← Quay lại trang sách

Chương hai

Và đã gặp được bố tôi.

Kinh qua ngàn gian vạn khổ, cuối cùng đã tìm thấy bố, khi ông tìm thấy bố tôi, bố đang ở thôn Thượng Dương mà mười mấy năm trước bố và người Đinh Trang cùng đến tham quan, đang thống kê xem từ khi có bệnh nhiệt, thôn Thượng Dương có tổng cộng bao nhiêu người chết, trong đó có bao nhiêu thanh niên chưa kết hôn lập gia đình. Nam bao nhiêu, nữ bao nhiêu, trai tân gái tơ mỗi loại bao nhiêu. Bảo người thân của từng nhà, từng nhà có người chết đi đăng kí, còn bắt nộp hết ảnh của những nam nữ chưa kết hôn kia. Không có ảnh thì phải miêu tả khái quát tướng mạo. Có người ngồi ở trên chuyên ghi chép, ghi anh ta hoặc cô ta cao thấp, béo gầy, mặt mũi vuông tròn, đen trắng thế nào… Có vài học sinh trẻ tuổi trong thành phố, bày một dãy bàn ngồi ở giữa thôn, trước mỗi bàn có một người ngồi, đang thống kê và miêu tả từng loại một. Bố ngồi trước dãy bàn đó, lúc đứng, lúc ngồi, lúc thì đi đi lại lại, không ngừng nói gì đó với các học sinh đến cùng với bố.

Ông biết mỗi ngày bố đều xuống xã, giống như người làm nông ngày nào cũng ra đồng, cho nên tìm bố ở từng thôn từng xóm, cuối cùng cũng đến được thôn Thượng Dương mà năm đó người Đinh Trang đến tham quan. Ông liền đứng một lúc ở đầu thôn, lướt nhìn Thượng Dương phồn hoa năm đó, từng ngôi nhà lầu năm đó vẫn còn, nhưng gạch ốp trên tường nhà năm đó đều vỡ nát, chỗ này bị rơi, chỗ kia bị mất, hơn nữa những viên gạch trắng còn lại trên tường đều đã ố vàng, có chỗ bị gió thổi mưa dầm trở nên xù xì thô nhám. Các kiểu mái nhà và cửa nhà đủ loại năm xưa, bây giờ cỏ đã mọc giữa các kẽ ngói và gạch đó. Vì trời đại hạn, cỏ cũng khô thành màu khô trắng, giống như cỏ khô trong cổ đạo Hoàng Hà.

Ông liền bước qua con phố, nhìn thấy nền xi măng trên phố đều đã vỡ nát thành đá viên gạch vụn. Hàng cổng sắt lớn dưới các mái nhà dọc hai bên phố cũng giống hệt ở Đinh Trang, trên cửa nếu không thõng khóa thì trên khung cửa cũng dán câu đối trắng, có cái cũ, có cái mới. Có cái viết “Người đầu bạc tiễn người đầu xanh; Cây nhỏ héo khô cây già xanh”, có cái viết “Người khác chết đi thế giới mới; Ta còn tại thế lụy ba sinh”. Còn có cái viết khiến người khác xem muốn ôm bụng cười “Chết lên thiên đường ăn cá ăn thịt; sống ở địa ngục đau xót chua cay”. Còn có cái dứt khoát không viết gì cả, trên câu đối ở cửa trái dùng trôn bát in bảy cái vòng tròn, trên câu đối bên cửa phải cũng dùng trôn bát in bảy cái vòng, khung cửa phía trên dùng trôn bát to hơn in bốn cái vòng tròn. Câu đối có vòng tròn đó là một đôi câu đối mới, vòng đen giấy trắng như hai hàng mắt trên khung cửa, đang giương ra nhìn bình nguyên và thế giới này. Ông đứng trước cánh cửa một hồi, rồi lại men theo phố thôn đi vào bên trong, nhìn thấy câu lạc bộ mà trước đây người trong thôn đánh cờ, đánh bài, xem phim trên phố thôn, cửa chính vẫn mở, một bên cửa bị người ta dỡ ra, một bên cửa khác phía trên có hai cái lỗ to như cái bát. Trong các gian phòng bên trong, nếu không phải là những khung cửa bị người ta đập nát thì cũng là những mảnh kính vỡ, như trước đây từng có người đánh nhau trong câu lạc bộ, để lại một đống hoang tàn và bừa bãi, chỉ có cỏ hoang mọc đầy sân, vì địa thế thấp, có hơi nước, cỏ ở đó đều có màu xanh đậm. Trong cỏ có rất nhiều châu chấu và ếch cạn, có cả những con bướm và côn trùng không ngừng bay ra, cảnh tượng giống như mộ địa trong một ngôi từ đường cũ kĩ và hoang phế.

Đi tiếp về phía trước, cuối cùng nhìn thấy chỗ trước kia là cửa hàng xay chạy điện nhà ai đó mở, bây giờ bỏ phế rồi, dây điện đứt treo trong không trung, những cái máy xay bột, máy xay mì và máy cán mì vốn có màu sơn xanh trước đây, đều đồng loạt lên gỉ sắt dày, có chuột đang chạy trên cái máy xay bột đó.

Còn chuồng ngựa hay chuồng trâu nhà ai trước đây, bây giờ không nuôi ngựa, nuôi trâu nữa, cỏ trong chuồng không biết bay đi đâu rồi, chỉ còn một chiếc chiếu rách bị nước mưa xối khô vắt trên chuồng. Cái máng gỗ lớn vốn trước đây để cho lợn, cho gà ăn, ở giữa máng nứt một đường rộng như ngón tay. Chính trước cái chuồng đó, có một ông già đang dẫn cháu đi bắt dế, đang đùa với cháu. Nhìn thấy, ông liền đứng lại trước mặt ông ta hỏi:

“Cả nhà tốt chứ?”

“Bố nó không còn nữa,” ông già chỉ vào mặt cháu nội nói. “Mẹ nó tái giá rồi, còn lại đều tốt cả.”

Ông sững người một chút, rồi lại thở dài nói: “Bên trên có cử cán bộ họ Đinh nào tới thôn chúng ta không?”

Ông già hỏi: “Có phải là chủ nhiệm tên Đinh Huy không?”

Ông nói liền mấy tiếng đúng đúng rồi, ông già nói liền mấy câu: “người tốt đó, người tốt đó”, nói bố tuy là người huyện Vy, nhưng còn đem quan tài huyện Vy bán cho thôn Thượng Liễu huyện Thái với giá rẻ nhất, giải quyết bao nhiêu vấn đề nan giải của người chết, bây giờ còn làm âm hôn cho những thanh niên chưa vợ mà chết, tìm nhà chồng cho các cô gái, quả phụ chết rồi vẫn chưa có nhà chồng, giải quyết bao nhiêu vấn đề nan giải của người sống. Thôn ông ta vốn có người bị bệnh tâm thần, lúc sống bán bao nhiêu máu, vậy mà ngay một cô vợ cũng không tìm được, bây giờ anh ta chết rồi, bố tôi còn phối được cho anh ta một cô nương vừa mười tám. Nói cô nương đó không có bệnh nhiệt, chết vì tai nạn trong thành phố, bây giờ mẹ của tên ngốc kia chỉ cần trả năm nghìn đồng là có thể lấy được gái tơ thành phố. Nói trong thôn còn có một nữ sinh, thi đỗ vào trường đại học tốt nhất ở Bắc Kinh mới mắc bệnh nhiệt, từ trường học về nhà chưa đầy nửa tháng thì chết, có học vấn, ngoại hình tốt, trong nhà không cần một xu nào, chỉ cần tìm được người có thể xứng với cô để kết duyên âm, để họ được sống tốt dưới âm phủ, trở thành một gia đình thư hương là được. Nhưng trong vòng trăm dặm quanh đây đều không có sinh viên đại học chết, người nhà ngày nào cũng đều lo lắng rơi nước mắt vì việc này, cảm thấy có lỗi với cô con gái đã chết. Cuối cùng chủ nhiệm Đinh vừa đến, liền lấy từ trong túi ra một bức ảnh người chết vì bệnh nhiệt vẫn chưa hết hôn, cậu trai đó học đại học nào đó ở phương nam, sau vài phút là hai nhà kết được duyên âm. Nhà giai, nhà gái, vì mối âm hôn tốt đẹp này, đã hoan hỉ bày đến mười mấy mâm cỗ để chúc mừng.

Hời quá! Cuối cùng ông già cảm thán, mỗi đôi kết duyên âm thành công Chính phủ thu hai trăm đồng âm hôn phí, nhưng điều này giải quyết được mối lo to lớn nhường nào cho người sống!

Ông liền nhìn kĩ cụ già một lúc nói “Bây giờ người họ Đinh tên Huy đó còn ở thôn chúng ta không?”

Cụ già nói, đang làm việc ở ngã tư phía trước kìa.

Ông liền tiếp tục men theo cái gọi là đại lộ Hạnh Phúc của thôn Thượng Dương bước về phía trước. Mặt xi măng vừa trơn vừa phẳng năm trước hôm nay đã nứt ra rất nhiều vết nứt, vỡ ra rất nhiều cái hố, đất trong hố, trong kẽ nứt mọc ra cỏ khô. Những chỗ đường xi măng không nứt không vỡ, bụi đất phủ dày một tấc, bụi cuộn lên như khói đặc theo bước chân người. Chính trên con phố này, những tiệm cơm, tiệm quần áo, hàng tạp hóa mở năm đó cũng đã sớm đóng cửa, không biết chủ nhân đã đi đâu. Đường thôn lác đác rất ít người, đặc biệt không có những thanh niên trai tráng từ ba mươi đến bốn mươi tuổi, thỉnh thoảng nhìn thấy, thì cũng đều uể oải lê tấm thân gầy đầy bọc mủ, trên mặt có màu xanh lét như mặt của Giả Căn Trụ.

Ông biết, Thượng Dương phồn hoa năm đó giống với Đinh Trang, bán máu đến bại hoại rồi.

Người sắp chết hết rồi, để lại thôn trang đại khái cũng thành thôn chết. Những người còn sống, đa phần đều là người già và trẻ em.

Ông liền chầm chậm men theo con đường hiu quạnh đi về phía trước, đến trạm máu năm xưa ở giữa thôn, trên ngã tư rộng hai mẫu của cái gọi là quảng trường Sao Đỏ, chỗ năm xưa là một bồn hoa tròn lớn, nhìn thấy hoa cỏ đều không còn, nhưng trên bồn hoa cao hơn mặt đất một thước đó, bây giờ không còn hoa và cỏ, bồn bị giẫm bằng phẳng như một bãi đất hoang. Chính trên cái bồn đó, ông nhìn thấy bố tôi và những người bố dẫn theo, đang kết duyên âm cho những người trẻ tuổi chết vì bệnh nhiệt. Có mấy chục người thôn Thượng Dương, đang vây lấy họ, hỏi này hỏi nọ. Có người hỏi vài ngày trước con trai hoặc anh trai họ đăng kí rồi, mấy hôm nay đã kết được duyên âm cho họ hay chưa, có người đang tìm nhà chồng cho con gái hoặc em gái vẫn chưa có âm hôn. Có một người trung niên năm mươi mấy tuổi, đưa cho bố một bức ảnh, bố đón lấy bức ảnh đó lật đi lật lại xem, xem xong ngẩng đầu lên nhìn người trung niên năm mươi mấy tuổi đó, nhìn ông ta mặc cái áo khoác đầy mồ hôi vừa cũ nát vừa bẩn thỉu, nhìn cái mũ cỏ cũ mốc xanh mốc vàng ông ta đội trên đầu, nói đứa con này của ông trông thật xinh đẹp.

Người bố đó cười đầy hưng phấn.

“Con anh bao nhiêu tuổi rồi?”

“Khi chết mười sáu tuổi.”

“Chết mấy năm rồi?”

“Ba năm rưỡi.”

“Học đến lớp mấy?”

“Cấp hai.”

“Có người yêu chưa?”

“Người yêu không có bệnh nhiệt, đi lấy người khác rồi.”

“Có yêu cầu gì không?”

“Không yêu cầu gì, tuổi tương đương là được.”

Bố liền đưa bức ảnh đó cho một cậu trai mặt mày thanh tú bên cạnh, nói một câu bình thường, cậu trai mặt mày thanh tú liền lấy từ trong túi anh ta hai mươi mấy bức ảnh con gái, lật ra một bức ngoại hình bình thường, rồi lại lật úp bức ảnh nhìn họ tên, tuổi tác và yêu cầu phía sau, ngẩng đầu nói với người đàn ông trung tuổi: “Cái này nhé… hai mươi tuổi, trình độ tiểu học, người ta không yêu cầu gì, chỉ cần bốn nghìn đồng tiền lễ là được.”

Người đàn ông trung niên sững lại: “Bốn nghìn à?”

Cậu trai nói: “Đây là giá thấp nhất.”

Người đàn ông trung niên mếu máo cười: “Cậu tìm lại đi, xem có dưới hai ngàn không? Nhà tôi chỉ có hai ngàn đồng.”

Cậu trai khó xử lại tìm trong đống ảnh các cô nương lớn tuổi, tìm ra bức ảnh một quả phụ đang ôm một đứa trẻ, đưa bức ảnh trước mặt người đàn ông trung niên nói: “Đây chỉ cần hai nghìn.”

Người trung niên đón lấy bức ảnh xem, vẫn mếu máo cười như thế.

“Con tôi vẫn còn là đồng nam mà.”

Lại tìm tiếp, tìm ra bức ảnh một cô gái hơi béo nhưng có đôi mắt to, đưa cho ông ta, nói cô này gia đình chỉ cần ba nghìn đồng. Trung niên đón lấy bức ảnh xem, cảm thấy trông cũng được, giá cả cũng phải chăng, mượn thêm một nghìn là đủ, liền hỏi tuổi tác, họ tên, người thôn nào của bên gái, còn hỏi tình hình gia đình và yêu cầu của bên gái, cuối cùng gật đầu, đưa cho cậu thanh niên hai trăm đồng âm hôn phí, hỏi: “Lúc nào thì có thể để con tôi lấy vợ?”

Cậu trai đáp: “Trong ba ngày sẽ trả lời ông.”

Người trung niên nói: “Các anh nói với bên gái là con tôi tốt nghiệp trung học được không?”

Cậu trai đáp: “Làm sao thế được, tốt nghiệp trung học ông phải trưng bằng tốt nghiệp trung học ra.”

Trung niên nói: “Nhưng con trai tôi đẹp hơn con gái họ.”

Thanh niên nói: “Nhà gái bây giờ làm ăn tốt, có một lò gạch, tiền tiêu không hết.”

Trung niên nói: “Có tiền nhà mà họ còn cần ba nghìn tiền lễ này sao?”

Thanh niên nổi cáu, nói: “Có nhiều tiền hơn nữa người ta cũng không thể nuôi không cô nương này cho nhà ông.”

Trung niên nghĩ một lúc rồi nói: “Con trai tôi tính khí tốt, sẽ cả đời đối xử tử tế với cô nương nhà họ.”

Thanh niên cười cười nói: “Yên tâm đi, chúng tôi sẽ tận lực tác thành cho hôn sự này của nhà ông, cố gắng để nhà cô ấy yêu cầu ít tiền hơn một chút.”

Người trung niên liền tươi cười xán lạn lui sang một bên. Bố lại đưa bức ảnh một cô gái và một bà vợ giới thiệu đến trước bàn của cậu con trai, bảo cậu con trai tìm một bức ảnh đàn ông khoảng hai mươi lăm tuổi. Lúc này, ông tôi đi đến, nghe hiểu rồi, cũng hiểu việc bố làm mai mối âm hôn rồi, liền đi đến trước mặt bố, ho một tiếng, gọi một tiếng tên của bố.

“Huy.”

Bố kinh ngạc, quay người lại, gọi một tiếng bố, hỏi: “Sao bố lại đến đây?”

Ông liền kéo bố tôi sang một bên, kéo đến bên bồn hoa cũ, dưới trạm máu năm xưa, ngẩng đầu lên nhìn chữ thập màu đỏ tươi nhức mắt trước cửa trạm máu mười năm trước vẫn còn in ở cổng vào. Vì nước sơn tốt, chữ thập đỏ đó vẫn thắm tươi như cũ, dường như còn có vị sơn mới của năm xưa, có cả mùi tươi và mùi tanh khi hút máu năm đó.

Chính dưới chữ thập màu đỏ đó, ông nói với bố những lời mà Giả Căn Trụ nói riêng cho ông, nói nhất thiết không được để bố trở về Đinh Trang.

Ông nói: “Sau này con đừng về Đinh Trang nữa.”

Bố tôi cười cười, nụ cười treo trên môi, như bông hoa hai cánh nở trên khóe miệng.

“Giả Căn Trụ là cái thá gì,” bố tôi nói. “Bây giờ chỉ cần con ở thành phố giẫm chân một nhát, thì xà nhà họ Giả phải rơi xuống một thanh.”

“Nó là người sắp chết rồi,” bố tôi nói. “Không cần để ý đến nó, không có gì phải sợ.”

Mặt bố vẫn nở nụ cười, nói: “Bố đi về hỏi xem người anh em Hồng Lễ của nó có muốn kết duyên âm không? Hỏi nó sau khi chết, có muốn để bố mẹ nó sống tốt trên bình nguyên này không? Nếu muốn, thì bảo nó ít quan tâm đến chuyện nhà họ Đinh chúng ta thôi, bớt để ý Đinh Huy đang làm gì.”

Nói đến đây, có người gọi bố tôi ở đâu đó, bố liền bỏ lại ông, đi về phía đám người trên bồn hoa cũ, để lại ông một mình cô đơn đứng dưới trạm máu hoang phế năm xưa.

⚝ 2 ⚝

Lúc hoàng hôn, ông không trở về Đinh Trang.

Ông cùng bố ngồi xe đi vào thành phố, mẹ và em gái đi cùng, ăn với ông một bữa cơm. Một bữa cơm hảo hạng, trong một tiệm cơm mà tường bao khắp bốn tầng lầu đều treo đầy bóng đèn to nhỏ, bố mời ông ăn gà, ăn vịt, còn ăn đồ tươi gì ở biển mà trước đó ông chưa từng nghe. Mỗi người uống một bát canh nhỏ, trong canh có thứ gì trong suốt như miến, cho thêm bột khoai lang, gừng thái chỉ, rau thơm gì đó, khi nhấp ngụm canh vào miệng, có mùi tanh và mùi tươi mới quái lạ, giống như mùi máu người để lạnh sau khi bị hút ra. Lúc ăn xong, bát đĩa được một cô nương như hoa như ngọc dọn đi, bố liền nhìn vào mặt ông.

“Ngon chứ?”

“Thơm ngon.” Ông nói.

“Bố có biết bao nhiêu tiền một bát không?”

Ông liền nhìn vào mặt bố.

“Một bát hai trăm hai tương đương với tiền một cỗ quan tài.”

Nghe xong lời bố nói, ông há miệng ngạc nhiên, mặt trắng bệch vì kinh ngạc, muốn nói câu gì đó, nhưng hồi lâu không nói ra lời. Sau khi rời khỏi nhà hàng, cả nhà bố cùng ông đi dạo trong thành phố, để ông nhìn cảnh đêm, ông mấy lần hỏi bữa cơm đó tổng cộng mất bao nhiêu tiền, nhưng bố không nói số tiền nữa, chỉ nói bố không phải quan tâm, không phải quan tâm. Ông muốn nói một bữa cơm sang trọng như thế, còn không bằng ở nhà nấu một bát mì hay hầm một bát củ cải với miến, nhưng cuối cùng không nói ra lời, cả nhà từ con phố nhỏ chỗ nhà hàng đi xuyên ra một con phố lớn trong thành phố.

Cảnh tượng trên phố làm ông phải kinh hoàng. Ông không ngờ chỉ có mấy năm, thành phố này đã trở nên giống hệt Đông Kinh. Cả rừng nhà cao tầng mọc dày như vẩy cá, hết tòa này đến tòa khác đều cao chọc trời. Con đường bị ép dưới những tòa cao ốc đó rộng đến mức bảy, tám chiếc xe tải có thể dàn hàng ngang chạy. Đèn hai bên đường như từng chùm, từng chùm nho trắng treo trên những tòa nhà đủ loại hình khối, màu sắc. Đang là đêm mà trên phố lại sáng như ban ngày, ánh sáng xanh đỏ nhấp nha nhấp nháy, nhảy nhót trên cây và trên các tòa nhà. Trong thành phố không có chuyện hạn hán hay úng ngập, dưới quê đều hạn trắng mốc ra, nhưng cây và cỏ, hoa và gỗ trong thành phố, vẫn đỏ, vẫn vàng như cũ, cây hai bên đường vừa rậm rạp vừa xanh tươi như làm giả.

Còn đàn ông, đàn bà trên con phố lớn đó, mấy năm trước trông còn quê quê. So với người dưới quê, họ đích xác là người thành phố, nhưng so với người Đông Kinh, họ lại là người nhà quê. Nhưng sau mấy năm này, không thể nhìn ra mùi vị nhà quê ở chỗ nào trên người họ. Ngày nắng nóng, các chàng trai đều để tóc dài vàng óng, chân đi giày thể thao vừa trắng vừa dày mà mùa đông mới đi. Các cô gái thì tóc ngắn hơn so với ngày trước, có cô còn cắt đầu ba phân mà chỉ đàn ông mới cắt, nhìn từ đằng sau trông các cô giống hệt đàn ông. Sở dĩ nhận ra là con gái, vì các cô đều mặc áo sơ mi áo khoác chỉ ngắn bằng một nửa bình thường, dám để lộ cả mảng bụng con gái trước thiên hạ, để lộ trước mắt đàn ông, lại còn vẽ màu lam, màu lục, màu tím lấp lánh, vẽ bươm bướm hoặc chuồn chuồn, hoặc là con chim gì đang nằm trên rốn. Hơn nữa, còn đeo toòng teng, khảm khuyên vàng hay dán một cái chấm bạch kim phát ra ánh sáng lên trên rốn.

Chỉ có một năm không đến thị trấn huyện Vy này mà dường như ông đã mấy chục năm không đến. Lần này cùng bố tôi vừa đi vừa nhìn trên phố, ông như đi vào một thế giới khác. Nghe tiếng nhạc từ các loại cửa hiệu, nhà hàng truyền ra làm tim như muốn nảy lên, ông cảm thấy có chút chóng mặt, ông nói với bố về nhà đi, cuối cùng cũng về nhà. Bố dẫn ông đi xuyên qua một dãy nhà lầu, đi từ nơi ánh đèn sáng như ban ngày đến một vùng ánh đèn mờ ảo, men theo con đường nhỏ hẹp trong một con ngõ dài do các tòa nhà cao tầng chen chúc tạo nên, giẫm lên bản đá xanh trên đất, đi một hồi thì đến giữa một khu rừng. Rừng cây ngút ngàn không thấy bờ đó đều là những cây bách cổ thụ một người ôm không xuể, còn có vài cây ngân hạnh mà mấy người ôm không nổi, đều có hàng rào thép vây quanh. Chính giữa khu rừng bách và ngân hạnh đó, bất ngờ có một dãy tứ hợp viện, toàn là gạch xanh và ngói xanh, là nhà cổ hơn trăm năm trước. Có thể nhìn thấy cả dãy mấy chục tứ hợp viện giống hệt nhau, trên mái nhà còn có vật gì như sư tử đá, và hình rồng uốn lượn. Chính ở trước một cái sân ở phía tây ngôi tứ hợp viện này, mẹ tôi mở cửa, bố dẫn ông vào nhà, để ông nhìn thấy một màn kịch kinh người, nhìn thấy những việc mà ông không dám tin.

Ông hỏi: “Con sống ở đây à?”

Bố cười cười: “Lãnh đạo bên trên đều sống ở đây.”

Ông liền quay đầu nhìn kĩ bố, dưới ánh sáng của cây đèn điện ở cửa chính mà em gái tôi bật sáng, nhìn thấy trên mặt bố ánh ra nụ cười xán lạn, như nụ cười chuẩn bị kết hôn bao nhiêu năm trước của ông, như nụ cười khi ông kiếm được món tiền đầu tiên khi làm trạm máu. Sau đó cả nhà đi vào cửa chính khảm gạch cổ ngói đồng, ngửi thấy mùi ẩm ướt và dịu êm mà mấy tháng rồi không ngửi thấy ở Đinh Trang, ở bình nguyên, ngửi thấy hơi ẩm và hương thơm thanh mát của cây cối mà mấy tháng rồi không có, nhìn thấy trong cái sân gần một mẫu đó, ở giữa có cây ngân hạnh hai người ôm không xuể. Dưới ánh trăng, lá ngân hạnh tràn lên ánh sáng màu xanh, có hơi mát nồng đậm từ trên tán cây che rợp góc sân trút xuống. Hai bên cây, ngoài nhà ngói mang phong vị cổ ra, nền sân đều trải gạch xanh lớn một thước vuông, mùi gạch mới vẫn còn chưa tỏa hết. Lúc này, ông liền biết dãy tứ hợp viện này không phải là nhà cổ thời Minh, thời Thanh, cũng không phải là tứ hợp viện thời Dân quốc, mà là kiểu nhà giả cổ mà gần đây mới được xây. Đứng một lúc trong sân, ông ngẩng đầu nhìn cây ngân hạnh che rợp góc sân, nghĩ đến đôi quan tài kim ngân gỗ ngân hạnh của chú tôi và Linh Linh. Đi theo bố vào nhà, nhìn thấy bên trong trang hoàng không phải lối hào hoa sáng láng như ở khách sạn nhà hàng, cũng không lấp lánh như lối trang trí mấy năm nay, mà bày biện theo kiểu đại gia đình nhiều năm trước đây. Đồ đạc toàn là gỗ tử đàn và gỗ hoàng lê, đều có kiểu dạng thời Minh, thời Thanh. Sô pha và ghế tựa, ghế băng và bàn, nhất loạt hiện rõ màu đỏ đậm và vàng sáng dưới ánh đèn. Mùi thơm của gỗ vừa nồng vừa mạnh mù mịt cuộn trong phòng. Ông đứng ở giữa chính đường rộng rãi, chất đầy đồ đạc đó, như đột nhiên đứng ở ngôi miếu nào. Chính trong gian phòng này, mẹ rót nước cho ông, em gái đi học bài, bố và ông ngồi đối mặt với nhau, nói cả một hồi dài.

Bố tôi nói: “Bố ngồi đi, bố.”

Ông không ngồi, nhìn bố tôi, rồi lại nhìn gạch cổ bên ngoài nhà nhưng tường trong nhà lại trắng như tuyết, hỏi bố: “Con xây sao?”

Bố cười, nói: “Dãy tứ hợp viện này có thể xem như con kiếm tiền xây nên.”

Ông không kinh ngạc nữa, ngồi xuống, giống như ông đã sớm nghĩ đến rồi, hỏi “Đều là tiền kiếm được từ bán quan tài?”

Bố liền liếc ông, nói: “Bán quan tài là việc tốt ngàn năm có một vì nhân dân đấy.”

Ông hỏi tiếp: “Vậy tiền bán quan tài là con kiếm tiền hay bên trên kiếm tiền?”

Bố liền cười nói: “Nếu đều là của con, thì con có thể mua được một nửa thành phố rồi.”

Ông lại hỏi: “Bây giờ lệ phí kết duyên âm là của con hay bên trên?”

Bố không cười nữa, đường đường chính chính nói: “Con là người ăn lương, thay Chính phủ làm việc tốt ngàn năm có một vì nhân dân.”

Cuối cùng cũng thôi. Đêm đã khuya, khí đêm đen đặc từ trong sân tràn vào có mùi vị của trời sắp mưa. Ông ra cửa ngẩng đầu nhìn, qua tán lá ngân hạnh nhìn thấy sao trên trời kế nhau từng chấm một, biết là trời vẫn nắng, ngày mai lại là một ngày nắng nóng, hơi nước mưa đó là mùi của cây ngân hạnh lúc quá nửa đêm. Biết là nên ngủ rồi, liền theo bố đến ngủ trong căn phòng phía nam của tứ hợp viện. Trong căn phòng phía nam đó, ông không nhìn ra căn phòng nhỏ có điều gì dị thường, những đồ đạc và giường chiếu kiểu cổ, bày xếp giống hệt chính đường, nhưng khi ông sắp đi ngủ, bố lại đột nhiên hỏi một câu.

Bố tôi nói: “Bố, bố sẽ không muốn bóp chết con như năm xưa đấy chứ?”

Ông ngây người, không ngờ con trai lại đột nhiên hỏi điều này, cũng không biết nên trả lời thế nào, ngồi trên giường, tay cứng lại trên chiếc cúc áo khoác đang định cởi, màu đỏ dồn trên mặt.

Bố nhìn ra sự căng thẳng của ông, cười cười, nói: “Chỉ cần bố không bóp chết con, thì con muốn để bố đến phòng của con ngủ một đêm, dù chỉ cho bố ngủ một đêm, cũng có thể xem như con trai đã làm tròn phận hiếu với bố.”

Nói rồi bố liền bước qua mặt ông, đến bên trong mở cánh cửa gỗ màu trắng như tuyết giống hệt bức tường ra. Trên cửa là khóa chìm, khóa ở phía sau một bức tranh cực lớn. Tranh là chân dung ông thần tài, nét vẽ như nước chảy, bức tranh đó treo ở chính giữa một mặt tường, cửa vừa mở ra, bức tranh liền một nửa dán vào tường, một nửa treo trên không. Mở cửa ra, bố bật đèn ở đâu đó, trong phút chốc, một gian phòng khác liền sáng như ban ngày, sáng như con phố lớn trong thành phố. Chính ở dưới ánh đèn sáng rực đó, ông nhìn thấy tiền đầy phòng như trong mơ. Trước tiên thấy bố kéo chiếc khăn trải giường khỏi cái bàn chất đầy một đống đồ gì đó, để ông nhìn thấy dưới chiếc khăn trải giường ngồn ngộn một bàn tiền, đều là những đồng một trăm, một bó là một vạn, dùng dây nhung đỏ buộc lại trên mỗi bó, sau đó lại mười vạn bó thành một bó vừa, một trăm vạn bó thành bó lớn, trên mỗi bó đều dùng dây lụa đỏ buộc chặt lại. Mỗi dây lụa đều thắt thành hình nơ bướm. Tiền là tiền mới, tỏa ra mùi nước sơn thơm tức mũi; dây lụa là lụa mới, đỏ nhức mắt. Còn có màu đỏ trên chỗ tiền đó, màu xanh, màu vàng, màu cam, một bàn tiền giống như một bàn hoa khô ép chặt. Ông không biết vì sao bố không thu gọn chỗ tiền này lại, mà phải chất thành đống trên bàn, chính lúc sắp đi, bố mở ngăn kéo ra, ông nhìn thấy trong ngăn kéo cũng chất đầy tiền như vậy. Bố mở tủ đứng, hòm ở đầu giường ra, trong tủ đứng và trong hòm cũng chất đầy tiền. Còn cả bên dưới giường, bên dưới bàn, hai cái rương gỗ ở đầu giường, trong thùng các tông, trong túi sau cửa, dưới đệm giường mà bố ngủ, chỗ nào cũng xếp đầy tiền như xếp gạch. Rải tiền, bày tiền, giống như rải gạch, bày gạch. Trong phòng như núi tiền, biển tiền, ánh vàng xán lạn, rực rỡ sắc màu, mùi thơm của nước tiền mới xộc vào mũi, tắc đến mức khó thở. Giữa mỗi đống tiền, hòm tiền đều nhét đầy băng phiến và chất bảo quản chống côn trùng, mùi chất bảo quản trắng nồng nặc, giống như từng bó từng bó kim khoan vào mũi người. Còn có mùi ẩm mốc của chăn đệm lâu ngày không phơi nắng, mùi vôi trắng để chống ẩm không biết rải chỗ nào dưới đất. Mùi vị và mùi vị hỗn hợp trong phòng, sắc màu và sắc màu xung đột lẫn nhau, khiến cho căn phòng rực rỡ lạ thường, có mùi quái dị, khiến cho người ta đứng trong phòng như đứng bên cái mỏ khí mê tan trước khi mặt trời mọc. Nhưng bố tôi đã quen với mùi vị và màu sắc đó, giống như hồi nhỏ, bố đói đứng bên chiếc lồng hấp bánh bao, nhưng ông, đứng ở giữa gian phòng không to không nhỏ đó, cảm thấy cổ họng sít lại, hơi thở như tắc lại. Ông cố gắng hít vài hơi, còn dùng tay day day mũi. Day xong, lại quét ánh mắt một lượt lên đống tiền chất đầy ở trong phòng, tưởng rằng mình đang nằm mơ, biết rằng mình thường nằm mơ, liền dùng tay cấu lên đùi mình một cái. Trước đây khi ông muốn tỉnh dậy từ trong mộng, đều dùng tay cấu lên người mình. Hễ cấu là tỉnh, và phát hiện ra mình hóa ra đang nằm trên chiếc giường trong trường học. Nhưng lần này, ông tiếp tục cấu trên đùi, trên hông mình, cảm thấy đau rát, nhưng không phát hiện ra mình đang nằm mơ trên giường, vẫn đang đứng trong gian phòng như ngân hàng, kho bạc này của bố. Vẫn cảm thấy như bị núi vàng, biển bạc đè lên người. Ngoài một đống mùi vị hỗn tạp đó ra, còn có thể lờ mờ ngửi thấy mùi ngân hạnh như mùi vị trước lúc trời mưa từ ngoài sân phảng phất lọt vào phòng. Ông cảm thấy không phải mình đang nằm mộng, mà là đứng trước mặt con trai, đứng trong căn phòng chất đầy tiền của con trai.

Ông hỏi:

“Bao nhiêu vậy?”

Bố cười:

“Không biết.”

Ông nghĩ ngợi:

“Đủ tiêu là được rồi, nhiều thế để làm gì?”

Bố liền khó xử.

“Bệnh nhiệt mãi không kết thúc con phải làm thế nào? Con thay mặt bên trên làm tiếp năm xưởng quan tài cỡ lớn, cây trên bình nguyên đều chặt hết cả rồi, bây giờ phải chuyển cây từ Đông Bắc về, nhưng quan tài dù làm mỗi ngày cũng không đủ dùng. Tháng này con tổ chức mười mấy đội mai mối âm hôn, ngày nào cũng xuống xã thống kê và làm hôn phối, nhưng nửa tháng qua rồi, theo thống kê, những đôi đã kết duyên âm thành công vẫn chưa bằng một phần ba những cô hồn chưa được kết hôn.”

Ông nói:

“Kết duyên âm xem như hành thiện đúng không?”

Bố liền cười:

“Cả đời này con đều hành thiện.”

Ông trầm ngâm một lúc, nhìn ra chỗ khác hỏi:

“Có phải ai sống ở đây đều có một kho tiền như vậy?”

Bố gật đầu một cái.

Ông lại hỏi:

“Đều có nhiều tiền như thế?”

Bố lại lắc đầu.

“Không biết, ai cũng chỉ làm việc của mình, không hỏi việc nhà người khác.”

Ông liền không biết nói gì nữa, trầm ngâm nhìn chỗ tiền chất đầy phòng đó, rồi lại nhìn nét mặt bố đã có chút buồn ngủ, cuối cùng dặn dò một cách nhẹ nhàng.

“Huy, nghe bố một câu, từ nay về sau cả nhà con đừng trở về Đinh Trang nữa, trở về Đinh Trang là thật sự mất mạng đó.”

Mặt bố vẫn nở nụ cười như cũ, hừ một tiếng nói: “Trời sập con còn không sợ. Đinh Trang là nhà con, người Đinh Trang ai dám làm gì con.” Nói đến đây, bố tôi dụi dụi đôi mắt đã lơ mơ ngủ, đổi chủ đề, nhìn nhìn ông, trên mặt lại nở nụ cười tận hiếu.

“Bố, nên ngủ rồi. Đêm nay bố ngủ trong gian phòng này, thích mơ gì thì bố mơ cái đó, cũng xem như con trai bố tận hiếu với bố một lần.”

⚝ 3 ⚝

Ông liền ngủ trong căn phòng chất đầy tiền của bố, quả nhiên mơ một giấc mơ không tưởng. Trước khi ngủ, trong lòng nghĩ chắc chắn sẽ có một giấc mơ liên quan đến tiền, nhưng khi đã ngủ rồi, lại không mơ thấy một đồng tiền, chỉ nhìn thấy tôi với tay về phía ông không ngừng gọi.

Bố muốn kết duyên âm cho tôi. Bố tìm một con bé lớn hơn tôi, tên là Lăng Tử, có thể làm chị tôi. Trên chân nó có chút khiếm khuyết. Là khiếm khuyết bẩm sinh, lại còn bị động kinh, dăm ba bữa lại nổi cơn một lần. Nó vì động kinh mà rơi xuống nước chết đuối, lần kết duyên âm này, nó là hồn nữ xấu nhất, nhưng bố lại kết duyên nó cho tôi.

Chính bố đã không chút do dự đem tôi kết duyên với nó.

Bố dẫn người trở về Đinh Trang muốn đem chút xương của tôi đặt vào trong chiếc kim quan còn đẹp và tinh xảo hơn cỗ quan tài của chú tôi, muốn khiêng tôi đến trong lăng viên bên bờ sông Hoàng Hà ở Đông Kinh. Bố Lăng Tử chọn cho tôi và Lăng Tử một mảnh đất đẹp nhất trên lăng viên đó, lưng dựa vào đồi cát, chân chạm đến Hoàng Hà, tránh được gió, hướng về mặt trời, đông ấm hạ mát, chỗ đó từng có người muốn bỏ ra hơn hai trăm vạn đồng để mua làm đất mộ cho người thân, nhưng bố Lăng Tử lại để khoanh mộ đó cho tôi.

Hôm đó, khi mặt trời mọc, bố dẫn theo mười mấy người trở về Đinh Trang, đốt giấy, thắp nhang, đốt pháo trước mộ tôi, rồi đào mộ của tôi lên, nhặt tôi ra khỏi chiếc quan tài gỗ trắng không có nước sơn đó, đặt vào trong chiếc kim quan tinh xảo nhấc đi. Nhưng bố không biết rằng tôi chẳng muốn rời khỏi Đinh Trang, không muốn rời xa ông và mảnh đất sau trường học, không biết là tôi sợ đến nơi ở mới, khi sắp nhấc tôi đi, tôi vẫy vùng trong cỗ quan tài vàng gào thét:

“Ông, ông!”

Gào xé tim xé phổi.

“Ông, con không muốn rời xa nơi này, ông mau đến cứu con.”

Gào rách trời rách đất.

“Ông mau đến cứu con đi ông, ông mau đến cứu con đi ông.”

Ông liền tỉnh lại, ngồi ngây ngẩn trên giường, nhìn thấy ánh sáng như sữa từ phương đông chảy vào phòng.