QUYỂN BẢY Chương một
Đại hạn rồi.
Hạn đến mức hệt như lửa cháy. Như trên trời có tám, có mười mặt trời cùng chiếu. Từ đầu tháng Tư có một trận mưa, đến tháng Chín là thời điểm mùa hạ nóng dữ dội nhất trên bình nguyên, không có lấy một giọt nước. Chẵn nửa năm, không hề nhìn thấy một giọt nước nào. Lúc đầu, mọi người không biết năm nay là năm đại hạn, còn trăm phương ngàn kế dẫn nước đi tưới đất, đào giếng đi tưới đất, lái máy cày đến đầu ruộng, dùng máy bơm hút nước trong đất, nhưng đến tháng Sáu, tháng Bảy, tiểu mạch ngậm đòng đòng, cây dương ra hoa, dưới đất không có nước nữa.
Không dẫn được nước sông, chẳng bao lâu dưới đất cũng không có nước.
Tiểu mạch trong ruộng, cao đến đầu gối, nhưng nó cứ khô dần, khô dần đi. Lúc đầu, không khí ban đêm nuôi dưỡng nó, sáng sớm vẫn còn có thể nhìn thấy một chút xanh. Nhưng sau đó, một sớm tỉnh dậy đã không còn nhìn thấy màu xanh nữa, chỉ thấy lá mạch khô mềm xuống vì nhuốm khí đêm, chờ khi mặt trời từ đường chân trời phía đông bình nguyên nhô lên, hùng dũng bước ra, bật mạnh ra, lá mạch lập tức khô lại. Khô cháy, tất cả các cây mạch đều bị khô đầu. Uốn một cái là gãy đầu và lá, gió vừa thổi là có bụi cát trắng xám từ trên cây bay lên, từ cỏ khô bắn ra, mang theo mùi khét cháy.
Cả bình nguyên, là một màu khô trắng mênh mông.
Cây, cây ở trong thôn ngoài thôn, cây bào đồng, cây hòe, cây xuân, cây xoan, cả ngày từ sáng đến tối đều quăn lá. Lá khô quăn queo. Rễ cây hòe không hút được nước dưới đất, không ngừng có lá vàng rụng xuống, giống như đã vào thu. Cây du rễ sâu, lá vẫn xanh, nhưng trên cây lại có không biết bao nhiêu là bọ, giống như vì nó vẫn còn xanh, tất cả bọ trong thiên hạ đều chạy đến trên cành, trên lá nó. Sâu xanh, sâu róm, bọ rùa, còn có con sâu gì toàn thân trắng toát, chỉ có chút màu xanh lá cây dưới bụng, to như cái đũa, dài như lưỡi người, bò lúc nhúc như vua của các loài sâu trên cây du, ăn lá cây, còn ăn cả gân lá.
Trước đây nó vốn là cái cây đứng dưới gốc không nhìn thấy mặt trời, bây giờ đứng dưới gốc cứ ngẩng đầu lên là nắng lập tức đánh xuống mặt.
Những con sâu treo trên cây du, nếu bạn đi dưới gốc cây, chúng sẽ giống như chiêng trống, không ngừng gõ lên đầu bạn và trên người bạn.
Thôn trang không còn màu xanh như trước nữa, trơ trụi hết cả rồi, trơ đến mức nhìn thấu cả bình nguyên.
Ruộng đồng đều đã chết, khô trắng mênh mông.
Cỏ cũng chết, khô trắng mênh mông. Thứ còn có thể sống được, thì biến thành màu vàng úa trong cả vùng khô trắng đó.
Cây, đa số vẫn còn sống, nhưng không nuôi được nhiều lá thế, lá còn chút lơ thơ, chỉ có rễ cây, thân cây còn sống. Ve sầu không chết vì hạn, càng ngày càng mạnh, càng ngày càng nhiều, kêu từ sáng đến đêm. Tiếng kêu ban ngày như hạt tiêu phơi khắp đất; tiếng kêu trong đêm thưa thớt hơn, như những trái nho từng chùm từng chùm treo trong không trung.
Xác ve sầu trên cây, màu vàng ánh, mặt trời vừa nhô ra, tất cả vỏ đều phát ánh vàng.
Ánh sáng vàng óng.
Có một mùi khét cháy ban ngày từ bình nguyên cuộn đến, như ở đâu đó đốt lửa trên bình nguyên. Đứng ở đầu thôn nhìn, chỗ nào cũng có khói chầm chậm cuộn lên. Đến lúc mặt trời lặn, khắp nơi đều là lửa, không có khói nữa, chỉ có lửa đỏ phủ trùm mặt đất.
Lửa đỏ khắp đất trời.
Chờ một ngày qua đi, đến hôm sau, người còn chưa ngủ dậy, mặt trời đã chăm chỉ nhô ra. Trước nửa đêm không ngủ được, trời nóng không thể ngủ. Sau nửa đêm ngủ được rồi, nhưng bạn vừa chợp mắt thì mặt trời đã bò vào cửa sổ, cửa chính, mò vào giường bạn. Chiếu trên mặt và trên mắt bạn, đang muốn quay người ngủ tiếp, nhà ai lại có người qua đời, bước chân báo tang, rất nhanh, rất nặng vang lên trên đường thôn, ngay lập tức đến trước cửa nhà bạn, trước cửa sổ, vừa gào vừa gõ cửa: “Chú, hôm nay chú phải đến giúp nhà cháu, mẹ cháu không còn nữa, mới sáng tỉnh dậy bà đã mất rồi.”
Gọi to: “Anh, hôm nay đến lượt anh trả nợ cho nhà em rồi, khi người nhà anh mất, em đã làm ba ngày cho nhà anh, hôm nay anh đến nhà em làm một ngày là được.”
Lại một ngày mới bắt đầu, giống như có cả trăm ngàn mặt trời treo trên đỉnh đầu, chiếu như lửa đốt. Lửa cuồn cuộn chiếu cả một ngày.
⚝ 2 ⚝Bệnh nhiệt bùng phát rồi.
Nói bùng phát là bùng phát ngay. Thông thường, những ngày nóng nhất của mùa hè và những ngày lạnh nhất của mùa đông, vốn là thời điểm người bệnh, người già dễ qua đời nhất. Người trong thôn đã sớm nói rằng, người có tuổi trên bình nguyên đã sớm nói rằng, nói Hoàng đế triều Thanh nếu không chết trong mùa đông băng giá, thì cũng lìa đời trong mùa hạ nóng nực. Đến bây giờ, người trên bình nguyên, những người mang bệnh nhiệt, họ đều sắp chết trong mùa hạ khốc liệt năm nay. Tưởng rằng chịu được qua mùa đông, đa số có thể sống một năm nữa, nhưng năm nay, thời tiết quá nóng, nóng không chịu nổi, mặt trời chiếu đến mức đất bốc khói. Không khí bỏng rẫy, như nước đun sôi, hít vào trong cổ họng còn kêu ùng ục, khiến cổ họng cũng muốn sôi lên sùng sục.
Tiểu mạch chết hạn rồi.
Cỏ cũng chết hạn rồi.
Lá cây khô quăn lại.
Con dâu nhà họ Triệu ở thôn đông, còn chưa đến ba mươi, vừa mới sốt, ba ngày sau đã để lại đứa con thơ dại qua đời.
Chết vì bị thiêu sống, vì hạn mà chết.
Phía tây thôn lại một người họ Giả, bốn mươi tuổi, biết mình mang bệnh nhiệt, trong người không có sức đề kháng, không có sức miễn dịch, giữ gìn không để mình bị lạnh và cảm lạnh, không ăn linh tinh bị đi ngoài, hay để da bị xây xát chảy máu, cố gắng không để mình mang bệnh khác, nhưng có một lần, khi ông ta đi vệ sinh, đang đi từ chỗ đầy nắng, tới ngồi trong nhà xí lại đúng vào bóng cây râm, vừa nóng đã mát ngay, thế là cảm, sổ mũi, váng đầu, sau đó nước mũi không chảy nữa, bệnh nhiệt xông đến, đầu lại đau không chịu được, đau đến mức ông húc đầu vào tường, chết vì húc đầu vào tường.
Chết vì đập đầu vào tường, máu chảy khắp nhà.
Giữa thôn có một người tên là Tiểu Man, một cô gái xinh đẹp về nhà mẹ đẻ, trước khi về còn khỏe, về được mấy ngày, toàn thân bị ngứa, mụn nổi thành bãi đỏ. Cô không khóc, cũng không nói gì, chỉ bảo ở vài ngày rồi, nên về nhà chồng thôi, sau đó thu dọn đồ đạc rời đi. Cô đi rồi, nhưng lại treo cổ chết trên cây thị giữa đường.
Đinh Mồm Mép trong thôn, đang ngồi nói chuyện phiếm với một người bệnh ở đầu ngõ. Nói: “Trước đây có một người làm quan được thăng chức, chức to rồi, về nhà bảo vợ nấu cho ít đồ nhắm rượu. Vợ liền hâm rượu, xào đồ ăn cho anh ta, khi bưng lên hỏi, anh làm quan to rồi, cái đó có to lên không? Người làm quan nói, quan to rồi, cái gì cũng to theo. Đêm đến, đôi vợ chồng làm việc ấy trên giường, người vợ phát hiện ra cái vật đó của anh ta vẫn nhỏ như cũ, nói, anh quan to rồi, cái này sao vẫn nhỏ như thế? Anh quan kia nói, to hơn trước nhiều rồi, chỉ là vì anh quan to rồi, em là vợ quan, cái gì cũng to theo anh. Của em cũng to, nên không cảm thấy của anh to lên.” Đây vốn là một chuyện cười cũ, buột miệng nói chơi, nói xong còn cười, cười ngả cười nghiêng. Nhưng người nghe lại không cười, về nhà lấy ra một con dao, tới đâm Đinh Mồm Mép thích kể chuyện cười.
Đâm chết luôn.
Nói: “Mẹ kiếp, người trong thôn đều chết đến nông nỗi này mày còn có thể nói ra những loại chuyện cười như thế. Còn cười đến mức chỉ thiếu nước lăn ra đất.”
Liền đâm chết, nói: “Mày dựa vào cái gì mà sống vui vẻ như thế?”
Thế là đâm chết luôn.
Người chết cũng như con gà chết, con chó chết, con kiến bị giẫm chết. Cũng không khóc thành tiếng, cũng không dán câu đối trắng nữa. Hễ có người chết, không quá một ngày đã chôn luôn. Quan tài đều sớm chuẩn bị rồi. Mộ cũng đều đào xong từ khi người chưa chết. Trời cực nóng, sợ sau khi người chết không kịp đào mộ, thi thể để quá một ngày sẽ thối, nên chuẩn bị quan tài, chuẩn bị mộ, người vừa chết là chôn ào một cái.
Những bệnh nhân bệnh nhiệt trong trường cũng giải tán hết về nhà.
Đã sớm giải tán về nhà mình rồi.
Khi giải tán, bệnh nhiệt trong thôn còn chưa bùng phát. Giải tán đi không phải vì bệnh nhiệt bùng phát, mà vì bên trên đột nhiên không phát lương thực hàng tháng cho Đinh Trang nữa. Không phát lương thực, phát dầu hàng tháng. Phái một thanh niên đi lĩnh lương, lĩnh dầu, ăn sáng xong ra khỏi thôn, đến trưa trở về. Tay không về nói: “Người ta không phát gì cho Đinh Trang nữa, ngay một cân mì cũng không phát cho Đinh Trang.”
Giả Căn Trụ và Đinh Dược Tiến, và những bệnh nhân bệnh nhiệt trong thôn, lúc đó đều ngồi dưới một bức tường trong trường hóng mát, đem ti vi ra ngoài nhà, ngồi hóng mát xem ti vi, nghe nói vậy đều nhìn về phía người mới quay về.
“Sao lại không phát nữa?”
“Người ta nghi ngờ chúng ta đào mộ của Đinh Lượng và Linh Linh, ăn trộm đôi kim ngân quan đó, nên không phát gì cho chúng ta nữa.”
Những bệnh nhân bệnh nhiệt, đều hướng ánh mắt lên người Giả Căn Trụ và Đinh Dược Tiến. Đều hiểu rằng, không phát lương thực là vì việc của bố tôi. Vì bố tôi nghi ngờ họ trộm mộ, đánh cắp quan tài. Các bệnh nhân đều hi vọng Căn Trụ và Dược Tiến có thể đi tìm bố tôi nói cho rõ ràng, nói họ căn bản không liên quan gì đến việc đào mộ trộm quan tài, nhưng Căn Trụ và Dược Tiến nhìn nhau không ai nói gì cả.
Những bệnh nhân bệnh nhiệt ở trong trường vài ngày thì giải tán khỏi trường học.
Hôm giải tán, ông đang trồng rau ở cổng trường, hai vạt rau to như ba chiếc chiếu ở phía sau phòng ông, bên mộ của tôi. Ông gánh nước từ trường học, nước trong giếng; tưới nước lên hai vạt đất trồng rau hẹ và hành, còn có rau cải chíp nữa. Một gánh nước tưới xuống, như một gánh nước đổ vào trong khe, đổ vào trong đất cát mênh mông trắng xóa của cổ đạo Hoàng Hà, trong chớp mắt, chỗ nước đó biến mất, bị hạn hán nuốt chửng. Hai vạt đất, ông đã gánh tất cả bảy gánh nước. Bình thường thì hai ruộng rau chỉ cần bốn gánh nước thôi. Chính lúc sắp tưới xong, Giả Căn Trụ và Đinh Dược Tiến dẫn theo hai mươi mấy người bệnh đứng sau lưng ông, mỗi người đều xách một bọc chăn mền và hành lí, còn có bát đũa, quạt mo, chiếu cói các loại của mỗi người, đứng bên cạnh nhìn ông, như nhìn một người ép họ phải giải tán.
Tất cả mọi ánh mắt đều đang nhìn ông, bức bách ông, giống như ông chính là người không phát lương thực và dầu ăn cho họ, giống như ông làm mọi người không thể không về nhà. Ông liền đứng ở đầu hai vạt rau đó, vai gánh thùng, chiếc thùng rỗng, cũng nhìn mọi người, nhìn những ánh mắt và những khuôn mặt đang nhìn ông, không hề sợ họ như trước đây. Không giống như trước đây, lúc nào cũng cảm thấy có lỗi với họ, mắc nợ họ. Như thể có lời muốn nói với họ, lại như không có điều gì để nói. Giống như vốn quen họ, nhưng nhất thời lại không nhớ ra họ là người ở thôn nào. Giống như trước đây biết mình mắc lỗi gì với họ, nhưng bây giờ biết không còn nợ họ điều gì. Biết rằng ai đó trong số họ, không chỉ là một, hai người đã đào mộ của con trai ông, phá hủy ngôi mộ nhà quan mà mấy chục năm không gặp trên bình nguyên, lấy trộm cỗ kim ngân quan mà gần trăm năm nay không nhìn thấy. Cứ như thế, cũng tốt, ông cuối cùng cũng không mắc nợ họ điều gì. Đã trả hết ân tình cho họ.
Ông có thể nhìn họ như họ nhìn ông.
Tất cả đều im lặng, hai bên cứ lạnh lùng nhìn nhau như vậy.
Nhìn một cách lạnh lùng và lãnh đạm.
Nhìn một lúc, liền rời đi. Giả Căn Trụ nhổ một bãi đờm xuống đất, giống như nhổ cái gì đó ra ngoài, rồi dẫn đám người đi.
Đã giải tán, đã về nhà. Đi rồi còn có người quay đầu lại nhìn một cách lạnh lùng. Ánh mắt đó như thể ông đã nợ họ rất nhiều, chỉ đào mộ của chú, trộm đôi quan tài kim ngân còn chưa đủ. Còn có rất nhiều thứ đang chờ ông hoán trả. Ông liền đứng đó, đứng ở đầu hai bờ ruộng rau, đọc ra ánh mắt đó, nghĩ các người còn muốn tôi như thế nào? Phải thế nào? Các người đào mộ, tôi ở trong thôn không một câu oán thán, không một lời chửi rủa, các người còn có thể bắt tôi làm gì?
Ông liền rời khỏi đầu ruộng, ông còn phải quay về trường tiếp tục đi gánh nước.
Lúc này, Đinh Dược Tiến từ trong trường đi ra. Tay xách hành lí, là người cuối cùng ra khỏi trường học, gặp ông ở cổng trường. Chạm mặt nhau, ánh mắt như hai chiếc xe đâm sầm vào nhau.
Dược Tiến nói: “Chú, chú tưới rau à?”
Ông nói rằng: “Dược Tiến, sau khi mộ của em Lượng cháu bị trộm, chú ở trong thôn không nói một lời, các cháu còn muốn chú thế nào? Còn muốn ăn thịt chú phải không?”
Dược Tiến đứng trước mặt ông, đặt hành lí trong tay xuống, nghĩ một lúc nói:
“Em Lượng là người tốt, nhưng anh Huy có đáng là người không, ăn bớt quan tài của cháu và Căn Trụ, lại còn cắt lương thực và dầu mỡ của người Đinh Trang, anh ấy dựa vào đâu mà nghi ngờ cháu và Căn Trụ dẫn người đi trộm mộ?”
Dược Tiến nói: “Cho dù là chúng cháu trộm mộ, anh Huy có thể coi là người tốt không?” Dược Tiến ngẩng đầu, nhìn lên mặt ông tôi dưới ánh nắng. “Chú có biết bây giờ anh Huy đang làm gì không? Bây giờ anh ấy ngoài quản việc phát quan tài, còn quản việc phối âm hôn của những người chết vì bệnh nhiệt trong toàn huyện. Mỗi một đôi phối thành công anh ấy thu hai trăm đồng phí minh hôn [15] đấy.”
Nói: “Toàn huyện có bao nhiêu trai trẻ chết vì bệnh nhiệt chưa có vợ? Khuê nữ chưa có chồng? Phối một đôi hai trăm đồng, cả đời này anh ấy có thể kiếm bao nhiêu tiền?”
Nói: “Em Lượng chết rồi, không bằng để em Lượng sống còn anh ta chết.”
Nói xong những lời này, Đinh Dược Tiến lại xách hành lí đi, bước qua trước mặt ông tôi. Ông liền nhìn anh ta, nhìn anh ta từ gần đến xa, như đột nhiên hiểu ra điều gì đó. Hiểu ra ánh mắt quái dị mà tất cả những người bệnh nhiệt trở về thôn nhìn ông lúc nãy. Đứng ở cổng trường, nhìn theo Đinh Dược Tiến, nhìn anh ta đã đi rất xa, ông đánh rơi thùng nước đuổi theo mấy bước gọi, vừa gọi vừa nói:
“Dược Tiến, cháu nói thật hay đùa đấy?”
Đinh Dược Tiến quay người lại: “Không tin chú đi hỏi anh ấy mà xem.”
Nói xong lại đi. Ông đứng ở giữa đường, trên một chỗ cao, nắng chiếu vào ông, như chiếu vào một người được đắp bằng bùn, chiếu một cây cột gỗ, cho đến khi Dược Tiến đi một đoạn đường rất xa rồi, ông vẫn còn đứng ngây ra ở đó, giống như một đoạn gỗ mục đứng dưới nắng.
⚝ 3 ⚝Luôn nói phải vào thành phố một chuyến, đến đó thăm bố tôi, thăm mẹ tôi và em gái tôi, nhưng ông lại rất lười. Lười khởi động kế hoạch đó, giống như lười không muốn gặp bố tôi.
Trong lòng mỏi mệt, ông liền một mình coi giữ trường học. Trường học đã bỏ không rồi. Trống mênh mông. Bàn, ghế, bảng đen trong phòng học đã bị người ta đem đi mất. Những chiếc bàn và ván gỗ ghép thành giường bị người ta vác mất. Cây lớn cây nhỏ trong sân cũng bị người ta chặt sạch. Ngay cả cửa kính trong lớp học, cũng đều bị người ta thuận tay lấy mất luôn.
Mỗi ngày đều có người cầm giấy có con dấu và chữ kí của Căn Trụ và Dược Tiến đến trường học chuyển đồ, cuối cùng để lại một ngôi trường trống rỗng. Ông coi giữ ngôi trường này, giữ cái sân trống không, giữ hai gian phòng ông ở. Giữ cái trống trải, cực kì nhàn nhã, nói đi tìm bố tôi, nhưng lại ngại gặp bố tôi. Ngày tháng trôi qua trống trải. Lòng người cũng trống. Trái tim ông đã rời bỏ cơ thể ông như chú tôi rời bỏ thế giới này. Ông biết bố tôi vẫn sống thoải mái dễ chịu trên thế giới này, nhưng trong lòng tạm thời coi như bố đã chết.
Cũng lười trở về Đinh Trang.
Lười gặp người Đinh Trang, giống như không có Đinh Trang trên thế giới này. Sự tĩnh lặng trong trường học, lại tĩnh như năm ngoái. Không có người nữa. Không có thầy giáo. Không có học sinh, cũng không có người bệnh nhiệt. Một cái sân trống mười mấy mẫu, cuối cùng cũng chỉ có một người. Chỉ có mình ông, muốn ngủ sớm thì sớm, dậy muộn thì muộn. Đói thì nấu ít cơm. Khát thì uống ít nước. Nấu một bữa có thể ăn thành hai bữa, ngay cả không rửa nồi cũng chẳng ai biết. Không rửa mặt cũng chẳng ai nhìn.
Ông đột nhiên cảm thấy tháng ngày nhàn rỗi quá, giống như đang sống bên ngoài thế giới, nghe thấy trong thôn có tiếng kêu trời gào đất bi thương, biết rõ lại có người qua đời, nhưng cũng không quan tâm là ai không còn trên đời nữa.
Nhìn thấy đoàn đưa tang từ đầu thôn đi đến, đi qua nơi cách trường học không xa, cũng chỉ đứng đó nhìn một lúc, rồi làm gì thì lại tiếp tục làm việc đó.
Cũng chẳng có gì làm cả, chỉ là giữ hai ruộng rau to bằng ba chiếc chiếu đó, tưới ít nước, đứng đứng đó, nhổ nhổ cỏ, nhìn nhìn. Chờ hai ruộng rau không có cỏ không có sâu, thì ở đó chờ cỏ mọc lên, chờ sâu xuất hiện.
Trên bình nguyên chỗ nào cũng khô hạn một màu xám xịt, chính ở đây, có hai ruộng rau xanh, ông đã giữ màu xanh của hai ruộng rau này, như giữ sinh mệnh của mình. Chú chết rồi, Linh Linh cũng chết. Bố rời bỏ Đinh Trang. Cả nhà bố đều rời khỏi Đinh Trang rồi. Nghĩ đến việc nhà tan cửa nát, nhưng ông lại không bi lụy bao nhiêu. Đột nhiên, lại cảm thấy trong lòng thanh tịnh, thoải mái, giống như mấy chục năm vác gánh nặng trên vai, giờ đã có thể đặt xuống.
Từng ngày từng ngày cứ thế trôi đi. Đến Tam phục [16] , khi trời nóng nhất, rất nhiều cây trong thôn lá đều khô rụng, Giả Căn Trụ từ trong thôn đi đến cổng trường.
Đến bên hai ruộng rau mà ông đang bắt sâu, ngồi xuống, yên lặng một lúc rồi gọi một tiếng “chú”.
Ông khẽ ngây người, quay đầu lại, có chút kinh ngạc. Tính ra, đã hơn nửa tháng ông không trở về Đinh Trang rồi, hơn hai mươi mấy ngày không gặp Giả Căn Trụ. Căn Trụ và Dược Tiến dẫn đám người bệnh rời khỏi trường học chắc cũng khoảng hai mươi mấy ngày, nhưng Căn Trụ đã không còn là người trước đây gọi là Căn Trụ nữa. Anh ta gầy đến mức không còn hình người, mặt đen xạm, hốc mắt sâu đến mức có thể đặt vừa hai nắm tay hoặc hai quả trứng gà. Ngồi một bên, cạnh mộ tôi, co lại trong bóng râm của bức tường trong trường học, anh ta giống như một con quỷ từ dưới mộ bò lên. Màu đen trên mặt, màu đen khô khốc, giống như người sống bị gió thổi khô. Anh ta gọi một tiếng chú, khe khẽ gọi, lần đầu gọi tiếng chú, trên mặt giăng nụ cười vàng vọt như lá rau, phảng phất vẻ áy náy.
“Anh sao vậy?” Ông hỏi anh ta.
“Cháu không sống được bao lâu nữa.” Anh ta nói, nụ cười treo trên mặt, càng lúc càng dày và nặng, giống như khi trên mặt không treo nổi nụ cười đó nữa, nụ cười sẽ rớt xuống như vỏ cây. Sẽ rơi cộc xuống đất. “Cháu biết mình không sống được bao lâu nữa,” vừa cười vừa nói. “Sắp chết rồi, không có tương lai gì nữa, đột nhiên muốn đến đây nói chuyện với chú.”
Ông liền bước ra khỏi vạt rau, ngồi lên mộ tôi. Ngồi trên chỗ hai chân tôi đang duỗi ra dưới đất, đối mặt với anh ta, bộ dạng cởi mở. Lúc này mặt trời sắp lặn, cái nóng khốc liệt của một ngày trên bình nguyên sắp qua đi, sự oi bức từ sâu trong bình nguyên tràn đến. Có chút gió mát, thổi bên bức tường phía sau trường học. Ông và Giả Căn Trụ ngồi dưới bóng mát của bức tường, cuối cùng cũng bắt đầu có chút mát mẻ.
Phía xa vọng lại tiếng kêu của ve sầu, giống như tiếng đàn mà mùa thu năm trước Đinh Hương Lâm kéo trong trường học.
“Chú, cháu thực sự sắp chết rồi.” Giả Căn Trụ đưa mặt gần hơn về phía trước mặt ông: “Chú nhìn xem, trên mặt cháu đã có sắc tử.”
Ông liền nhìn mặt anh ta, nhìn thấy vẻ xám xịt đầy trên mặt.
“Không sao,” ông nói, “chịu được qua mùa hè khốc liệt là sẽ tốt thôi.”
“Chú không cần lừa cháu nữa. Chú, sắp chết rồi, có việc này muốn đến đây nói với chú. Không nói cháu chết cũng khó nhắm mắt.”
Ông liền nói: “Cháu nói đi.”
Anh ta liền nói: “Cháu nói nhé.”
Ông nói: “Cháu nói đi.”
Anh ta lại nói: “Cháu nói thật đây này.”
Ông liền cười: “Cái cậu này, nói đi.”
Anh ta nói: “Chú, từ đáy lòng cháu muốn Đinh Huy chết. Những ngày này đều muốn Đinh Huy chết, nằm mơ cũng muốn Đinh Huy mau chết quách đi, chết trước mặt cháu.”
Nói xong, nhìn ông, như muốn lấy đi thứ gì đó trước mắt ông, nhìn vào mặt ông. Xem ông có cho lấy hay không, liền cứ thế trân trân nhìn. Không nói gì nữa, cứ thế trân trân nhìn vào mặt ông.
Ông liền kinh ngạc, kinh ngạc ngồi xuống, cũng nhìn lên mặt Giả Căn Trụ, giống như trong lời nói của Căn Trụ có một hòn đá, đập mạnh lên đầu ông, đập cho ông đờ đẫn. Giống như anh ta nói chỉ sờ lên mặt ông, nhưng lại giáng cho ông một cái tát lên mặt. Mặt ông cứng lại một màu xám xịt, như sương mù mùa đông tháng Chạp xám lạnh mịt mờ. Ông bất động, không nói gì, đầu óc trống như trường học. Trống như bình nguyên. Cứ thế ngây ra nhìn Giả Căn Trụ, như thể muốn từ trên mặt anh ta nhìn ra những điều anh ta nói là thật hay là giả, xem có phải là anh ta chỉ buột miệng nói chơi không. Họ cứ nhìn nhau như vậy, tuy rằng Căn Trụ nói chuyện muốn người chết, nhưng nhìn trong mắt Căn Trụ, ánh mắt đã hiền hòa hơn hai mươi mấy ngày trước khi rời khỏi trường học, nhã nhặn hơn, như đang nói với ông chuyện mượn đồ trả đồ nào đó, việc đánh mất và muốn tìm lại điều gì.
Mặt trời đã chếch về tây, ánh sáng bỏng như sôi, lóe lên từ góc tường của ngôi trường như dao cắt, có một miếng sáng rớt xuống trước mặt họ, khiến mặt họ ánh lên sắc đỏ.
Ông hỏi anh ta: “Mộ của Lượng là cháu trộm phải không?”
Căn Trụ nói: “Cháu nào dám.”
Ông lại nói: “Mộ bị trộm rồi, quan tài cũng bị nhấc đi rồi, đồ cũng đã mất rồi, mọi việc cũng nên bỏ qua thôi.”
Căn Trụ nghĩ một lát: “Cháu cũng cảm thấy nên để mọi việc qua đi, nhưng nửa tháng nay, Đinh Trang có mấy khuê nữ chết vì bệnh nhiệt, đều bị con trai chết ở thôn ngoài lấy đi rồi. Mộ vừa dỡ đã đem xương cốt đi phối rồi, đem xác của con gái Đinh Trang khiêng đi rồi. Em họ Hồng Lễ của cháu và cháu gái Thúy Tử của Triệu Tú Cần đã kết xong duyên âm, nhưng ngày hôm qua, người ta lại hứa đem Thúy Tử cho một tay họ Mã bên thôn Liễu. Nói đây là cầu âm hôn mà Đinh Huy bắc. Nói anh ta thu của hai nhà mỗi bên một trăm đồng phí âm hôn. Nói nhà họ Mã cho nhà Thúy Tử ba nghìn đồng tiền lễ.”
Nói đến đây, Căn Trụ lại nhìn ông, nói giọng gay gắt hơn: “Không chỉ cháu muốn Đinh Huy nhà chú chết, rất nhiều người trong thôn đều không vui khi hắn sống trên thế giới này.”
Nói: “Chú đi nói với Đinh Huy, đừng để hắn trở về Đinh Trang, nếu về cháu sẽ không kìm được đập một gậy vào gáy hắn.”
Nói: “Chú, chú là người thật thà, nếu không vì thấy chú thật thà cháu sẽ không nói những lời này. Sẽ chờ hễ Đinh Huy về đến Đinh Trang, thì sẽ cho người đánh hắn chết tươi.”
Nói: “Chú có biết không? Khi bán máu cháu mới mười sáu tuổi, đang đi học, học cấp hai, gặp hắn trên đường đi học, hắn nói cháu bán máu. Cháu nói có đau không? Hắn nói như kiến cắn thôi. Cháu nói bán máu sẽ không sao chứ? Hắn nói thanh niên mà ngay một bình máu cũng không dám bán, lớn lên còn muốn lấy vợ sao? Cháu liền bán máu cho hắn như thế.”
Nói: “Chú, chú nói cháu muốn Đinh Huy chết, có oan cho Đinh Huy không?”
Nói: “Chú đi nói với hắn một tiếng, nhất thiết đừng để hắn trở về Đinh Trang. Hễ hắn về, e rằng cháu và người Đinh Trang sẽ đánh hắn chết tươi.”
Nói đến đây, Giả Căn Trụ đứng dậy, giống như đã nói xong, đã đến lúc rời đi. Giống như anh ta khoan thai từ trong thôn đi đến, là để nói những lời này, không có chút ác ý gì. Ông nghe anh ta nói xong thì mặt trời đã lặn, máu đỏ cả một vùng, giống như cả bình nguyên này là một hồ máu. Nói xong liền đi. Căn Trụ đi rồi. Khi đứng lên chuẩn bị đi, lại gọi một tiếng “chú”, lại ngừng lại nói một hồi.
Nói: “Còn có một việc, phải nói với chú một chút. Cháu biết cháu không sống được bao lâu nữa, cũng có một việc cuối cùng cầu xin chú.”
Nói: “Cháu và Dược Tiến cháu của chú đều là cán bộ thôn, cậu ấy cũng như cháu không ổn nữa rồi, e rằng hai chúng cháu không sống được một tháng nữa. Mấy hôm trước, hai chúng cháu cùng thương lượng một việc. Bàn việc chết rồi thì sẽ chôn con dấu của thôn trong mộ của ai. Ai cũng muốn chôn con dấu đó trong mộ của mình, tranh nhau, rồi bắt thăm. Cuối cùng cậu ấy thắng, bắt được cái thăm sẽ chôn con dấu cùng cậu ấy. Nhưng hai ngày hai đêm nay cháu không ngủ được, muốn cậu ấy nhường con dấu đó cho cháu, để con dấu ấy trở thành đồ tùy táng theo cháu.”
Nói: “Chú, trước đây cháu làm việc có lỗi với họ nhà Đinh của chú, nhưng bây giờ, cháu sắp chết rồi, xin chú đi nói với Dược Tiến việc này, nhường con dấu cho cháu, để con dấu đó làm đồ chôn theo cháu. Cháu thấy Dược Tiến luôn kính trọng chú, hai người cũng đều là người họ Đinh, chú nói cậu ấy sẽ nhận lời.”
Đứng ở chính giữa chỗ rẽ ra cổng trường và hai vạt rau, Giả Căn Trụ nhìn ông có chút cầu xin, vừa nói vừa để mặt trời chiếu thẳng vào mặt anh ta, bao lấy anh ta như một hồ máu.
Ông liền đứng dậy, nửa người trên đặt trong nắng, nửa người dưới đặt trong bóng râm của bức tường, nheo mắt thành một đường thẳng.
“Bắt buộc phải dùng con dấu làm đồ tùy táng sao?”
“Không bắt buộc. Nhưng đó là tâm nguyện của cháu.”
“Vậy thì khắc thêm một cái nữa là được mà.”
“Khắc thêm thì là giả, để cái giả chôn theo Dược Tiến, còn cháu dùng con dấu cũ.”
Nói: “Chỉ cần chú bảo Dược Tiến nhường con dấu đó, cháu bảo đảm sẽ không nghĩ tới việc để Đinh Huy chết.”
Nói xong, Căn Trụ lại nhìn ông một chút, lẩm bẩm thêm câu gì đó, rồi quay người đi mất. Đi chầm chậm, đong đưa. Gió chẳng to là mấy, nhưng cách mà anh ta bước, như sợ bị gió thổi ngã.
Anh ta giống như một cây cỏ khô bay trong gió. Nhìn bộ dạng phất phơ của anh ta, ông nghĩ trước mắt không nói việc con dấu, phải nhanh chóng lên trên gặp bố tôi, để bố không được trở về Đinh Trang nữa.
Vĩnh viễn đừng quay về Đinh Trang nữa. Ông nghĩ đêm nay phải ngủ sớm một chút, sáng sớm mai sẽ lên đường tìm bố tôi.