← Quay lại trang sách

Chương ba

Có một việc tình cờ.

Ông ngồi dậy thu dọn đồ đạc đang muốn lên trên tìm bố tôi, thì bố lại trở về Đinh Trang. Bố dẫn theo người, dẫn theo đội kết duyên âm của bố xuống xã tiện đường trở về Đinh Trang, đi thẳng đến trường học, gặp ông đúng lúc ông đang chuẩn bị lên đường.

Bố mặc chiếc áo đồng phục màu xám và quần ngắn, áo khoác trắng, trên đầu đội không biết là chiếc mũ đan cỏ gì đó ở phương nam, người đen hơn khi rời khỏi Đinh Trang một chút, nhưng cũng có chút đỏ. Trên mặt lại phát ra ánh sáng vừa đen vừa đỏ. Nhìn thấy ông, họ liền đứng ở cổng lớn trường học, bố đưa cho ông một cái túi nhỏ, túi giấy, dây thừng buộc chặt, nhẹ nhẹ, ông hỏi: “Cái gì đó?”

Bố nói: “Là nhân sâm, là sâm tự nhiên tốt nhất.”

Ông liền cảm thấy nặng trong tay, như không nhấc nổi. Lúc này, mặt trời vẫn chưa lên đến đỉnh đầu, vẫn chếch về phía đông tỏa sáng. Trên bình nguyên có mùi nóng bỏng màu vàng, mùi lửa cháy, giống như có một đống lửa đốt rơm, đang cháy trong không trung. Mặt đất trơ trụi, tiểu mạch và cỏ hoang đều khô, ai cũng đều khô, trắng xám đến mức giống như màu cát. Giống như sắc mặt của ông khi vừa nhìn thấy bố.

Ông sợ hãi hỏi: “Vào thôn rồi không gặp Căn Trụ chứ?”

“Không gặp,” bố tôi nói. “Gặp cũng không sợ, trời sập cũng không sợ.” Giống như bố đã sớm biết Căn Trụ muốn làm gì bố rồi, sớm biết những lời mà Căn Trụ nói với ông tôi. “Đinh Trang có người nói với con, nói không có việc gì thì đừng về Đinh Trang. Hôm nay con cứ về cho họ xem. Mấy ngày nữa còn về tiếp để kết duyên âm cho con trai con, làm một lễ kết duyên âm lớn, để xem Giả Căn Trụ dám làm gì con.”

Vẻ kinh ngạc trên mặt ông càng dày lên, nhìn chăm chăm vào mặt bố như nhìn một người lạ đứng trước mặt ông.

“Kết duyên âm cho Tiểu Cường?”

“Đã chọn đối tượng xong rồi.”

“Người ở đâu?”

“Trong thành phố, là thiên kim nhà Huyện trưởng,” bố nói xong, trên mặt nở nụ cười. “Lớn hơn Tiểu Cường mấy tuổi. Lớn thì lớn hơn một chút, bố cô bé khi điều đến huyện ta làm Huyện trưởng, vừa tổ chức người trong huyện bán máu, cô bé liền chết vì một chứng bệnh quái lạ.”

Ông trầm ngâm một hồi:

“Lớn hơn Tiểu Cường mấy tuổi?”

“Năm, sáu tuổi.”

“Có thích hợp không?”

“Bố cô ấy là Huyện trưởng, người ta chẳng nói không thích hợp, chúng ta còn kén chọn cái gì?”

“Lúc nào thì lấy?”

“Chính là đi về nói với bố một tiếng, mấy ngày này phải đào hài cốt của Tiểu Cường đến một nghĩa trang của Đông Kinh, chôn chung với cô nương nhà họ trong một mảnh đất xây mộ đẹp nhất.”

Nói xong những lời này, bố liền đi, nói đội kết duyên âm mà bố dẫn về còn đang đợi bố ở con đường cái phía nam thôn. Cuối cùng cũng hỏi một chút việc ăn, việc mặc của ông, hỏi trời đại hạn, giếng trong trường có khô không, nước có khó uống không. Cuối cùng liền đi, lại nhớ ra nên đến xem một chút ngôi nhà cũ trong thôn, nhìn ngôi nhà cũ đó, cuối cùng men theo bờ ruộng mạch đã chết khô, đi đường tắt, cùng với ông từ đầu phía bắc thôn vòng đến phố mới, đến cửa nhà tôi bố liền sững người lại.

Ông cũng sững người lại.

Khóa trên cổng lớn nhà tôi đã bị ai đó cạy ra, chiếc khóa bị cạy hỏng rơi dưới đất. Hai cánh cổng không còn nữa, bị người khác ăn trộm rồi. Cửa nhà cũng bị cạy ra, cánh cửa cũng bị trộm mất. Cửa sổ vẫn ở trên khung, nhưng cửa kính đã bị đập thành bảy, tám mảnh, kính vụn rơi trên đất. Trong nhà, chỗ vốn dĩ là bàn để lại, hòm để lại, còn có ghế băng và ghế tựa, giá rửa mặt và rèm cửa, tất cả đều không còn.

Bị người ta lấy mất rồi.

Còn đái một bãi ở giữa nhà.

Sắc mặt bố trở thành màu rau xanh, trong màu rau xanh còn có gỉ sắt đen, bố đứng trên bậc thềm ở cửa nhà, liếc liếc vào trong phòng, rồi lạnh lẽo quay đầu lại nhìn ông, hỏi khẽ:

“Ai làm vậy?”

Ông tôi lắc đầu một chút.

Bố liền nhấc chân đá một cái vào tường, nghiến răng:

“Mẹ kiếp, đây là Giả Căn Trụ và Đinh Dược Tiến.”

Mắng xong, trên mặt bố hiện sắc xanh, thịt ở hai bên khóe miệng và cánh mũi đều giật giật.

Ông nhìn thấy mặt bố, nhìn thấy sắc xanh và cơn run trên mặt bố, đột nhiên ngồi xuống trên bậc thềm trước cửa, miệng lúng búng nói như sợ hãi: “Huy, con tạm thời xem như bố nhấc đồ đi, bố dỡ cổng đi, bố đái vào trong nhà, muốn làm gì thì con cứ làm với bố có được không?”

Nói xong, ông liền ngẩng đầu nhìn bố như cầu cứu, giống như một đứa con đang cầu xin bố nó.

Bố liền nhìn ông, nhìn một lát, giống như nhìn một đứa trẻ đang giở trò trước mặt mình, cuối cùng quay đầu không nói gì đi mất.

Bỏ đi đầu vẫn không quay lại.

Có thể rời đi qua lối tắt từ đầu thôn, nhưng bố lại cứ muốn đi từ giữa thôn. Đi với khí phách hiên ngang. Trên ngã tư ở giữa thôn, có vài người dân ngồi đó. Những người còn sống đến hôm nay. Đang là lúc ăn cơm sáng, mọi người đều tập trung ở sân ăn. Nói trời nóng, buổi sáng khi còn chưa nóng đến mức không thể ra khỏi cửa, thì đều tụ tập trên sân ăn tập thể, ăn cơm, nói chuyện. Người ăn xong thì để bát không xuống chân. Lúc này bố đi đến, đi với khí thế bừng bừng. Hai chân nhấc cao hơn bình thường. Khi sắp tới sân ăn tập thể, ông lại bước chậm lại, lau lau chiếc giày da ở chân trái lên ống quần bên phải, quệt quệt chiếc giày da bên phải lên ống quần bên trái. Giày da phát sáng, sáng như gương. Mặt cũng phát sáng, sáng như gương.

Ông liền hiên ngang đi đến đám người trên sân ăn.

Khi sắp đến đám người, Vương Bảo Sơn từ trong đám người đã nhìn thấy bố từ rất xa, gọi to: “Ồ, em Huy hôm nay em về thôn từ sớm à?”

Bố liền cười với Bảo Sơn, vừa cười vừa nói: “Tiện đường qua thôn, về thăm một chút,” liền lấy ra một bao thuốc, thuốc mang đầu lọc, rút ra một nắm, đầu tiên đưa cho Bảo Sơn một điếu, rồi lại tiếp tục phát từ trái qua phải, mỗi người một điếu, nói: “Hút đi, hút đi, nếm thử chút, tiền một bao thuốc có thể mua nửa cỗ quan tài, hút một điếu tương đương với hít mười cân muối, một cân dầu, một cân rưỡi thịt.”

Người trong thôn liền cảm thấy kinh ngạc. Vương Bảo Sơn cũng kinh ngạc: “Thật sao?”

Bố liền cười đáp: “Anh thử xem điếu thuốc này thơm thế nào.”

Liền lấy bật lửa ra, đầu tiên giúp Bảo Sơn châm lửa, tiếp đến lấy điếu thuốc châm cho những điếu khác, cứ châm hết một lượt như thế.

Giả Căn Trụ ngồi giữa mấy người bên phải, khi bố phát cho mỗi người một điếu thuốc, liền bỏ cách qua Giả Căn Trụ. Bố không đưa thuốc cho Giả Căn Trụ, chỉ liếc anh ta một cái, nhìn thấy anh ta vừa đen vừa gầy, mặt đều là những vết mụn đã khô thành sẹo, ngồi ở đó, giống như ai đó dùng tay đẩy một cái, anh ta sẽ ngã ra trên đất. Ánh mắt anh ta có chút vẩn đục, có chút mơ hồ, có chút như cầu cứu. Giống như bệnh nhiệt đã nặng đến nông nỗi này, đến mức anh ta lực bất tòng tâm, có chút bất lực, chỉ có thể nhẫn nhịn, đành phải cố gắng hết sức đối tốt với bố tôi. Lúc đầu anh ta nhìn thấy bố tôi đang phát thuốc, trên mặt cũng có chút vui mừng. Nhưng khi bố đến trước mặt anh ta, chỉ liếc anh ta một cái, rồi bỏ qua anh ta, đưa thuốc trong tay vào tay người phía sau, mặt của Giả Căn Trụ lập tức dồn lên một tầng đỏ sậm. Màu đỏ dồn lên như màu gan. Màu gan lợn.

Phát xong thuốc, bố liền đi, đi tìm đội kết duyên âm đang chờ bố ở bên đường. Đi hiên ngang, đi một đoạn, quay đầu lại, đúng lúc bắt gặp Giả Căn Trụ vừa hận vừa bất lực đang nhìn ông, bố cũng dùng ánh mắt khoét mạnh anh ta một cái, giống như đâm anh ta một dao.

Giống như nhát dao đã đâm vào mắt anh ta tóe máu.

Ông biết tất cả mọi việc, giống như những việc bố làm đều bày ra trước mắt ông. Bố vừa đi, ông liền theo sau bố đi vào thôn. Đầu tiên đến nhà Dược Tiến, cả nhà Dược Tiến đang vây quanh một chiếc bàn ăn sáng, bí đỏ xào, còn có một đĩa trứng gà xào hẹ, từng sợi bí vàng chói lọi, bí cùng trứng gà, lá rau hẹ xanh mướt, cháo gạo trắng, màn thầu nướng quết mỡ, đang đóng cửa ăn thì ông tôi đẩy cửa đi vào. Dược Tiến vội vàng nhường chỗ cho ông, nói bánh màn thầu quết mỡ nướng riêng cho anh ta, nói bệnh của anh ta đã đến lúc muốn ăn gì thì ăn cái đó, nhưng anh ta không nhẫn tâm, liền nướng nhiều một chút, để cả nhà cùng ăn bánh.

Ông liền nói: “Ăn đi, ăn đi.” Và ngồi xuống.

Ông biết khi những người bệnh nhiệt cuối cùng giải tán khỏi trường học, Dược Tiến lại lên trên, không biết làm thế nào mà lĩnh về một ít lương thực. Trong tay anh ta có con dấu của thôn, nên luôn có thể lĩnh về một chút lương thực cho người bệnh nhiệt, trong nhà cũng có thể mỗi ngày đều có gạo trắng, bột tinh. Mỗi ngày đều có màn thầu quét mỡ. Đành phải đóng cửa ăn màn thầu nướng mỡ. Ông ngồi bên chiếc bàn đó, nhìn thấy dưới mái hiên nhà Dược Tiến, bày một cây bào đồng to được cưa thành mấy khúc, dài hơn bảy thước, to một người ôm không xuể, vừa nhìn là biết đó là cây bào đồng lớn trong sân trường. Tiếp tục nhìn, thấy dưới mái hiên nhà Dược Tiến, còn để dựa mười mấy tấm gỗ, đều là những tấm gỗ lấy từ cửa các lớp học trong trường, những chữ lớp nào, lớp mấy đều vẫn còn trên tấm gỗ. Cũng ngại nhìn tiếp cây và gỗ trong trường, nhìn tiếp thì giống như mình đến để kiểm tra. Ông liền thu ánh mắt lại. Nhà Dược Tiến, kì thực sống cũng khá, nhà ngói to, sân xi măng, ngô của mùa đông năm ngoái vẫn treo từng bó từng bó dưới hiên nhà. Nhà Dược Tiến, kì thực sống cũng khá, mọi người khí sắc tốt, lợn cũng rất béo. Lợn nhà Dược Tiến nuôi vừa béo vừa trắng chạy đi chạy lại bên bàn ăn, Dược Tiến vỗ một cái trên lưng con lợn, để nó đi đến chỗ khác, sau đó nhìn ông:

“Chú, chú đến có việc gì?”

Ông liền mở cái bọc giấy trong tay, để lộ ba cái nhân sâm như đứa trẻ. Khắp người nhân sâm đều là râu và rễ, màu vàng trắng, sáng rõ, nằm ở trong tờ giấy đó, có mùi thuốc thơm mát lạnh. Ngay lập tức, mùi thơm của thuốc ào vào sân nhà Dược Tiến. Cả nhà Dược Tiến chưa từng nhìn thấy thuốc nhân sâm, đều vây lấy, nói: “Ồ, quả nhiên, nhân sâm quả thật giống người. Giống hệt một đứa trẻ.”

Ông liền lấy một cây trong bao giấy, dùng hai ngón tay kẹp vào một cây nhân sâm đưa cho Dược Tiến nói: “Cái này cho cháu, hầm uống đi. Đây là sâm xịn vùng đông bắc, không phải sâm trồng, là sâm tự nhiên, mấy chục năm mới mọc được to như cái đũa, đại bổ đại bổ, uống vào bổ cho thân thể đang suy nhược của cháu hơn bất cứ thuốc nào, không chừng có thể chặn được bệnh nhiệt hơn bất cứ thuốc gì.”

Dược Tiến không dám nhận thuốc đó. Anh ta biết nhân sâm là thuốc quý thế nào, mặt liền dồn đỏ lên, người cứng lại ngửa ra phía sau, nói: “Chú, đồ anh Huy kính hiếu chú, cháu nào dám hầm uống.”

Ông liền cố sức nhét nhân sâm vào tay Dược Tiến:

“Chính anh Huy bảo chú đưa riêng cho cháu một cây.”

Thế là nhận.

Cẩn thận dùng giấy gói lại, đặt trên bàn, đột nhiên gọi một tiếng “chú” nói: “Bảo anh Huy từ sau đừng trở về Đinh Trang, Căn Trụ để ý anh ấy, muốn hại anh ấy đấy.”

Ông liền nói: “Căn Trụ muốn con dấu trong tay cháu, cậu ấy nói nếu có con dấu đó, trước khi chết không còn muốn điều gì nữa.”

Dược Tiến nghĩ một lát, cười cười: “Nói nếu cháu chết trước nó, cháu sẽ để con dấu lại cho nó, cháu mới không tiếc để con dấu này chôn cùng. Người chết rồi, mạng không còn nữa, quản làm gì việc tùy táng.” Nói đến đây, anh ta nhìn thức ăn và bánh tẩm mỡ trên bàn, có chút ngượng nghịu. “Nhưng Căn Trụ sắp chết rồi, người cháu ngoài ngứa ra, ngoài mọc mụn ra, vẫn chưa có triệu chứng chết. Nó chết rồi, cháu còn sống, cháu còn phải dùng con dấu lên trên lĩnh cái này cái khác.”

Vừa nói vừa liếc cây sâm ở trên bàn: “Chú, không phải là chú đến thuyết phục thay cho Căn Trụ chứ? Nói cho cùng, chúng ta đều là người họ Đinh, một chữ Đinh không chia rẽ được.”

Ông liền ngượng nghịu, liên tiếp nói: “Nào có, nào có, nào có đến nói giúp cho Căn Trụ.” Nói xong, lại ngồi một lát, rồi đi ra khỏi nhà Dược Tiến.

Đi đến nhà Căn Trụ.

Ông và Căn Trụ ngồi đối diện nhau trong phòng chính nhà Căn Trụ. Căn nhà bình thường, nhà Căn Trụ giống hệt nhà Dược Tiến. Dưới mái hiên, bày hai cái cây đã cưa thành từng khúc, là cây ngô đồng và cây xuân ở trước cửa nhà ăn trường học, giữa sân còn bày các ống sắt vốn là giá bóng rổ của trường. Giá bóng rổ, bị dỡ ra đập cong, đập gãy xếp thành đống ở giữa sân. Trong nhà, trên trần nhà chất đống cửa sổ của trường học, từng cánh, từng cánh cửa bị chặt ra, vừa vặn để làm trần nhà nhà họ. Lại còn nồi của nhà trường, lồng hấp bánh bao, bàn học dài, bảng đen to, ghế tựa mà những người bị bệnh nhiệt từng dùng, vở bài tập không phát hết cho học sinh, hộp phấn và bút bi mà giáo viên không dùng hết, đều chất đống trong phòng chính của nhà Căn Trụ, hoặc chất ở góc tường.

Nhà Căn Trụ giống như cái nhà kho của trường học.

Lại còn cái chuông ông tôi đã đánh nửa đời người, không biết khi nào nó cũng bị chuyển về đặt sau cửa nhà Căn Trụ. Không biết nhà Căn Trụ dùng cái chuông đó làm gì. Chắc vì là đồ sắt, nên gỡ ra đặt sau cánh cửa. Ông nhìn cái chuông giống như cái mũ chóp nhọn, cảm thấy cái chuông đó là của ông, không phải của trường học, bị Căn Trụ ăn trộm mang về.

Ông nhìn cái chuông không rời mắt.

Căn Trụ nhìn ông: “Chú… chú đến nhà cháu để tìm cái này sao?”

Ông vội vàng thu mắt lại, trên mặt treo một nụ cười ngượng nghịu, liên tục nói mấy tiếng “làm gì có, làm gì có”, rồi bày nhân sâm trong tay ra trước mặt Căn Trụ nói: “Đây là quà Huy dặn chú tặng cháu trước khi đi. Sâm xịn, sâm tự nhiên, nó nói là đun nhỏ lửa để uống, qua vài ngày thì cơ thể cháu sẽ có sức lực.”

Vừa nói vừa đẩy nhân sâm đã được bày ra đẩy đẩy lên trước mặt Căn Trụ, bộ dạng có chút cầu xin, ông bày củ nhân sâm to hơn ra trước mặt Căn Trụ, mặt nở nụ cười rồi tiếp tục nói: “Cháu Căn, cháu uống thử ít nhân sâm này xem, từ xưa đến nay người bệnh nặng đều uống nhân sâm, Hoàng đế trước kia cũng vậy, có bệnh, bệnh khó chữa, uống ít nhân sâm này bệnh sẽ đỡ. Cứ uống tiếp thì bệnh sẽ khỏi.”

Ánh mắt Căn Trụ dừng lại trên chỗ nhân sâm, nhìn một lúc, ngẩng đầu lên, lạnh lùng nói: “Sáng nay Đinh Huy đi từ trong thôn ra, nó phát cho tất cả mọi người mỗi người một điếu thuốc, nhưng nó không cho cháu.”

Ông cười, cười khô héo: “Chẳng phải đây sao, nó lại bảo bác mang nhân sâm đến. Thuốc tốt đến mấy cũng không thể sánh được với một cái rễ của nhân sâm.”

Trên mặt Căn Trụ có nụ cười, cười lạnh lùng, giống như dán nụ cười vào mặt: “Đinh Huy không sợ cháu uống nhân sâm sẽ có sức khỏe, sẽ đánh một gậy vào gáy nó?”

Mặt ông sững ra, nụ cười dán trên mặt đông cứng lại. Sững ra một hồi, ông lại dùng sức giãn mặt ra một chút, cười nói:

“Cháu, cháu uống chỗ nhân sâm này nhé, chỉ cần cháu uống thì cơ thể sẽ có sức lực, muốn đánh anh Đinh Huy của cháu, hai, ba ngày tới nó sẽ về kết duyên âm cho Tiểu Cường, nó về cháu sẽ đánh một gậy vào gáy nó.”

⚝ 2 ⚝

Hôm đó, khi mặt trời mọc, bố dẫn mười mấy người trở về Đinh Trang, khiêng một cỗ quan tài gỗ hạnh khắc hoa, cỗ quan tài đó dày năm tấc, trên quan tài dát bột vàng óng ánh, khắc thắng cảnh mà người ta nói là phồn hoa nhất trong các thành phố Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, còn có thắng cảnh phồn hoa ở thành phố lớn nước ngoài mà không ai nói được nó ở đâu. Nhưng trên những cảnh đó đều viết chữ, viết gì gì như Paris, New York, London. Tôi không biết Paris ở đâu, New York ở đâu, cũng không biết Bắc Kinh ở đâu, Thượng Hải ở đâu, chỉ biết nhà tôi ở Đinh Trang. Đinh Trang ở trên bình nguyên Dự Đông. Tôi không quan tâm quan tài đó tốt thế nào, cũng không quan tâm bột vàng dát trên cỗ quan tài đó là vàng thật, bán đi có thể mua được toàn bộ đất ở Đinh Trang. Dưới ánh nắng và mặt trời chiếu từ trên trời xuống, quan tài trở thành hình vuông, sáng chói mắt khiến mọi người không mở mắt ra được. Đám người do bố tôi dẫn đầu khiêng cỗ quan tài như giễu hành khắp thôn, thu hút tất cả những người còn sống trong thôn. Những người còn sống đều đến xem quan tài của tôi, xem bột vàng thật dát trên quan tài, xem thắng cảnh thành phố lớn chưa ai từng nhìn thấy trên quan tài. Sự phồn hoa và náo nhiệt trong thành phố lớn. Và cả sự phồn hoa náo nhiệt ở nước ngoài. Đặt quan tài trước mộ của tôi, đốt giấy tiền trước mộ của tôi, đốt hương, đốt pháo, đào mộ của tôi ra, nhấc tôi ra khỏi cỗ quan tài không có nước sơn, đặt vào cỗ quan tài vàng thượng hạng gỗ hạnh khắc hoa, khiêng tôi đi theo nghi lễ.

Tôi ở trong cỗ quan tài vàng đó hét to:

“Ông, ông!”

Gào xé tim xé phổi.

“Ông, con không muốn rời xa nơi này, ông mau đến cứu con.”

Gào rách trời rách đất.

“Ông mau đến cứu con đi ông, ông mau đến cứu con đi ông.”

Lúc đó, toàn bộ trường học, toàn bộ Đinh Trang, toàn bộ bình nguyên và thế giới này, đều là đối tượng để tôi gào thét, giống như mưa che trời phủ đất rơi xuống bình nguyên cằn cỗi hạn khô.

⚝ 3 ⚝

Hôm đó, có chút gió, trời mát mẻ một chút. Khi mặt trời lên vài cây sào, mẹ và em gái tôi đến nhà gái nhận cốt đón dâu, bố dẫn người trở về trường học, muốn đào tôi từ dưới đất lên, khiêng đi kết duyên âm với người ta. Không phải người ta gả cho tôi, mà là muốn gả tôi cho người ta đấy. Mặt trời vẫn như trước kia, treo cao cao trên trời, tỏa vòng sáng xán lạn, xung quanh có lửa bập bùng. Trên không trung, không có một sợi mây, xanh như vải đã giặt. May mà có chút gió, có chút mát mẻ phủ ngoài thôn làng.

Cỏ và hoa màu được thấm ướt một đêm, tuy khô trắng, nhưng nhìn kĩ vẫn có thể thấy một chút xanh, màu xanh kẹp trong màu khô trắng, giống như đất cát rơi xuống một cồn đầy cát của cổ đạo Hoàng Hà. Ở ngay cửa trường học, bên mộ của tôi, mấy chục người đang đứng, vẫn là những người thợ đất và thợ bùn từng đào mộ cho chú tôi và Linh Linh, họ cầm xẻng, cầm cuốc chim, cầm từng túi, từng túi bao nhiêu là đồ đạc, lại còn khiêng đến cỗ quan tài điêu khắc bằng gỗ ngân hạnh thượng hạng dát vàng. Trên quan tài khắc rất nhiều thành phố lớn, cái nào cũng hiện đại phồn hoa. Trong các thành phố đó, lại khắc nhà cao tầng và đường phố lớn, dòng người và dòng xe, có cả cửa hàng và quán rượu. Lại còn các thực khách ra vào quán rượu, có bảo vệ và nhân viên phục vụ nữ đứng ở ngoài quán rượu, còn có khu vui chơi trẻ em đặt ở bên bồn hoa của một quảng trường. Những đồ chơi trong khu vui chơi tôi chưa từng nhìn thấy, có đoàn tàu nhỏ bay giữa không trung giống như con rồng, có vòng sắt màu đỏ treo giữa không trung, trong vòng có ghế tựa nhỏ chuyển động quanh vòng. Lại còn cả xe bọc cao su chạy đầy mặt đất để đâm vào nhau. Sự náo nhiệt và mới mẻ trong khu vui chơi, giống như tiếng chim kêu trong rừng cây vào buổi sớm mùa xuân, người lớn và trẻ con chơi ở đó đều mặc đẹp hơn cả hình nộm vàng mã đồng nam, đồng nữ trong tang lễ, nhảy nhót vui vẻ, dường như tiếng nói nói cười cười của họ cũng đều được khắc trên quan tài.

Trong quan tài, trên vách quan tài bên trong cũng rất phong phú, tuy nhỏ hơn một cỡ so với quan tài người lớn, nhưng cũng khắc miêu tả cây cối, cỏ hoa, cầu nhỏ và nước chảy. Còn có thuyền chèo trên dòng nước đó. Ngay bên bờ hồ, trong một mảnh rừng dưới chân núi, có một tòa lâu đài cổ kiểu tây dựa vào núi cạnh hồ, ngói trên tòa nhà đều là ngói lưu li bán nguyệt màu vàng dùng thời cổ, gạch xanh trên tường đều có hoa văn và hình vẽ nổi lên. Tường gạch bao trước tòa nhà, cũng đều là tường gạch hoa có lỗ xếp lên nhau. Trong sân còn có một cây bách già, một cây ngân hạnh lớn, trên khung cửa hoa môn lầu còn có một đôi câu đối đỏ. Câu đối hai bên cửa tuy hẹp như chiếc đũa vuông, nhưng chữ bên trên lại rõ mồn một: Cuộc sống cõi trời dài năm tháng; cỏ cây ao ngọc mướt bốn mùa. Bức hoành phi trên đỉnh là Đại trạch họ Đinh. Từ cánh cổng đó đi vào, men theo con đường rải đá cuội, đến hành lang phía trước của tòa lâu đài, nhìn qua cửa chính, nhìn qua cửa sổ có thể thấy trong phòng bày các loại đồ điện và đồ trang trí, trên tường còn treo tranh chữ và nhạc cụ, bên đồ điện chỗ này đặt mấy đống tiền, chỗ kia đặt mấy hòm tiền. Trên hòm tiền đều có chữ nhỏ li ti như hạt vừng nhặt mãi không hết. Khỏi cần nói, đây chính là nhà mà bố sắp xếp cho tôi, cho tôi phồn hoa và náo nhiệt, cho tôi gia sản và nhà cửa.

Chính nơi đây có rất nhiều thành phố lớn, rất nhiều làng xã và sông núi, trong thế giới hoa lệ giàu có ấy, bố và những người đi theo ông nói vài câu, rồi bắt đầu mở màn bốc cốt. Vì là đi phối hôn, là chuyện vui, nên cán xẻng và cuốc đều buộc sợi dây điều đỏ, trước mộ sau mộ đốt pháo râm ran, đốt mấy hòm pháo hoa to, còn đốt cả một chiếc kiệu hoa giấy đỏ lớn trước mộ tôi. Tiếp theo những người đốt pháo xách tràng pháo nổ đi ba vòng trước mộ tôi, rồi đi ngược lại ba vòng, và rải chỗ pháo hoa nổ hai tiếng, ba tiếng, nổ liên thanh đó ra khắp mặt đất, để cho những người đứng trước mộ đều nhặt lên đốt.

Đinh Trang đã mấy năm không có lễ mừng như thế, không có sự náo nhiệt phồn hoa như thế, cùng một thời gian, tiếng pháo dây, pháo hoa nổ không dứt, nổ đùng đùng, đoàng đoàng, ánh lửa trên không trung còn sáng hơn cả mặt trời. Xác pháo bay đầy trời, ánh lửa bay đầy trời, tiếng nói cũng bay đầy trời, cỗ kim quan gỗ ngân hạnh khắc hoa thượng hạng đặt ở chỗ cách đỉnh đầu tôi vài trượng. Đồ cúng chiên rán và táo, lê mang từ trên thành phố về, cũng bày ở đầu mộ tôi. Ba cây hương đốt trên đầu mộ tôi. Không khí đầy mùi thuốc pháo và mùi đốt giấy bồi, đầy mùi hương hoa quả bay bay và mùi mồ hôi tưng bừng náo nhiệt.

Rồi bắt đầu đào đất nhặt xương theo nghi thức.

Người Đinh Trang bắt đầu lũ lượt đến trong tiếng pháo. Giống như đến hội làng xem náo nhiệt, giúp một tay, nói tôi có phúc, có được hôn lễ cõi âm long trọng thế này, còn tốt hơn cả lấy vợ thật khi còn sống.

Đinh Trang chết bao nhiêu người, nhưng vẫn còn một nửa, cả một đám đen ngòm ở trước mộ tôi, có người ngồi, có người đứng, có người đội mũ cói che lửa mặt trời, có người cạo trọc đầu phơi dưới nắng mặt trời, trên đầu mồ hôi rỉ ra, nước lóng lánh như quả dưa được rửa nước. Bắt đầu đào đất rồi, những người thợ đào đất được mời đến dùng xẻng đào, đổ đất đào được lên hai bên mộ tôi. Người chủ trì nghi thức tầm tuổi trung niên như làm việc hỉ, phát thuốc cho đàn ông, phát kẹo, phát bánh ngọt điểm tâm trong thành phố cho phụ nữ và trẻ con.

Trước cổng trường học cũng náo nhiệt lạ thường. Đinh Dược Tiến dẫn mấy người vào, chuyên dập lửa ở chỗ củi cỏ cháy cùng giấy pháo, nói với bố tôi hôm nay trời đại hạn, tuyệt đối không được đốt lửa, đừng đốt cháu Tiểu Cường ở dưới lòng đất. Đinh Tiểu Minh cũng từ nhà đi ra, mặt nở nụ cười, đến trước mặt bố tôi hỏi: “Anh, có việc gì để em làm không?”

Thấy không có việc gì làm, anh ta nói: “Em không có bệnh, cơ thể khỏe, thì đi giúp người ta đào mộ.”

Người từng nấu cơm chung với Triệu Tú Cần trong trường học, cô đã rất gầy rồi, sống chẳng được bao lâu nữa, cô đang hỏi bố tôi, nói mẹ tôi vì sao không về vậy, cô nhớ mẹ tôi, không quên được khi cô được gả đến Đinh Trang, chính mẹ tôi đến nhà mẹ đẻ cô để đón cô. Chính mẹ tôi giúp cô vào Đinh Trang, bước vào cửa nhà chồng.

Trong thôn còn có Triệu Trang Tử mới phát hiện mình mắc bệnh nhiệt, sau khi một mình ở nhà buồn bã mấy ngày, hôm nay anh ta cũng từ nhà đi ra, thấy đất đào từ mộ bắn ra mâm đồ cúng, liền bê mâm cúng sang bên cạnh, hỏi bố tôi nói phải làm thế nào? Bố tôi vẫy tay nói, ăn đi, anh ta liền bỏ hai cái màn thầu trắng vào trong túi, chia đồ cúng chiên rán cho đám trẻ.

Bố đi đi lại lại trong đám người, nói với người này mấy câu, đáp lại người kia mấy tiếng. Mặt bố sáng lên, giống như mặt trời vừa nhô lên khỏi đường chân trời, vừa đỏ đắn vừa rạng rỡ. Trước cổng trường học và chỗ rẽ ở góc cổng náo nhiệt như đang diễn kịch, đầu người lắc lư, vài chục người, vài trăm người, đều đang giúp nhà tôi làm việc, đều đang xem tôi kết duyên âm, đều đang xem người chủ trì lớn tuổi từng bước, từng bước thực hiện công việc của ông theo nghi thức. Trước khi đào mộ, ông đốt tràng pháo thế nào, khi nhấc quan tài của tôi ra ông lại đốt một tràng pháo nữa, đợi khi đất cát trên quan tài tôi được làm sạch sẽ, chuẩn bị mở nắp quan tài, ông lại đốt thêm tràng pháo, sau đó dùng tấm vải đỏ to bằng vài cái chiếu che trước cửa mộ, bảo mọi người lùi lại phía sau vài bước, để tất cả mọi người đều không nhìn thấy bộ dạng của tôi, cuối cùng đưa áo cát tường vải đỏ và quần vải đỏ đã làm sẵn từ cửa mộ xuống, để người dưới mộ mặc cho tôi.

Mặc xong áo cát tường, tôi nên xuất thổ rồi. Thời khắc trang trọng nhất đã đến. Do đó, những người sống đứng thành một đám đó liền nín thở không nói, đợi tôi toàn thân màu đỏ từ dưới đất bước ra. Lúc này, sợ bố tôi, ông tôi nhìn thấy tôi sẽ không kìm được khóc, tiếng khóc sẽ làm kinh động hồn tôi, người chủ trì gọi bố tôi sang một bên, bảo bố đi tìm ông tôi rồi hai người cùng tránh đi. Bố đi tìm ông. Tìm ông để bàn bạc sau khi tổ chức kết duyên âm cho tôi có cần mời khách, mở tiệc lớn nữa không. Việc mời khách hay không, mở tiệc hay không đều do bố quyết định, bố đã quyết không mở tiệc mời khách ở Đinh Trang, không cần phải mời một đám người bệnh nhiệt và người nhà của họ cùng ngồi ăn uống linh đình. Bố muốn mở tiệc mời khách trong thành phố, muốn mời bạn bè thân quý của ông ở đó. Ông đã bao trọn ba tầng quán rượu lớn nhất trong thành phố rồi, vì thông gia là người có địa vị cao nhất, ở tầng lớp cao nhất trong thành phố đó, những người có máu mặt ở thành phố không ai là không đến. Không ai không đợi kết duyên âm xong đến ăn tiệc của bố tôi. Nhưng người chủ trì nói với bố tôi, để bố tôi tìm ông bàn bạc về việc có mời người Đinh Trang ăn cơm không, bố liền đến trường học tìm ông.

Bố không tìm thấy ông ở trường học, lại đến tìm trong đám người, vẫn không tìm thấy, bây giờ mới nhớ ra từ lúc đào mộ nhặt xương đến bây giờ, không ai nhìn thấy ông tôi.

Bố liền cử người đi tìm khắp nơi.

Và tìm thấy ông tôi ngồi một mình cô độc trong bóng mỏng của cây hòe nhỏ bên con đường nối từ trường học đến Đinh Trang, nhìn Đinh Trang và bình nguyên khô hạn, màu vàng nhạt và trắng nhợt tụ lại trên mặt, giống như đang nghĩ ngợi chuyện gì. Đang nghĩ chuyện đại sự như trời cao đất rộng, sông thẳm núi sâu, nhà tan cửa nát, lại giống như không nghĩ ngợi điều gì cả, chỉ là mệt, trốn ở đó thở một hơi, muốn được yên tĩnh nên mới đến đó ngồi. Mới ngồi đó cô độc hút thuốc, nhìn bình nguyên và ruộng hoa màu chết khô, nét mặt chán nản buồn rầu. Sau đó bố tôi liền đi đến, nhìn thấy ông ngồi dưới bóng cây giống ngồi trong tấm vải của lồng hấp, giống hệt như ngồi dưới ánh mặt trời, mồ hôi trên đầu trên mặt, chảy xuống cổ ông, lưng áo trắng đã ướt đầm mảng lớn.

Chính lúc này, bố liền đến, cẩn thận hỏi:

“Bố, bố ở đây làm gì thế, trời nóng thế này?”

Ông chầm chậm ngoái đầu lại:

“Tiểu Cường chắc đã xuất thổ nhập liệm rồi?”

Vâng một tiếng, bố cũng ngồi bên cạnh ông:

“Bố ở đây làm gì thế?”

Ông nhìn vào mặt bố, im lặng hồi lâu nói:

“Lăng Tử kia rốt cuộc nhiều hơn Tiểu Cường mấy tuổi?”

Bố tôi cười hỏi lại: “Bố ngồi đây có phải là sợ Giả Căn Trụ đến chỗ kết âm hôn gây sự?”

Ông không đáp, vẫn tiếp tục truy vấn:

“Rốt cuộc là nhiều hơn mấy tuổi?”

Bố tôi ngồi xuống bên ông:

“Không nhiều hơn vài tuổi thì làm sao mà hầu hạ được Tiểu Cường.” Bố quay đầu nhìn ông và nói. “Con đợi Giả Căn Trụ đến chỗ kết hôn âm, xem nó có dám động đến một ngón tay con không.”

Ông lại nhìn bố:

“Nghe nói chân trái của Lăng Tử đó có chút tật?”

Bố nhìn về phía khác, nói qua quít:

“Không nhìn kĩ thì căn bản không nhìn ra.” Lại nói với ông. “Hôm nay nếu Giả Căn Trụ đến phá mộ, con chỉ ho một cái thì nó đừng hòng sống.”

Ông không tiếp lời bố, chỉ nói chuyện của tôi:

“Bố cô ta là Chủ tịch huyện?”

Bố tôi cười.

“Nghe người ta nói cô gái đó còn bị bệnh động kinh?”

Bố tôi thất kinh mở to mắt, nhìn ông, dùng ánh mắt hỏi sao ông lại biết những chuyện này.

Nhưng ông không nói gì, liếc nhìn bố tôi một cái, biết rằng những việc trong mơ đều là có thật, thở dài, rồi lại quay đầu nhìn con đường dẫn đến Đinh Trang, nhìn về hướng nhà Giả Căn Trụ ở. Ở đây, vừa vặn có thể nhìn thấy cổng nhà Giả Căn Trụ. Hai cánh cổng gỗ liễu, luôn khép hờ, hồi lâu không thấy có người nào đi ra từ đó, cũng không có một người nào vào, giống như trong nhà không có người vậy. Nhưng đúng lúc nói không có người đi qua cổng đó, ông lại nhìn thấy một người từ cổng đó đi ra, dùng gậy trúc đưa mảnh vải trắng treo lên cái cây nhỏ ở cổng, báo tang với Đinh Trang và thế giới, rồi giống như không có việc gì lui vào trong sân, đóng cổng lại. Nhìn từ xa mảnh vải báo tang trước cổng nhà Giả Căn Trụ, giống như lá cờ bay trong không trung, tâm lí ông có chút hồi hộp, thu ánh mắt từ trên cổng đó lại, lại nhìn bố tôi, mặt thư thái và tiếc nuối, nhìn bố nói:

“Con cả ngày cứ ra vẻ ta đây, đem con mình kết hôn với một đứa như vậy?”

Bố không hiểu nhìn ông.

“Tìm ở đâu ra một thông gia thích hợp như vậy. Bố có biết bố người ta sau này sẽ làm gì không?” Bố hỏi, rồi đột nhiên nói to: “Sẽ ngay lập tức được điều đến Đông Kinh làm Thị trưởng đấy.”

Không nói gì nữa, ông hừ mũi một cái, mặt thể hiện một sự trào lộng và lạnh nhạt tỏ ý coi thường, lạnh lùng nhìn bố một cái, đứng dậy, lau mồ hôi, rồi vỗ vỗ đất trên mông, quay đầu nhìn đám người trước mộ tôi, nhìn tấm vải đỏ to bằng vài cái chiếu đã chuyển từ mộ tôi lên quan tài vàng của tôi, biết xương cốt của tôi đã bốc xong, đã biết xương to, xương nhỏ trên người tôi đều được bọc trong tấm áo vải đỏ thẫm, xương chân được bọc trong chiếc quần đỏ, xương bàn chân được đặt vào đôi giày đỏ. Đã đưa tôi từ dưới mộ lên nhập liệm đặt trong quan tài vàng, chuyển tôi từ tang lễ sang hôn lễ, từ đại bi thành đại hỉ, ông liền bắt đầu đi về phía trường học.

Bố liền đi phía sau ông.

“Bố, bố già rồi, vào thành phố ở với con đi.”

Ông không nói, chỉ chăm chú chầm chậm bước.

“Bố vào thành phố hưởng phúc đi,” bố nói. “Sau này Đinh Trang không có người nhà chúng ta, bố cả đời cũng không cần trở lại Đinh Trang nữa.”

Ông không những không nói, ngay quay đầu cũng không quay lại nhìn bố tôi một cái.

Cuối cùng cũng đến cổng trường học, thấy mọi thứ đã xong xuôi theo sự sắp xếp của người chủ trì, đã có tám thanh niên khiêng quan tài của tôi lên vai, lại sắp khiêng tôi đi trong tràng pháo nổ liên hồi. Vì khi tôi chết mới chỉ có mười hai tuổi, trước quan tài không có con cái đeo khăn trắng đi theo, vì đây là kết âm hôn, tấm vải đỏ to bằng mấy mảnh chiếu được kết thành một bó hoa, treo trước quan tài. Cứ như vậy, tôi bị người ta khiêng trên vai.

Sắp bị người ta khiêng đi rồi.

Sắp phải xa ông tôi, xa trường học, xa Đinh Trang rồi.

Tôi sắp bị khiêng đến một nơi xa lạ, phải đi làm chồng của một con bé bị động kinh, chân què, lớn hơn tôi sáu tuổi.

Cuối cùng cũng bị người ta khiêng đi.

Tiếng pháo đùng đoàng, ánh lửa tia lửa bắn tung tóe, xác pháo bụi tro lả tả rơi xuống rồi lại cuộn đi, tiếng người nói ồn ào huyên náo. Chính trong cái náo nhiệt hiếm thấy này, bố đi sau quan tài của tôi, nhìn nhìn người Đinh Trang xung quanh, bảo người khiêng tôi dừng lại, ông đứng trên một mô đất, nói với những người Đinh Trang đưa tiễn tôi, lớn tiếng nói:

“Bà con thân hữu Đinh Trang, các cô dì chú bác, anh chị em, mọi người đến đây không cần phải đưa nữa nhé, từ nay về sau mọi người ai gặp việc khó khăn thì đến thành phố tìm tôi là được.”

Bố gào như xé cổ.

“Tôi là người Đinh Trang, không có việc gì tôi có thể giấu bà con. Tôi sẽ nói thật với mọi người vậy - tôi sắp cùng với Chủ tịch huyện mua một mảnh đất năm nghìn mẫu ở giữa tam giác huyện Vy, Đông Kinh và tỉnh lị, chính bên sông Hoàng Hà. Trong năm nghìn mẫu đất này có sông có núi có đồng bằng, tôi muốn xây một khu lăng mộ trong năm nghìn mẫu đó. Khu lăng mộ mọi người có biết không? Chính là nơi có phong thủy tốt, chuyên dùng để mai táng đấy. Trong khu lăng mộ năm nghìn mẫu đó có hai trăm mẫu là tốt nhất, tốt trên cả tốt, chân chạm nước Hoàng Hà, lưng dựa đỉnh núi Mang đấy.”

“Trước đây làng thôn trên bình nguyên của chúng ta, nhà nhà hộ hộ trong Đinh Trang chúng ta đều chỉ nghe nói ‘sinh tại Tô Hàng, táng tại Hà Mang’, nhưng ai có thể sinh ra ở Tô Châu, Hàng Châu đây? Ai chết có thể được mai táng ở núi Mang bên bờ sông Hoàng Hà đây? Nhưng bây giờ, Đinh Huy tôi đã là người bên trên rồi, tôi không thể giúp mọi người sinh ra ở Tô Châu, Hàng Châu, nhưng tôi có thể giúp mọi người an táng ở núi Mang sông Hoàng đấy.”

“Ngay bây giờ, Đinh Huy tôi nói một câu đảm bảo với bà con Đinh Trang chúng ta, nếu Đinh Trang chúng ta ai chết muốn mai táng ở khu lăng mộ núi Mang đó, tôi đảm bảo mọi người có thể mai táng ở nơi phong thủy tốt nhất, có thể làm láng giềng của Tiểu Cường nhà tôi. Đảm bảo người Đinh Trang chúng ta, muốn dời mộ đến chôn trong khu lăng mộ, sẽ mua được đất với giá thấp nhất, giống như không cần bỏ tiền mà có thể mua được một mảnh đất phong thủy tốt vậy.”

Bố nói như hét những câu như vậy, bố nhìn mặt trời như quả cầu lửa sắp di chuyển lên đỉnh đầu, quét mắt một cái nhìn bà con đang nghe ông hét, bước từ trên mô đất xuống, nhìn những người khiêng tôi một cái, rồi bảo người khiêng tôi đi về phía trước.

Người Đinh Trang đều từng đoàn từng đoàn bước chậm lại phía sau quan tài, nói cái gì, hỏi cái gì, bố đều đáp lại cái đó. Nhưng trong lúc này, ông tôi không đi cùng quan tài, ông đứng ở chỗ đất trống đặt quan tài, vừa nãy nói với bố tôi mấy câu cuối cùng.

Ông nói: “Yên tâm đi qua Đinh Trang nhé, Căn Trụ chết rồi, anh ta không thể làm gì con được nữa.”

Bố cười cười nói với ông: “Bố, thực ra chỉ cần bố không muốn con chết, trong làng thôn trên bình nguyên này, không ai có thể làm gì được Đinh Huy.”

Nói xong, bố liền đi sau đám người đi về phía Đinh Trang. Ông thì đứng ở ngôi mộ trống và khu đất trống lúc trước đặt quan tài, mặt đột nhiên cứng đờ và xanh lét, giống như tiếng nói oang oang của bố đã nhắc ông nhớ lại điều gì đó đã quên, bây giờ mới nhớ ra, tim ông đập thình thịch, mồ hôi trên mặt đổ xuống ầm ầm, tay theo đó cũng đầm đìa mồ hôi. Thế là, ông rời mắt khỏi bố tôi, đặt lên chiếc quan tài đang đi về phía trước, đặt lên đám người đi sau quan tài, nhìn quan tài bị khiêng đi, lại bị phủ một tấm vải điều đỏ to bằng mấy cái chiếu, giống như một chiếc kiệu hoa bị khiêng đi. Giống như khiêng một đám lửa đốt trong không trung. Ánh mặt trời sáng rực và xán lạn, ttên bình nguyên có một màn sương mỏng trong suốt đang phát sáng. Thôn Liễu, Hoàng Thủy, thôn Lý Nhị xung quanh, vô cùng yên tĩnh dưới ánh mặt trời, ngay cả những con bò, con dê gặm cỏ khô trong các cồn cát cũng lặng lẽ vô thanh. Chỉ có tiếng ve kêu trên những thân cây ngày càng hiếm gặp, lúc này cứ kêu inh ỏi không ngừng, cùng với tiếng pháo đùng đoàng cũng không ngừng vang trong tai ông. Đến tận lúc này, ông mới ngoái đầu nhìn mộ tôi bị đào chưa lấp lại, dường như lúc này ông mới chợt hiểu ra tôi đã bị người ta khiêng đi. Bị bố khiêng đi rồi. Trong Đinh Trang, trong trường học, thực sự là ngoài ông ra, đã không còn người thân, người dân nào khác. Đến tận lúc này, tôi cũng mới thấy rõ trên đầu ông không còn một sợi tóc đen nào, tóc bạc rối tung dựng thẳng trong không trung, giống như một con dê nhỏ bị người ta giơ lên sắp quật xuống đất cho chết, còn trên gương mặt già nua đầy nếp nhăn của ông, khô khốc như hàng nghìn, hàng vạn đường khô nứt trên mảnh đất hạn khô này, còn đôi mắt nhìn quan tài và đám người của ông, không có nước mắt, cũng không bi thương và ai oán, chỉ có ánh mắt tuyệt vọng không nói được bằng lời, giống như nước trong giếng khô không bao giờ chảy ra bên ngoài được.

Cũng đúng lúc này, tôi bị khiêng đi càng lúc càng xa, ông trong mắt tôi trở nên nhòa nhạt, cuối cùng tôi hét to trong quan tài:

“Ông, ông!”

Gào xé tim xé phổi.

“Ông, con không muốn rời xa nơi này, ông mau đến cứu con.”

Gào rách trời rách đất.

“Ông mau đến cứu con đi ông, ông mau đến cứu con đi ông.”

“Cứu cháu với ông. Cứu cháu với ông!”

Ông đột ngột nhớ ra điều gì đó, mặt biến sắc, hai tay run rẩy, đột nhiên cầm lấy chiếc gậy gỗ dẻ to như cánh tay vứt trên mặt đất lên, đuổi nhanh theo đám người, cắm đầu cắm cổ chạy theo đoàn khiêng quan tài. Khi đuổi đến phía sau đám người, ông liền giơ cây gậy gỗ dẻ dài năm thước đập vào gáy bố tôi. Đập xuống. Bố chưa kịp ngoái đầu nhìn tí nào, chưa kịp kêu một tiếng, giống như cái túi đựng bột mì trắng hảo hạng dựng đứng lên, lắc lư một chút, rồi nhũn ra đổ xuống đất.

Máu chảy trên mặt đất, giống như hoa nở trong mùa xuân.