc. Đem những phồn hoa và náo nhiệt đó khắc thành những tranh nhũ vàng, tranh nhũ bạc, còn có cả tranh màu nước.
Người Đinh Trang đều vây quanh xem quan tài, kinh ngạc kêu lên:
“Trời ơi, cái này gọi là quan tài gì thế, Hoàng đế trước đây chết cũng không được dùng quan tài này.”
Dùng tay cẩn thận sờ lên bức tranh trên quan tài:
“Mọi người đến đây sờ đi, thành phố này nhẵn nhụi như khuôn mặt của cô dâu mới.”
Và tất cả đều đi sờ. Đi sờ nhà lầu, xe hơi trên cầu vượt, đèn bên quảng trường, và cả người ngồi bên hồ trong thành phố. Lại còn có người nhìn qua kẽ quan tài, nhìn thấy mặt trong quan tài cũng có tranh, liền cẩn thận đẩy nắp quan tài ra, nhìn thấy mặt trong quan tài dán bức ảnh phóng to của Đinh Lượng. Trên bốn vách quan tài đều khắc tranh hưởng lạc của người thành phố, có ti vi, tủ lạnh, máy giặt, và cả cái máy gì có thể mở phim, mở trò chơi trên ti vi và từng cái loa lớn xếp chồng lên nhau. Còn có micro có thể hát, và cỗ bàn thịnh soạn bày cơ man là bát đĩa. Trên bàn tiệc khắc rượu ngon, gà vịt, thịt cá, có cả cốc rượu, chung rượu, đũa màu đỏ. Còn khắc cả sân khấu và rạp chiếu phim, cư xá và cao ốc. Rạp chiếu phim và rạp hát, cư xá và cao ốc, trên cửa đồng loạt khắc hai chữ Đinh gia. Trên đồ điện khí cũng đều khắc tên của chú tôi Đinh Lượng.
Như thể sự phồn hoa mà một đất nước mấy chục năm nỗ lực đạt được đều theo chú tôi làm đồ tùy táng.
Sự phồn hoa của cả thế giới đều đặt vào trong quan tài của chú.
Lại đi xem chiếc quan tài có kích cỡ nhỏ hơn của Linh Linh, thím là nữ, tuy rằng kích cỡ quan tài nhỏ hơn một chút, nhưng cũng là gỗ ngân hạnh. Bên ngoài quan tài tuy khắc tranh thành phố gần giống như kim quan của chú, đẩy nắp quan tài ra, liền nhìn thấy trên nắp chắn phía trên, chỗ chính diện, có dán ảnh của Linh Linh. Ảnh Linh Linh đang cười. Ngoài cái này ra, trên bốn vách của ngân quan còn khắc cơ man lụa là gấm vóc, các loại quần áo và trang sức phụ nữ. Bàn trang điểm và hộp trang điểm. Còn có máy khâu quần áo, tủ bát và tủ bếp dùng khi ăn cơm, bếp dầu mà nhà bếp trong thành phố dùng, tạp dề khi nấu cơm đeo, bát dùng khi ăn cơm, cốc dùng khi uống rượu, bàn chải dùng khi cọ nồi, lồng hấp dùng khi hấp bánh, dầu dùng khi xào rau. Đồ dùng la liệt, không thiếu thứ gì. Còn có hoa bày ở chỗ nọ chỗ kia, cỏ trồng chỗ này chỗ khác. Vườn nho và thạch lựu. Dưới cây thạch lựu là áo và quần của chú tôi còn đang rỏ nước vì Linh Linh giặt xong vừa mới đem phơi.
Mọi người đều vây quanh xem kim quan của chú, vây quanh xem ngân quan của Linh Linh. Vừa xem vừa không ngớt trầm trồ. Trong lúc trầm trồ, ông tôi liền đi ra khỏi nhà chú, trên mặt có ánh sáng xán lạn, trông trẻ hơn mấy hôm trước đến mấy tuổi.
Người trong thôn nói: “Thầy giáo Đinh, lần này Đinh Lượng và Linh Linh có phúc rồi.”
Ông liền đứng bên cỗ quan tài đó: “Phúc gì đâu? Chẳng qua chết cũng đáng giá.”
Người trong thôn nói: “Cái này gọi là quan tài gì?”
Ông liền nói: “Cái này người đời xưa gọi là kim quan, ngân quan, nhưng bây giờ đều là kim quan, ngân quan đời mới rồi, trên quan tài khắc phồn hoa rồi.”
Cuối cùng cũng bắt đầu khâm liệm chú tôi và Linh Linh.
Trước cửa giống như đang họp, người Đinh Trang, ngoài Giả Căn Trụ và Đinh Dược Tiến đa phần đều vây trước cửa nhà chú xem. Ngay cả mẹ của Đinh Dược Tiến, vợ và con trai của Giả Căn Trụ cũng đều vây quanh xem. Người đến xem như trảy hội. Cả một đám lớn người, còn có thôn bên, làng bên, cũng đến hóng hớt như đi xem kịch, dồn chật ních đường của cả nửa Đinh Trang. Giống hệt như đi xem kịch, có đứa trẻ con còn trèo lên tường, trèo lên cây. Giống hệt như đi xem kịch, trong đám người có tiếng nam nữ nói ồn ào, tiếng già trẻ cười ầm ĩ. Mặt trời đã lên cao mấy trượng, đã sắp đến đầu thôn rồi. Từng chùm, từng chùm ánh sáng chiếu xuống. Từng chùm từng chùm chiếu vào, chiếu tang sự thành hỉ sự. Chiếu thành một màn kịch trên sân khấu. Bố đang nói chuyện với những người đưa quan tài từ thành phố đến. Mẹ đang lấy nước, mời thuốc những người từ thôn bên tới. Em gái đang lách qua khe hở giữa đám người, chui giữa hai chân họ. Cuối cùng cũng đến lúc này, bắt đầu khâm liệm, ông từ nhà tôi đi ra, phía sau có rất nhiều người Đinh Trang và người thôn khác, người trong thành phố và người nhà quê ở bình nguyên. Bố đi đến, có người cách bố rất xa đã hỏi to:
“Bắt đầu nhập liệm chưa?”
Bố trả lời: “Nhập liệm đi.”
Liền bắt đầu khâm liệm, chuẩn bị khiêng chú và Linh Linh từ trong nhà ra ngoài, đem thuốc thật, rượu thật, comple, giày da đã chuẩn bị, còn có quần áo thật, váy thật và đồ trang sức giả như thật chuẩn bị cho Linh Linh đặt vào quan tài. Người Đinh Trang đều tràn vào nhà chú, giúp khiêng chú, khiêng thím, đi bó giúp đồ vật cho vào quan tài, bố liền nhìn thấy những người thợ đất, thợ bùn và những người chuyên lo việc sắp xếp an táng của Đinh Trang, hóa ra đều là những người đã giúp nhà Đinh Dược Tiến và Giả Căn Trụ.
Bố có chút áy náy, sắc mặt rạng ngời, lớn tiếng nói:
“Này, này, mọi người đi giúp nhà Dược Tiến và Căn Trụ đi, không thể để sân bên đó lạnh lẽo được.”
Mọi người nói: “Đã đào mộ cho nhà họ trước rồi, an táng nên lo việc bên này của các anh trước.”
Ông tôi đứng trên bậc thềm trước cửa, có chút áy náy:
“Như vậy không tốt đâu? Như vậy không tốt đâu!”
Mẹ Đinh Dược Tiến, và cả vợ của Giả Căn Trụ đều nói:
“Có gì mà không tốt, có gì mà không tốt. Đều là người Đinh Trang, người một nhà, thu xếp tang sự nhà ai trước chẳng phải đều giống nhau sao.”
Liền để tang sự nhà họ Giả và nhà Dược Tiến lạnh lẽo bên đó, đình lại bên đó, cả thôn già trẻ đều đến giúp chôn cất chú và Linh Linh.
Cuối cùng cũng hạ huyệt.
Còn lập một tấm bia trước mộ chú và Linh Linh. Bia đá xanh. Bia đá Đại Lí, trên bia khắc một hàng chữ to như cái bát.
Mộ của Lương Sơn Bá Đinh Lượng và Chúc Anh Đài Dương Linh Linh
Khi dựng tấm bia đá đó lên, tất cả mọi người, người Đinh Trang, người thôn khác, hơn trăm người, gần hai trăm người, đều vỗ tay trước mộ. Tiếng vỗ tay như tiếng sấm Kinh trập vang lên trong nắng giữa tháng Hai.
Giống như trong khoảng đông đi xuân đến, có tiếng sấm Kinh trập vang lên giữa ngày Long Đài Đầu [13] .