← Quay lại trang sách

THÁNG TƯ

Geoffrey Macintosh sống trong bệnh xá của nhà tù, sức khỏe của hắn vẫn còn yếu nên không thể ở trong trại giam. Hắn phai thở máy oxy thường xuyên, hai lá phổi đã bị cháy hoàn toàn do vụ nổ ở khu nhà kính, những ống dò bằng nhựa được khóa chặt sau đầu nên hắn không thể nới lỏng ra, nếu không hắn sẽ tự làm hại chính mình. Hoặc như Eddison nghĩ, ngăn cản bất kỳ ai có ý định làm hại hắn. Vụ tấn công nhắm vào Keely đã lên bản tin quốc gia.

Hắn từng là một gã đẹp trai, Thợ làm vườn. Có những tấm ảnh của hắn trong hồ sơ và cả trên mạng nữa. Một người đàn ông lịch lãm, cuốn hút ngoài ngũ tuần với đôi mắt xanh lục và mái tóc vàng sẫm, luôn ăn vận chỉn chu. Hắn giàu có, nhờ phần tài sản thừa kế và kiếm được, và luôn sẵn lòng chi những khoản nho nhỏ cho quỹ từ thiện và những hoạt động nhân đạo khác.

Đương nhiên là cho cả khu nhà kính của hắn. Khu vườn của hắn.

Nhưng người đàn ông đang nằm trên giường bệnh có những vết sẹo bọng nước chạy dọc bên phải thân người, thịt da bị xoắn lại và kéo dãn ra. Những ngón tay độn dày và siết cứng với băng gạc. Cổ họng hắn bị khoét lỗ và lún xuống, những vết sẹo leo lên xé rách khuôn mặt. Miệng hắn bị kéo xuống ở một bên đến tận cằm, răng và xương lồi ra ở vài chỗ, đôi mắt thì đơn giản là đã bị hỏng cả, không thể trả lại vị trí ban đầu. Những vết bỏng đã lành bọc lại quanh da đầu. Phần thân trái của gã ít bị thương hơn nhưng cũng không hoàn toàn lành lặn. Cơn đau đã khoét những đường sâu xung quanh miệng và mắt gã. Vài vết bỏng không lành lại, những chất truyền nhiễm vẫn rỉ ra từ những miếng thịt được ghép vào.

Trông hắn không hề giống một gã đã dành ba mươi năm cuộc đời để bắt cóc, giết hại và giữ những cô gái mới lớn như những con bướm người cho riêng mình.

Có lẽ là xấu xa, nhưng Eddison thực sự ước anh có thể chụp một tấm ảnh của gã hiện tại để gửi cho nhũng người sống sót. Để an ủi họ.

Và bởi vì Bliss vẫn là Bliss, để cô thực sự tận hưởng niềm hạnh phúc khi được báo thù mà chắc chắn sẽ dâng lên tột độ.

Luật sư của Macintosh - hoặc chỉ là một trong những luật sư của gã; có lẽ gã đã thuê cả đoàn luật sư để bảo vệ cho mình - ngồi bên trái khách hàng của anh ta, nơi hắn có thể nhìn thấy anh ta qua con mắt trái còn giữ lại được. Anh ta là một người đàn ông cao, gầy trong bộ vest đắt tiền nhưng không được may quá chuẩn, như thể anh ta không đợi được đến khi thợ may xong. Nó khiến anh ta trông như bị bộ vest nuốt chửng và cảm giác không thoải mái rõ ràng với bệnh xá này cũng không giúp che giấu điều đó.

“Các đặc vụ, có lý do cụ thể nào khiến các anh khăng khăng gặp trực tiếp khách hàng của chúng tôi không?” Vị luật sư - tên là Redling hay Reed gì đó - hỏi với giọng khó chịu.

Vic dựa người vào chân giường, hai tay ông vòng quanh tay vịn nhựa chắc chắn. Biểu cảm của ông thật khó đoán, ngay cả đối với Eddison. Gần như ông không tin tưởng để cho chính mình biểu lộ bất cứ cái gì, vì nỗi sợ về những thứ nó có thể biểu lộ.

Eddison có thể hiểu điều này.

“Hãy gọi đó là một hành động tử tế,” Vic nói bằng giọng nhẹ nhàng. “Ông Macintosh, một tiếng rưỡi trước, con trai ông - Desmond - được phát hiện tử vong trong phòng giam của anh ta. Anh ta đã cắt quần để tết lại thành một sợi thòng lọng và cố gắng treo cổ từ đầu giường tầng. Anh ta đã không làm mình gãy cổ nhưng chặn đường oxy. Anh ta được công bố đã chết vào lúc năm giờ bốn mươi hai phút.”

Bất chấp những tiếng rít lên bất ngờ của màn hình đo nhịp tim, Macintosh trông vẫn bất động, hắn không thể phản ứng. Con mắt hắn đảo quanh và dừng lại nơi những người đặc vụ, rồi luật sư, vào khoảng không gian gần chân giường mà cô y tá nói rằng Desmond thỉnh thoảng đã ngồi ở đó.

“Tự sát ư?” Vị luật sư hỏi, những ngón tay xoay nhanh tới điện thoại. “Họ chắc chứ?”

“Sinh trắc học trong phòng giam; không ai đi qua cửa sau khi anh ta được báo cáo vào tối qua. Cho tới khi họ nhìn thấy anh ta sáng nay. Anh ta để lại một lời nhắn.”

“Chúng tôi có thể xem nó không?”

Tờ giấy nhớ đã được đựng trong túi vật chứng. Vic đã viết ba chữ cái đầu tên mình lên trên đó, nhưng ông vẫn lôi nó ra để họ có thể xem. Thực sự không có gì nhiều - chỉ là một dòng được viết bằng mực đen, những chữ cái nghiêng về phía trước vì tốc độ viết: Nói với Maya rằng tôi xin lỗi.

Vị luật sư nhìn khách hàng của anh ta, nhưng Macintosh cho thấy ông không nhận thức được gì về tờ giấy này.

Một cô y tá cuống quít bảo những người xung quanh phải yên lặng, tay cô đặt lên bên vai còn nguyên vẹn của bệnh nhân. “Ông à, ông cần phải thở.”

“Con trai ông ấy vừa mất,” vị luật sư lí nhí đáp.

“Ồ, trừ khi ông ta muốn đi theo con mình, bằng không ông ta cần phải thở,” cô y tá máy móc đáp.

Vic quan sát trong yên lặng, cuối cùng quay lại nói với luật sư. “Chúng tôi không cần gì từ ông ta cả. Chúng tôi không có câu hỏi nào.”

“Đây gọi là sự tử tế của các anh à?”

“Ông ta được nghe tin này trực tiếp, từ một người không có lý do gì để hả hê với nó. Ông ta được nghe tin này từ một người cha khác. Đó chính là lòng tốt.”

Eddison nhìn người đàn ông nằm trên giường lần cuối rồi theo Vic ra ngoài. Anh không nói gì cả. Anh chưa bao giờ định nói gì. Anh chỉ ở đó vì Vic và có lẽ vì cả những nạn nhân sống sót khác.

Vì Inara, cô gái có lẽ còn hiểu rõ mối quan hệ đầy bất ổn giữa cha và con trai hơn cả cha con nhà Macintosh. Inara, cô gái sẽ biết rõ đó là sự từ bỏ của Desmond chắc chắn như cách anh ta cuối cùng cũng báo cảnh sát. Đó không phải lòng dũng cảm, cũng không phải điều đúng đắn. Chỉ là từ bỏ.

Vic im lặng suốt chặng đường rời khỏi nhà tù, ông lấy lại súng và xe của họ. Ông để cho người cộng sự nói hết, nhưng Eddison biết cách nói chuyện với quản ngục. Nó không giống như cảm giác khó chịu khi phải nói chuyện với các nạn nhân. Họ quay về văn phòng. Vic vẫn đang đắm chìm trong những suy nghĩ.

Eddison lấy điện thoại ra kiểm tra lại vài thứ trước khi hối hả soạn vài tin nhắn. Hầu hết chúng đều được gửi cho bên ga-ra trước khi anh nhận được câu trả lời anh mong đợi. Anh quay số, để điện thoại kết nối với Bluetooth của xe. Khi chuông điện thoại reo, Vic quay sang nhìn anh.

“Anh đúng là một tên khốn khi gọi điện trước giờ trưa,” giọng lẩm bẩm ngái ngủ của Inara vang lên trong điện thoại.

Nếu là một ngày khác, anh có lẽ sẽ trêu cô. Nhưng không phải hôm nay. “Tôi muốn chắc chắn chúng tôi nói với cô tin này.” Anh nhìn sang Vic, Vic gật đầu. “Những người khác vẫn đang ngủ chứ?”

“Mới hơn tám giờ thôi, đương nhiên họ vẫn đang ngủ.”

“Có một chiếc hộp ở ngay bên ngoài cửa nhà cô; hãy mang nó và điện thoại của cô đi thẳng lên mái nhà.”

“Để làm gì cơ chứ?”

“Làm ơn, Inara.” Có điều gì đó trong giọng Vic, một sức nặng, một nỗi sầu khiến Eddison phải nhổm người khỏi chiếc ghế anh đang ngồi. Từ tiếng quần áo sột soạt, anh dám chắc câu nói ấy đã có tác dụng với Inara.

“Bliss, đi nào,” cô thì thầm. “Cô phải dậy ngay.”

“Vẫn còn sớm mà,” họ có thể nghe thấy tiếng rên rỉ của Bliss. “Sao phải dậy?”

“Cô có thể ngủ.”

“Ôi, chết tiệt. Thế là chuyện quan trọng rồi. Chúng ta đi đâu đây?”

“Mái nhà.”

Những đặc vụ ngồi trong xe lắng nghe tiếng sột soạt và tiếng chân huỳnh huỵch của hai cô gái đang ra khỏi giường, và Eddison không biết rằng ai trong số hai cô đã có một đêm tồi tệ vì hai người ở cùng nhau. Những cô gái đã làm điều này khi ở trong Khu vườn, cuộn tròn bên nhau như những chú cún con mỗi khi họ cần cảm giác thoải mái. Có những tiếng ngáy vang vang vào điện thoại, một tiếng nhẹ và lộn xộn, tiếng còn lại còn kinh khủng hơn tiếng cưa, và cả tiếng đàn piano đâu đó. Tiếng một cánh cửa đóng lại và sau đó họ nghe thấy giọng gầm gừ hết hơi của Bliss.

“Quỷ tha ma bắt, cái hộp này có cái quái gì mà nặng thế hả Eddison?”

“Tài hùng biện sáng sớm của cô đáng ngạc nhiên đấy,” anh lạnh nhạt đáp.

“Đi chết đi.”

Eddison cười. Vic thì chỉ lắc đầu.

“Cầm lấy điện thoại này, tôi sẽ mang cái hộp,” Inara nói, và có một tiếng thụp thật to trước khi họ bị ngắt kết nối.

Eddison nhấn nút gọi lần nữa.

“Im đi,” Bliss trả lời. “Không ai lại đi hợp tác bê cái đống chết tiệt này trong một buổi sáng chết tiệt cả.”

Có gì đó chắc chắn và khiến cho người khác yên lòng trong thói báng bổ của Bliss. Giống như người ta tin vào thủy triều vậy.

“Được rồi, chúng tôi ở trên mái nhà rồi đây và trời thì lạnh cóng,” cô nói với âm lượng vừa phải. “Có chuyện gì thế?” “Các cô mở loa ngoài chứ?”

“Ờ.”

“Inara có đó không?”

“Tôi đây,” cô nói, từng từ như bị bóp méo bởi một cái ngáp.

“Chúng tôi có tin mới cho các cô đây.”

“Tốt hay xấu?”

“Chỉ là tin tức thôi, tôi nghĩ vậy. Tôi sẽ để các cô tự quyết định.” Anh hít một hơi, tự hỏi tại sao anh lại là người làm điều này mà không phải Vic. “Desmond vừa được phát hiện đã chết trong ngục sáng nay.”

Họ im lặng khá lâu bên kia đầu dây. Anh có thể nghe thấy tiếng gió rít, thậm chí cả những hồi còi xe văng vẳng từ xa.

“Anh ta tự sát,” Inara cuối cùng cũng lên tiếng.

Bliss cười hô hố vào điện thoại. “Cuối cùng cũng có người thay trời hành đạo.”

“Không, anh ta tự sát. Đúng chứ?”

“Đúng,” Eddison xác nhận, và Bliss lầm bầm mấy câu chửi. “Cái hộp dành cho những lúc các cô muốn phê. Tôi đã nhờ một người bạn gửi nó ở đó.”

“Nếu chúng tôi muốn… Eddison.” Nhưng anh có thể nghe thấy âm thanh gần như là tiếng cười trong giọng Inara, và anh biết cô đã mở nó ra.

Và anh biết, bởi đó là chuyên môn của em họ anh mà, chiếc hộp chứa đầy những chiếc cốc xấu xí nhất quả đất, những món đồ rẻ tiền được sơn nhằng nhịt mà bạn sẽ tự hỏi không biết ai lại bỏ tiền mua chúng. Cô đã mua chúng vì trông chúng xấu kinh khủng và dùng chúng trong mái ấm trị liệu cho phụ nữ mà cô đang điều hành, bởi có điều gì đó khiến cho việc ném vỡ những món đồ chết tiệt vui không tả nổi.

“Nếu các cô cần thêm, hãy nói với tôi. Tôi có thể mang tới cho các cô.”

Vic hơi lưỡng lự trước tiếng gốm vỡ tan.

“Đó là Bliss,” Inara thông báo với họ bằng giọng buồn cười. “Anh ta tự sát thế nào?”

Và đó là kiểu nói chuyện của Inara, cô cứ đi một vòng rồi quay lại. Ngay cả khi cô không cố tình, ngay cả khi cô không có mục đích gây hoang mang cho người đối diện, cô cũng hay trượt dài theo một đề tài cho tới khi quay lại ở một điểm nào đó cô có hứng thú. Bạn chỉ phải đợi điều đó xảy ra mà thôi.

“Anh ta đã treo cổ,” Vic đáp. “Cuối cùng anh ta đã làm mình nghẹt thở.”

“Một tên khốn thậm chí còn biết chết làm sao cho đúng,” Bliss gầm gừ.

“Inara…”

“Tôi ổn mà, Vic,” Inara khẽ trả lời. Tuy rằng khá kỳ lạ nhưng Eddison tin những gì cô vừa nói. “Thợ làm vườn có thể cố gắng và trơ trẽn khi đứng trước tòa, với niềm tin vào những lỗ hổng trong hệ thống pháp lý và sự ưu ái mà hắn được nhận. Nhưng kiểu tự tin đó không bao giờ xuất hiện ở Desmond.”

Một bàn tay của Vic rời khỏi vô lăng, chạm vào túi áo đựng mảnh giấy nhớ của Desmond. Eddison lắc đầu ra hiệu.

“Thợ làm vườn thì sao? Các ông đã báo cho hắn chưa?”

“Chúng tôi vừa từ bệnh xá trở ra đây.”

“Các ông trực tiếp báo cho hắn?”

“Vic là một người cha.”

Câu trả lời trên khiến anh nhận lấy một cái liếc nhìn sắc lẹm từ người cộng sự, nhưng bù lại là giọng nói thấu hiểu từ loa điện thoại. “Văn phòng công tố vừa gọi để báo cho chúng tôi về nội dung của những bức thư,” cô nói. “Họ nói rằng anh ta có vẻ bất ổn nhiều hơn sau cái chết của Amiko.”

“Cô nói là anh ta có kết nối với điệu nhạc cuối cùng dành cho Amiko.”

“Họ biết rằng tôi đã cứ thế gửi thư đi mà không đọc chúng, lệnh cấm liên lạc… điều đó không có gì ngạc nhiên, đúng chứ?”

“Nhưng không có nghĩa là nó ít ảnh hưởng hơn.” Vic nói với cô.

“Đúng thế. Nhưng nó… nó không tệ như tôi nghĩ.”

“Việc nhận tin anh ta chết á?”

“Tôi đã nghĩ các ông gọi để báo với tôi rằng một cô gái nữa đã chết.”

Chết tiệt. Eddison chắc chắn không hề nghĩ đến chuyện này.

Từ vẻ mặt cứng đờ của Vic, anh biết Vic cũng không hề nghĩ tới.

Ồ, giờ thì đúng là một buổi sáng tồi tệ.

Họ nghe thấy một chiếc cốc nữa vừa bị đập vỡ.

“Đúng vậy, nên là chúng tôi cần các ông ghé qua và mang thêm những chiếc cốc này.”

“Inara? Cứ thương xót cho anh ta cũng được, nếu cô muốn.”

“Tôi không biết tôi muốn gì nữa, Vic à,” cô đáp, sau đó cười cay đắng. “Tôi đoán là tôi không muốn anh ta tốn thêm một giây phút nào hay một chút chú ý nào của tôi nữa. Nhưng điều đó công bằng một cách tàn nhẫn, đúng chứ?”

“Điều gì cơ?” Eddison hỏi trước khi kịp nghĩ kỹ hơn.

Cô cười nhẹ một tiếng, âm vang không chủ đích của tiếng cười trong sảnh bệnh viện và một người cha cứ đi đi lại lại, cùng một cô bé đang sợ hãi đối diện với vô số bi kịch. “Chúng tôi sẽ nhờ vài cô gái khác làm giúp ca của chúng tôi đêm nay. Có lẽ chúng tôi sẽ ra biển.”

“Việc đó có ích không?”

“Chúng tôi có thể chạy mải miết mà chẳng có một bức tường kính nào ngăn chúng tôi lại.”

Việc đó rõ ràng có ích phần nào.

“Các cô đừng kể cho ai vội. Họ muốn kiểm soát cách sự kiện này lên mặt báo.”

“Cảm ơn vì đã cho chúng tôi biết. Và vì cả những chiếc cốc chết tiệt này nữa.”

Họ nghe thấy thêm một tiếng vỡ.

Eddison từ bỏ và giơ tay lên miệng để cười. “Tôi sẽ gửi cho cô tên người mà cô có thể liên lạc, cô ấy sẽ cho cô biết chỗ lấy thêm những chiếc cốc như thế này.”

“Không, Bliss, cô không được ném khỏi mái nhà này!” Rồi cuộc gọi đột ngột ngắt.

Nhưng Vic đang hơi mỉm cười, vẻ cau có đáng ghét đã dần phai. “Họ sẽ ổn thôi, phải chứ?”

“Tôi nghĩ Inara sẽ có những ngày tệ hại, nhưng phần lớn thì đúng. Tôi nghĩ cách đó sẽ làm giảm một phần gánh nặng trong cô.”

Điện thoại di động của một trong hai người đổ chuông, khiến cả hai bỗng ngập ngừng. Eddison thấy bên hông mình đang rung. Anh lôi điện thoại ra, trong phút chốc bụng anh như thắt lại khi nhìn thấy tên Priya hiện lên trên màn hình. “Priya? Cô ổn chứ?”

“Có những bông dạ yến thảo trước hiên nhà,” cô nói, giọng sắc lại và gần như sắp vỡ òa. “Mẹ tôi đã để quên cái gì đó và quay lại trước khi bà tới thị trấn, và chúng đã ở đó. Camera hoàn toàn không ghi được cái gì.”

Phần thu lại từ camera cho thấy trong vòng nửa tiếng hoàn toàn không có gì thay vì ghi được cảnh ai đó đưa hoa dạ yến thảo. Lần này màn hình không đứng yên như trước - thời gian vẫn chạy - nhưng toàn bộ màn hình bị nhiễu trong vòng nửa tiếng rồi trở lại bình thường. Giữa hai mốc đó, tất cả đồng hồ trong nửa trước của ngôi nhà đều được cài đặt lại, giả thuyết của Archer là xung điện từ sóng ngắn. Anh ta nói chúng không khó tìm; thậm chí chúng còn quá dễ để làm tại nhà.

Ôi, niềm vui của công nghệ.

Archer đã làm… gì đó… với những chiếc máy quay, trong khi Sterling cãi vã to tiếng trong điện thoại, cố gắng xin phép sếp tổng để lấy ảnh của Landon và đi dán khắp nơi trong các khu dân sinh mà Eddison nghĩ ông ta có thể trú ngụ. Cuộc hội thoại không suôn sẻ nên ngay sau đó cô đã gọi cho Finney. Thế nhưng ông ấy không thể hủy bỏ lệnh giới hạn của sếp mình và giọng nói bị bóp méo của ông ấy nghe cũng đầy giận dữ như Sterling.

Archer trông không lạc quan lắm với chiếc máy quay. “Hy vọng tấm bảo vệ sẽ ngăn nó khỏi đợt sóng tiếp theo,” anh vừa nói vừa bắt vít tấm chắn bảo vệ.

“Hy vọng?” Mẹ tôi hỏi bằng giọng nguy hiểm, bà vẫn mặc quần áo công sở.

“Đây là dòng máy quay an ninh cho gia đình, điều đó không có nghĩa là nó không thể bị phá hỏng.”

Mẹ quắc mắt nhìn chiếc camera, lầm bầm chửi thề bằng tiếng Hindi.

Chủ nhật, chúng tôi lái xe tới Denver, bề ngoài là đi mua sắm nhưng thật ra là đưa tôi rời khỏi Huntington một chút. Mẹ chỉ cho tôi tòa nhà bà làm việc ở LoDo nhưng bà không muốn đi vào đó. Ngay cả khi tôi có tâm trạng gặp gỡ những đồng nghiệp của mẹ, mẹ cũng chưa từng đem công việc vào đời tư từ sau khi chúng tôi rời Boston.

Hai năm đầu di chuyển đây đó, công ty của bà cử bà đi xử lý bộ phận nhân sự trong các chi nhánh đang gặp khó khăn. Bà ở đó để sắp đặt mọi thứ đâu vào đấy. Ngay sau khi chúng tôi tới San Diego, họ đã đề nghị bà nhậm chức Giám đốc Nhân sự chi nhánh Paris; giám đốc hiện tại sẽ nghỉ hưu trong vòng vài năm tới, nhưng người phụ nữ mà ông nhắm cho vị trí này đã bị một công ty công nghiệp Đức săn được. Họ muốn mẹ tiếp tục làm công việc “dập lửa” này ở các văn phòng khác nhau tại Mỹ, đồng thời bắt đầu học về tất cả các vấn đề quốc tế của công ty, luật của Pháp và Liên minh châu Âu đòi hỏi thỏa thuận khác.

Tôi nghĩ điều đó có thể đã khiến tôi gắn bó với Aimée, trong khi những nước đi khác của tôi toàn là né tránh tình bạn. Cô đã rất phấn khích khi biết rằng cuối cùng tôi sẽ thực sự được sống ở Paris; đó là ước mơ của cô. Cho nên trong khi những người khác ở lớp chỉ học vừa đủ để tốt nghiệp hoặc lấy học bổng, Aimée và tôi đã khiến giáo viên phát điên vì đòi hỏi nhiều hơn.

Chúng tôi ăn ở một nơi tuyệt hơn mọi lần một chút bởi tại sao không cơ chứ, và trong toàn bộ thời gian chúng tôi ở đó, tôi có thể cảm thấy cơn giận dữ cuộn lên, bò trườn và cào cấu ruột mình, cơn đói còn nhiều hơn những gì đang có trên đĩa, bởi tôi vẫn không thể dứt khỏi những suy nghĩ về bó hoa dạ yến thảo.

Mọi người biết đến Kierstan Knowles đều nói về tiếng cười của cô. Cô luôn tươi cười, và tiếng cười của cô có thể tràn ngập cả phòng, khiến bạn hoàn toàn cảm thấy muốn hòa vào nó trước khi kịp ngoái lại nhìn xem rốt cuộc thì có gì buồn cười. Kiersten Knowles là sinh vật của niềm vui. Nhưng điều đó chỉ tồn tại cho tới khi dì của cô - cũng là người bạn thân nhất của cô - bị một tài xế say xỉn đâm chết.

Sau đó Kiersten không còn cười nữa.

Cô cũng bị sát hại ngay sau đám tang của dì mình. Cô ở lại nhà thờ trong khi những người khác đến quầy thủ tục; cô bảo với bố là cô cần thêm chút ít thời gian để nói tạm biệt với dì. Khi ông cảm thấy lo lắng và quay lại xem cô thế nào, ông đã thấy cô nằm chết trên sàn, thi thể cô song song với quan tài của người dì, điểm xuyết những đóa dạ yến thảo nhỏ xinh.

Khung cảnh tệ hại đó đã bị chụp lại. Tôi đã thấy nó trên mạng, cùng một bức ảnh khác mà lẽ ra không bao giờ nên được đưa vào hồ sơ cũng như lộ ra ngoài: đó là bố cô, khi cuối cùng cũng được phép lại gần cô, ông bị chụp khi đang quỳ gối, một tay nắm chặt quan tài của em mình, tay kia luồn qua những đóa dạ yến thảo trên tóc con gái mình.

Có một bức ảnh chụp mẹ của Aimée đang kêu khóc thảm thương trong khi xé nát tất cả những bông hoa bất tử trong vườn trên mái nhà vòm của họ. Chúng là những tấm ảnh đầy quyền lực, giàu cảm xúc, rất đắt giá, muôn kiểu chọn một mà bất cứ nhiếp ảnh gia nào cũng phải thật may mắn mới chớp được, giống như bức ảnh chụp tôi đang với về phía chị mình trong khi một nhân viên cấp cứu đưa tôi đi.

Những tấm ảnh đó được rải khắp mọi nơi bởi nền văn hóa của chúng ta hiếu kỳ với tội ác, bởi chúng ta nghĩ rằng nỗi đau riêng của gia đình là để cho người đời phán xét.

Kiersten là vụ án đầu tiên mà FBI tham gia. Một nhân viên là bạn của anh trai Mandy Perkins đã nói chuyện này cho sếp của anh ta, theo bài báo tôi từng đọc. Mandy Perkins là nạn nhân thứ năm - năm năm trôi qua và năm vụ án mạng trước vụ của Kiersten - cô gái thích tạo những ngôi làng thần tiên trong những khu vườn. Mercedes khi ấy đang là sinh viên năm cuối cao đẳng, thậm chí cô còn chưa vào học viện khi Kiersten bị sát hại, nhưng đã có tấm hình Eddison và Vic đứng bên ngoài nhà thờ, nói chuyện với một nữ cảnh sát mặc thường phục. Vic trông điềm đạm, quy củ, hoàn toàn kiểm soát mọi thứ quanh ông.

Eddison thì trông có vẻ tức giận.

Khi chúng tôi về nhà, có một vòng nguyệt quế kết bằng cỏ ba lá treo ở tay nắm cửa, những dây thép cứng giúp định hình chiếc vòng, và những sợi dây điện lủng lẳng rơi xuống từ nơi lắp đặt camera.

Mẹ và tôi đứng đó vài phút, nhìn vào khoảng không giữa hai điểm.

Cỏ ba lá là dành cho Rachel Ortiz, cô gái bị giết tại Hội chợ Phục hưng, nơi cô tham gia đoàn diễn, cỏ ba lá (Clover) cũng là tên nhân vật của cô, một cô gái chăn cừu ngốc nghếch nhảy múa khắp nơi, mang một chiếc giỏ đầy cỏ ba lá màu hồng và trắng để tặng cho trẻ em. Trên áo lót của cô, cô đeo một chiếc ghim có chữ gaolbait để mọi người biết cô là người thiểu số và do đó không bị bắt nạt nữa.

Cô đã bị hiếp dâm, tấm áo lót với chiếc ghim ở bên cạnh thi thể cô được tìm thấy trong một nhà nguyện bằng gỗ nhỏ xíu mà công chúa thường dùng trong đám cưới.

Mẹ đề nghị gọi cho Finney và Eddison nên tôi bước lên tầng hai để thay pajama. Archer sẽ tới đây trong vài phút nữa, mẹ bảo thế, vì anh ta đang loanh quanh ở khu này; Sterling và Finney sẽ lái xe từ Denver tới và mang máy quay mới theo. Chúng tôi gặp Archer khi anh ta tạt qua trên đường đi làm sáng nay, trước khi chúng tôi tới Denver. Việc tuần tra có lẽ sẽ khiến Finney và Vic cảm thấy tốt hơn, nhưng chắc chắn nó cũng tệ như việc không làm gì cho sự bình yên trong tâm trí tôi.

Tôi không xuống lầu. Tôi chẳng có gì để cho họ cả. Finney gọi với lên lầu khi ông tới nhưng tôi không trả lời và một khoảnh khắc sau đó, tôi nghe thấy tiếng mẹ kêu ca. Tôi biết ông mong sẽ gặp tôi để xem tôi ra sao, từ đó ông có thể nói với Bộ ba Đặc vụ là đã trực tiếp thấy tôi vẫn ổn.

Thay vào đó, tôi chui vào tủ quần áo, tìm chiếc hộp giày trên cùng dùng để đựng những ruy băng ảnh của tôi khi tôi tham gia các cuộc thi và lôi nó xuống. Tôi chuyển những dây này sang một chiếc hộp khác nhưng chỉ sau vài lần tôi lại chuyển về, hoàn toàn máy móc. Thú thực, tôi đã giữ những ruy băng ấy trong hộp này lâu tới mức nó đã trở thành hộp ruy băng nên mẹ không bao giờ nghĩ sẽ kiểm tra món bánh Oreo ở đó.

Hai tay tôi run lên, khiến cho giấy bóng kính phát ra tiếng sột soạt. Tôi làm rơi chiếc Oreo đầu tiên đến hai lần trước khi thật sự nắm chắc được nó, những vụn bánh đen dây ra ngón cái và ngón trỏ khi tôi cố dùng sức nắm chiếc bánh.

Nó có vị như tro vậy.

Nhưng tôi nuốt nó và nhét cái tiếp theo vào miệng, nhai nhiều nhất có thể trước khi nuốt được cái này.

Lẽ ra tôi không nên nghiên cứu gì về những vụ án khác. Tôi tự nhủ tôi cần làm điều đó, tôi nợ Aimée điều đó khi giữ những cái tên của họ trong tim mình, nhưng lẽ ra tôi không bao giờ nên làm điều đó, bởi tôi thấy họ rõ ràng, bởi tôi biết điều mà bạn bè và gia đình đã nói về họ, bởi tôi cảm thấy tôi biết họ.

Bởi vì giờ đây mỗi khi nhắm mắt lại, tôi không chỉ thấy Chavi với những bông cúc đại đóa vàng như bơ tỏa ra xung quanh chị, đầu cánh hoa đẫm máu. Tôi còn thấy Aimée, đôi tay cô gập lại để giữ một nhành hoa bất tử trên bộ ngực phẳng lì đặc trưng của những diễn viên múa ba lê, toàn thân cô được vây quanh bởi những đóa hoa. Tôi còn thấy Darla Jean Carmichael, cô gái đầu tiên, cổ họng cô bị cắt, ở chính giữa dòng thác của những đóa vạn thọ trắng và vàng. Tôi còn thấy Leigh Clark, bị cưỡng hiếp tàn ác tới mức nhân viên pháp y đã ngờ rằng có lẽ cô cũng chẳng thể sống nổi kể cả khi cổ họng cô không bị cắt. Tôi còn thấy Natalie Root, đầu cô gối lên một đám dạ lan hương với mọi sắc độ hồng, tím, và trắng giống như một tấm chăn được vá víu chằng chịt.

Những chiếc bánh Oreo nặng nề sau một bữa tối đã nhiều hơn bình thường nhưng nó không khiến tôi nguôi ngoai, bởi tôi thấy được vẻ mặt tê dại của bố tôi khi ông gặp chúng tôi trong bệnh viện, cú sốc không bao giờ hoàn toàn rời khỏi đôi mắt ông. Tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng khóc của Frank khi ông cố kéo tôi ra xa khỏi Chavi, vẫn cảm nhận được mùi máu, cái lạnh và cảm giác nhơm nhớp trên tay, trên cổ, ngực cùng quần áo của tôi khi máu thấm đẫm khác hẳn cái cách nó thấm đẫm Chavi, tôi bị kéo ra một chỗ an toàn, còn chị tôi đang nằm đó trên sàn nhà thờ, hoàn toàn trần truồng.

Tôi có thể thấy bức ảnh chụp Inara, sự hung dữ và cảm giác chở che trên khuôn mặt cô khi cô cố gắng bảo vệ một cô bé khỏi một vụ tấn công vô nghĩa.

Dạ dày tôi như cuộn lên phản đối, nhưng sau khi ăn xong gói bánh đầu tiên, tôi vẫn tiếp tục bóc gói thứ hai, nhồi nhét những chiếc bánh chết tiệt trong cơn buồn nôn. Đây là một nỗi đau hoàn toàn có thể lý giải, nỗi đau này sẽ dừng khi tôi dừng lại, nhưng tôi không thể, chẳng vì gì cả.

Tôi không thể lý giải nổi bất cứ điều gì trong chuyện này và tôi không nghĩ ra bằng cách nào họ chọn chuyện này, Bộ ba Đặc vụ của tôi, cả đặc vụ Finnegan, Sterling và Archer nữa, tôi không tài nào hiểu nổi làm sao họ có thể đối diện với điều này ngày qua ngày. Vấn đề không phải ở chỗ nó xảy ra với những người xa lạ.

Kiersten Knowles, Julie McCarthy, Mandy Perkins, họ đều xa lạ đối với tôi.

Nhưng tôi có thể thấy họ, với những bông hoa dạ yến thảo, thược dược và diên vĩ, da dẻ nhuốm máu và những sàn nhà thờ, và nó không hề…

“Priya! Không, con yêu, không.”

Tay tôi đã ôm chặt gói bánh Oreo trước khi mẹ kịp giằng nó ra. Mẹ tóm lấy hộp ruy băng, thấy còn hai gói trong đó, và đi thẳng ra cửa để ném chúng xuống lầu. Mẹ quỳ gối trước mặt tôi, đôi bàn tay xoa xoa khắp người tôi, ngón cái giữ chặt miệng túi để tôi không lấy ra thêm cái nào nữa.

“Priya, không.”

Mẹ đang khóc.

Mẹ đang khóc.

Nhưng mẹ là một người phụ nữ mạnh mẽ cơ mà, lúc nào cũng ổn ngay cả khi mọi việc không hề ổn (đúng hơn là đặc biệt khi mọi việc không hề ổn), thế thì tại sao bà lại khóc? Tôi sốc đến mức buông rơi cả gói bánh, và bà ném chiếc túi đi, những vụn bánh rơi đầy trên tấm thảm màu xám. Đôi tay bà vòng qua người tôi như một chiếc mỏ cặp.

Cuống họng tôi như bị thiêu đốt và bây giờ, khi không cố nhồi nhét thêm bánh Oreo vào miệng nữa, tôi lại cảm thấy buồn nôn ghê gớm.

“Nào, con yêu. Ngồi dậy nào.”

Mẹ kéo tôi dậy, bà luôn mạnh mẽ hơn vẻ ngoài, và chúng tôi cùng nhau đi qua hành lang tới nhà vệ sinh trong phòng mẹ, bởi vì tôi vẫn không thể nhìn vào nhà vệ sinh của mình mà không thấy những món đồ của Chavi còn sót lại. Nhưng mẹ rất gọn gàng và sạch sẽ, mọi thứ đều được xếp chồng lên nhau, đựng trong các thùng chứa hay cốc nhỏ hoặc cất gọn sau chiếc gương bên. Khi mẹ lục lọi ô chứa đồ, tôi ngồi phịch xuống tấm thảm dày và mềm giữa bồn cầu và bồn tắm. Nó có màu vàng lấp lánh nhưng nhẹ và nhạt như ánh nến.

Mồ hôi đọng thành vệt và nhỏ xuống qua tóc tôi, dọc hai bên má. Tôi có thể cảm thấy tay tôi run lên, rồi đến toàn thân tôi cũng run bần bật.

“Hai cốc,” mẹ nói và ngồi xuống cạnh tôi. Mẹ đưa cho tôi cốc nước muối đầu tiên. Thứ nước này thật ghê tởm và khó uống, lượng nước tôi ọe ra còn nhiều hơn lượng nước tôi có thể nuốt xuống, nhưng khi tôi nhắm mắt nhắm mũi nuốt hết, mẹ lại đưa tôi cốc thứ hai. Việc nôn ọe luôn khiến tôi cảm thấy vừa đau đớn vừa bẩn thỉu và nó sẽ khiến bạn muốn nôn thêm, nhưng nếu tôi có thể nôn ra bây giờ trước khi có cơ hội nôn thêm thì việc đó cũng không quá tệ.

Tuy nhiên, nó kinh khủng.

Mẹ kéo tóc tôi ra sau và buộc túm nó thành một búi lộn xộn, chiếc băng đô vải xấu xí của bà giữ những sợi tóc còn rơi ra phía trước trán tôi. Mẹ quỳ bên chiếc bát ngâm móng tay, một chiếc khăn được gấp lại trong nước lạnh.

Đã hàng tháng trời kể từ khi tôi lặp lại hành động này - tôi thề với Chúa rằng tôi đã ổn hơn - nhưng đó vẫn là một thói quen.

Với một cơn co rút đặc biệt đau đớn, tôi bắt đầu nôn thốc nôn tháo vào bồn cầu. Giữa những lần nôn như thế, mẹ dội sạch cái bát, vắt khăn để lau đi mồ hôi và những thứ bẩn thỉu trên mặt tôi. Ngay cả khi tôi (có vẻ như) đã nôn xong, cảm giác bẩn thỉu vẫn còn đó, sự lưỡng lự liệu nó có còn tiếp tục hay không khiến tôi chần chừ không muốn rời nhà vệ sinh.

Việc nôn ọe khiến tôi đau đớn, nó thúc mạnh trong cơ thể, khiến cổ họng tôi chua lòm và như bị xé rách, tôi bắt đầu khóc nhưng nó chỉ khiến tôi cảm thấy tệ hơn. Ngực tôi đau điếng vì lực ép mỗi khi nôn ra và nỗ lực hít vào chút không khí.

Mẹ ôm choàng lấy tôi, túm chặt tóc tôi, hai bên cổ họng tôi, tôi có thể cảm nhận rõ những ngón tay mẹ ướt lạnh vì liên tục thay khăn cho tôi. “Tất cả đang dồn lại,” mẹ thì thầm vào tai tôi. “Chúng ta sẽ cùng vượt qua mọi chuyện.”

“Con chỉ muốn dừng lại thôi,” tôi rên rỉ, “nhưng mà…”

“Cái gì cơ?”

“Chúng ta đã bảo hắn phải đi đâu để tìm chúng ta. Chúng ta đã cho hắn biết chúng ta sẽ đi đâu kế tiếp và còn thách thức hắn tới.”

“Thách thức ư? Không, là cầu xin mới đúng.” Mẹ nói chắc nịch. “Nhưng ngay khi con có một mối nghi ngờ nhỏ nhất, chúng ta sẽ dừng lại.”

Khi mẹ đề nghị trở về Birmingham, nghe mới thật đơn giản làm sao. Nếu tên sát nhân thực sự theo dõi chúng tôi, nếu việc hắn đã ở San Diego và giết chết Aimée không phải chỉ là trùng hợp, chắc chắn hắn đã thấy hồ sơ của mẹ trên tờ Econimist. Mẹ đã bảo rằng hãy nói cho hắn biết chúng tôi sẽ tới đâu và hắn sẽ theo tới đó. Đó là cách tốt nhất để tóm được hắn.

Ý tưởng này nghe có vẻ rất ổn, ngoại trừ việc chúng tôi vẫn chưa tóm được gã chết tiệt đó.

Chúng tôi không thể lường trước văn phòng FBI ở Denver lại có một bà sếp quái thai như vậy. Lẽ ra chúng tôi phải lường trước rằng hắn sẽ xử đẹp đống máy quay, hắn không thể trót lọt bao nhiêu năm như vậy nếu không cẩn trọng hết mực. Ý tưởng đó từng rất tuyệt vời khi mẹ nói với tôi, bất chấp chúng tôi có những lý do khác nhau để thích nó. Mẹ muốn tìm ra hắn và giết chết hắn.

Tôi muốn tóm hắn và trao cho các đặc vụ của tôi.

Tôi từng muốn như vậy.

Bây giờ tôi muốn gì, tôi cũng không biết nữa. Thật khó để nghĩ thông suốt khi nỗi đau đang cồn cào trong dạ và tôi cảm thấy bị mắc kẹt. Tôi đã bị bỏ lại phía sau, tôi biết điều đó, nhưng logic không thể giúp ngăn lại nỗi sợ khi nhận ra FBI đang giới hạn các đặc vụ của họ và chúng tôi đang phải chịu đựng hậu quả từ việc đó.

“Chúng ta sẽ không bỏ cuộc,” tôi lẩm bẩm.

“Con yêu…”

“Hắn sẽ vẫn ra tay cho tới khi hắn bị ngăn lại. Đó có phải là điều họ vẫn thường nói không? Rằng nếu thoát khỏi chuyện này, chúng sẽ không có lý do gì để dừng lại?”

“Priya à…”

“Những người mẹ khác sẽ tiếp tục mất đi con gái của họ.”

“Những chị em gái khác,” bà thở dài. “Con biết đó, mẹ sắp chuẩn bị xong để gửi con đi đâu đó nghỉ dưỡng khoảng một tháng. Mẹ nên cho con tới Paris trước để trang trí nhà mới.”

“Hắn sẽ tiếp tục giết người.”

“Nhưng việc ngăn hắn lại không đáng để hy sinh con.”

Tôi nhìn bà đứng dậy và ra ngoài, tôi biết bà sẽ không đi xa. Có lẽ bà tới phòng tôi để dọn dẹp chỗ vụn bánh trước khi chúng thu hút ruồi muỗi tới. Những âm thanh ù ù về một kỳ nghỉ ngắn, và một thoáng sau mẹ đã quay lại, trong tay cầm theo chiếc bàn chải đánh răng của tôi.

Miệng tôi bây giờ còn rất bẩn mà tôi không chắc bàn chải có thể chạm tới, nhưng tôi vẫn ngoan ngoãn chải răng, súc miệng và nhổ ra. Khi tôi không còn cảm giác buồn nôn nữa, mẹ giúp tôi rửa mặt. Bây giờ vẫn còn sớm, đặc biệt với chúng tôi, nhưng chúng tôi vẫn ôm nhau trên giường của mẹ - chiếc giường từ sau khi bố mất đã trở nên quá lớn. Mẹ bật ti-vi lên, bỏ qua các kênh cho tới khi đến một bộ phim tài liệu về thiên nhiên được kể bằng giọng đàn ông Anh trầm và dịu dàng.

Mẹ nói BBC là thứ duy nhất bà thật sự nhớ khi nghĩ về London.

Tôi không chắc liệu có ai trong chứng tôi đã thực sự ngủ; chúng tôi chỉ đơn giản là cố thoát khỏi sự kiệt sức và tâm trí trống rỗng. Khi chuông báo thức của mẹ kêu, bà ném nó qua phòng.

Nó vẫn không ngừng kêu.

Tôi vùi mặt mình vào vai mẹ. “Ta không thể rút cái dây nào từ đây để tắt nó đi.”

“Mẹ biết.”

“Nó sẽ không ngừng kêu cho tới khi mẹ tắt đi.”

“Suỵt.”

Chúng tôi nằm đó thêm năm phút nữa cho tới khi một trong hai cảm thấy cần phải làm gì đó. Ngay cả khi đó, chúng tôi cũng chỉ di chuyển sự khoan khoái này xuống lầu để lại cuộn tròn vào lòng nhau trên ghế. Mẹ cầm điện thoại trong tay, tôi có thể nghe thấy tiếng móng tay bà gõ màn hình trong khi ngón cái lướt trên đó, bà đang soạn một tin nhắn. Tôi đoán là gửi cho sếp của bà.

Cũng có thể là cho Eddison.

Có lẽ tôi nên cho anh biết tôi đã có sự cố với bánh Oreo, nhưng tôi thật sự không muốn. Không phải bởi tôi sợ anh sẽ thất vọng - anh sẽ hiểu cho tôi thôi - mà là anh sẽ lo lắng.

Anh sẽ lo lắng hơn nhiều.

Chết tiệt.

Cuối cùng khi dạ dày của mẹ bắt đầu sôi lên, mẹ phải rời khỏi tổ kén ấm áp của chúng tôi. Tôi cũng đói nhưng cứ nghĩ phải ăn cái gì, tôi liền cảm thấy buồn nôn. Mẹ quay lại với một bát yến mạch trộn chuối cho mình và đưa tôi một ly sinh tố. Thật là một sự thỏa hiệp hoàn hảo. Cơ thể tôi cần tiếp chất dinh dưỡng, nhưng lại không phải những món quá khó tiêu. Và sinh tố là đồ uống. Tôi không chắc tại sao nó lại khác biệt, nhưng có thể uống thay vì phải cắn rồi nhai, rõ ràng chúng khác biệt, có lẽ chỉ mình tôi nghĩ thế.

“Liệu đi chơi cờ có khiến con cảm thấy tốt hơn?”

Tình anh em, đồng đội không phải là lý do duy nhất khiến những cựu binh này tụ họp bên nhau. Nhìn thấy những con quỷ trong bạn phản ánh chính bạn, nó tạo ra một nơi an toàn để người ta được tổn thương. Nó cho phép bạn, một cách nào đó, được bất ổn. Bạn tìm đến anh chị mình và họ không chỉ bảo vệ bạn khi bạn rõ ràng không thể là chính mình, họ còn không bao giờ bảo bạn phải trở thành ai khác, ngay cả trong những ngày tồi tệ mà bạn như sụp đổ và mất đi những giá trị con người.

“Có lẽ ạ,” cuối cùng tôi nói.

“Thế thì đi tắm và thay quần áo đi. Mẹ sẽ cùng con tới đó.”

“Đi tắm và thay quần áo ạ?”

Mẹ kéo tôi đứng dậy khỏi ghế.

Khi tôi quay lại dưới lầu, trong khi vẫn mạnh tay quẹt đi những vệt đỏ còn dính trên môi, mẹ đã đứng ở chân cầu thang, quần áo sẵn sàng để ra ngoài. Khi tôi khóa lại cánh cửa phía sau, bà kiểm tra để chắc chắn chiếc camera mới vẫn hoạt động và ở đúng vị trí.

Với cái cách hắn vô hiệu hóa và phá hỏng chiếc camera cũ, tôi không nghĩ camera thực sự hữu ích.

Nhưng giống như việc khóa cửa đem lại cho người ta cảm giác an toàn hơn thực tế, tôi đợi cho đến khi mẹ kiểm tra xong nó rồi dẫn đường xuống vỉa hè. Đến cuối phố, mẹ dừng lại, ngoái lại nhìn ngôi nhà, rồi lắc đầu.

Khi chúng tôi đi bộ tới chỗ bãi cỏ - nay đã dần sáng hơn khi mùa xuân tới - phân nửa số cựu binh vụng về trượt chân khi thấy mẹ tôi.

Happy và Corgi thì huýt sáo như sói.

Mẹ nở một nụ cười hết cỡ trông vô cùng hấp dẫn với họ.

Họ nuốt nước bọt ừng ực và Pierce bắt đầu cười to. “Chắc chắn cô bé Xanh Dương học theo bà,” ông khò khè nói, một bàn tay giữ chặt lấy ngực.

Sau khi ngồi xuống thoải mái đối diện ông Gunny đang thiu thiu ngủ, mẹ ném cho tôi một ánh nhìn. “Cô bé Xanh Dương ư?”

“Vâng, nói thế thôi ạ, chúng ta thực sự cần đi nhuộm lại tóc cho con. Chân tóc của con đã gần chạm đến tuổi bỏ phiếu rồi đấy.”

Điều kỳ lạ trong việc mẹ tới chỗ chơi cờ - một trong vô vàn điều kỳ lạ vào một ngày làm việc như thế này - là bà rõ ràng rất ghét môn này. Bà ghét chơi cờ, ghét xem người ta chơi cờ, ghét cả việc nghe ai nhắc tới nó. Một lần bà đã phải cắt thuê bao cáp trong một tuần để bố không thể bắt bà xem thêm bất kỳ bộ phim tài liệu nào khác về những trận đấu và kỳ thủ nổi tiếng. Cho nên việc bà đang ngồi ở một đầu bàn, xem tất cả các ván cờ diễn ra với cảm giác bối rối được giấu kín, hoàn toàn không phải vì những ván cờ mà vì tôi.

Mẹ không kè kè bên tôi cũng không thả tôi quá tự do, nhưng đôi khi bạn cần một sự chắc chắn tuyệt đối rằng những người bạn yêu thương đang ổn, đang ở ngay trước mặt bạn. Đủ gần để bạn chạm tới.

Một lúc sau, khi Gunny thức dậy và giới thiệu về ông xong, một chiếc xe cảnh sát với những viền sơn xanh navy đi tới gần ốc đảo này và đỗ lại. Tất cả những cựu binh đều ngồi thẳng dậy, ai đang ngồi quay lưng lại phía bãi đỗ thì ngoái lại để nhìn xem có chuyện gì xảy ra. Hai viên cảnh sát bước ra, họ mặc áo khoác đen phồng to tướng, bên trong là bộ đồng phục màu xanh thẫm với những sọc màu mù tạt chạy dọc theo quần.

Những cựu binh cảm thấy thoải mái hơn khi nhận ra họ.

“Chào Pierce, chào Jorge,” viên cảnh sát lớn tuổi hơn cất tiếng chào, mái tóc dày toàn màu xám và trắng. “Dạo này các ông thế nào?”

“Hôm nay thì ấm và khỏe, Lou ạ,” Jorge trả lời. “Điều gì đã mang anh tới đây thế?”

Lou lôi một cuốn sổ bằng bàn tay từ túi sau ra. “Chúng tôi nghe từ một vài người hàng xóm rằng Landon Burnside thảnh thoảng tới đây chơi cờ với các ông.”

Burnside ư?

Mẹ thúc vào đùi tôi một cái.

Corgi gãi gãi chiếc mũi có hình củ hành của mình. “Đúng là ở đây có người tên Landon, tôi khá chắc về điều đó, nhưng chúng tôi không biết họ của ông ta. Một người bình thường?”

Đúng ra là một người nhạt nhòa.

Cộng sự của Lou giơ tấm ảnh lên, đúng rồi, đó là Landon, chúng tôi cũng không nghĩ có khả năng khác.

Corgi cùng vài người khác gật đầu xác nhận. “Đó là ông ta. Ông ta đã làm gì?” Ông không nhìn tôi khi nói câu đó, nhưng Yelp và Steven đều quay sang nhìn tôi.

“Ông ta được phát hiện đã tử vong trong phòng của mình vào tối qua.” Ánh sáng trắng cứ lóe lên trước mắt tôi, nhưng không thật sự rõ ràng vì tôi nháy mắt liên tục. Nó chỉ ở đó, làm tôi không thể nhìn rõ mọi thứ, cho tới khi ngón tay mẹ chọc vào giữa những chiếc xương sườn của tôi mạnh đến nỗi khiến tôi nghẹt thở. Các điểm sáng nhảy múa trong khi cả thế giới quay lại trước mắt.

“Ông ta bị giết như thế nào?” Mẹ bình tĩnh hỏi. “Ông có thể kể qua không?”

Hai viên cảnh sát nhìn nhau và nhún vai. “Khó mà nói được; ông ta đã chết một lúc. Nhân viên pháp y đang làm việc để xác định điều gì đã xảy ra với ông ta.”

“Xảy ra với ông ta,” mẹ nhại lại. “Cho nên các ông nghĩ đó là một vụ án mạng.”

“Đúng vậy, thưa bà.”

Mẹ gõ vào mu bàn tay tôi để tôi nhìn lên mặt bà. Mẹ gật đầu về phía bãi đỗ xe. “Mẹ sẽ nói với họ. Con gọi nhé.”

“Thưa bà? Bà có thông tin gì về ông Burnside à?”

“Tôi có thể nói với các ông rằng FBI đang xem ông ta là một đối tượng cần theo dõi trong một vụ điều tra đang tiếp diễn,” bà nói, giọng trơn tru và mạnh mẽ như ở chỗ làm.

Tôi đi ra khỏi bàn, cẩn trọng để vẫn nằm dưới tầm quan sát của hai viên cảnh sát trong khi đi một vài bước xa khỏi ốc đảo này. Tay tôi run lên và suýt đánh rơi điện thoại hai lần trước khi tôi cầm chắc nó.

“Chào Priya,” chỉ sau một phút đợi máy tôi đã nghe được giọng nói khàn khàn của Eddison. “Cô có tin gì mới à?”

“Họ của Landon là Burnside.”

“Cô biết được họ của ông ta à? Tốt lắm, điều này sẽ… à mà Priya, làm sao cô biết được họ của ông ta?”

Tôi mắc nghẹn vì một tiếng cười bối rối. “Ông ta đã bị giết cách đây không lâu. Người ta tìm thấy thi thể ông vào hôm qua.”

“Cảnh sát địa phương ư?”

“Còn ai vào đây nữa?”

“Chuyển máy cho họ nhé.”

Những viên cảnh sát đều đang nhìn tôi, mặc dù Lou đang chăm chú lắng nghe mẹ. Tôi quay lại và đưa điện thoại cho họ. “Đặc vụ Brandon Eddison muốn nói chuyện với các ông.”

Cộng sự của Lou nhìn tôi chăm chú, sau đó nhẹ nhàng nhận điện thoại từ tay tôi, như thể ông sợ nếu chạm vào tôi, tôi sẽ vỡ vụn, rồi bước về phía xa của đảo trước khi bắt đầu nói chuyện. Chắc ông đang tự giới thiệu, nhưng tôi không nghe rõ. Trước khi tôi có thể ngồi xuống, mẹ đưa tôi điện thoại của bà.

“Gọi cho đặc vụ Finnegan. Phòng trường hợp xấu có thể xảy ra.”

Tôi gật đầu và lại đi ra phía xa, sau đó bấm số mà đặc vụ Finnegan đã cho chúng tôi. Tôi thường xuyên gửi email cho ông, mặc dù gần đây tôi hay nhắn tin hơn mỗi khi có bó hoa nào mới được gửi đến. Tôi đếm tiếng chuông cho tới khi ông bắt máy.

“Đặc vụ Finnegan xin nghe,” ông nói bằng giọng quả quyết, thậm chí chỉ cách giới hạn của sự lỗ mãng chút ít.

“Chào ông, tôi là Priya Sravasti đây. Landon, kẻ theo dõi ghê sợ được phát hiện dã chết vào hôm qua.”

Ông lầm bầm một đống những câu chửi bằng tiếng Nhật. “Tôi không định hỏi vì tôi hiểu đó là một câu hỏi thô lỗ..

“Họ không biết ông ta bị giết khi nào nên tôi không thể cố gắng nói với ông là chúng tôi đã ở đâu.”

“Cô đã báo tin cho Hanoverian chưa?”

“Eddison đang nói chuyện điện thoại với một cảnh sát địa phương.”

“Được rồi, tôi sẽ lấy thông tin liên hệ từ cậu ấy để có thể yêu cầu đến xem xét thi thể và hiện trường. Cô có an toàn không?”

“Mẹ và tôi đang ở chỗ chơi cờ.” Câu nói này nếu xét kỹ ra thì không hoàn toàn là đáp án chính xác cho câu hỏi của ông. Nhưng đó là tất cả những gì tôi có thể nói.

“Khi nào cảnh sát cho các cô đi, hãy về thẳng nhà và ở đó. Nếu cô không cảm thấy an toàn, hãy tới Denver và thuê một khách sạn, rồi cho tôi biết địa chỉ.”

“Vâng, thưa ông.”

“Priya?”

“Vâng, thưa ông?”

“Chúng tôi sẽ đưa cô vượt qua chuyện này,” giọng nói của ông ấm áp và chắc chắn, trong những tình huống khác có lẽ tôi sẽ thấy nó thật an toàn, thậm chí còn dễ chịu nữa.

Nhưng tay ông đang bị buộc chặt rồi.

Tôi quay lại ngồi ở chỗ cũ và đưa điện thoại cho mẹ. Chúa ơi, món sinh tố đang ấm ách trong bụng tôi và tôi đã phải liên tục nuốt lại để không nôn ra ngoài.

“Thế người đàn ông này đã theo dõi cháu à?” Viên cảnh sát lớn tuổi hỏi.

“Có lẽ ạ,” tôi đáp. “Ông ta chắc chắn đã chú ý đến cháu nhiều hơn mức thoải mái một chút.” Tôi nhìn mẹ, thấy bà gật đầu. Có vẻ họ sẽ xem xét tất cả những tình tiết này. “Tôi đã liên tục nhận được hoa theo một quy luật trong những vụ án mạng chưa được giải quyết và với sự chú ý mà Landon dành cho tôi, những đặc vụ đã nghĩ có thể ông ta có liên quan. Họ muốn nói chuyện với ông ta nhưng ông ta đã không tới chỗ chơi cờ nữa và họ không thể tìm thấy bất cứ manh mối nào trên giấy tờ của ông ta.”

“Ông ta không có thẻ căn cước; chủ nhà của ông ta nói cho chúng tôi biết tên của ông ta.”

Người cộng sự quay lại bàn và trả điện thoại cho tôi. “Có vẻ như cô có sự may mắn theo định luật Murphy, cô Priya.”

“Sao cơ ạ?”

“Ồ, chỉ bởi vì tôi đã công tác trong lực lượng ở Boston khi chị cô mất,” ông giải thích bằng chất giọng ề à miền Texas. Lạy Chúa, không nghi ngờ gì nữa khi ông nhìn tôi chăm chú như vậy. Ông đã nhận ra tôi. “Vợ chồng tôi chuyển tới đây khi bố vợ tôi trở bệnh nhưng tôi không quên được gia đình cô. Thật là một bi kịch. Nói cho cô biết điều này, cô lớn lên cũng xinh đẹp như chị cô vậy.”

Tôi há hốc miệng nhìn ông. Tôi không nghĩ tôi có thể làm gì hơn thế.

Mẹ đứng lên và tức giận đi tới cho đến khi bà hoàn toàn chắn trước tôi. “Nếu anh cảm thấy nói như vậy với con gái tôi là hợp lý thì tốt nhất anh đừng nói gì cả,” bà nói với ông ta bằng giọng điệu lạnh như băng. “Cộng sự của anh có thể làm việc với chúng tôi, trong khi anh làm ơn cút đi xa.”

Trong khi viên cảnh sát ngượng nghịu xin lỗi, Corgi với người qua để vỗ vỗ đầu gối tôi. “Hãy tiếp tục học tập mẹ cháu nhé, cô bé Xanh Dương,” ông thì thầm. “Cùng nhau, hai người có thể dọa cả thế giới để bắt họ cư xử cho đúng.”

Tôi nắm chặt tay ông bởi tôi không thể cố cười.

“Anh gọi cho đội trưởng đi,” Lou bảo người cộng sự và nhìn anh ta đi ra. “Xin lỗi bà và cô. Tôi sẽ nói chuyện lại với anh ta về điều này.”

“Nói cho tôi biết tên của anh ta,” mẹ nói, giọng bà giống như ra lệnh hơn là hỏi.

“Cảnh sát Michael Clare,” ông đáp. “Tôi là cảnh sát Lou Hamilton, xin lỗi vì đã để chuyện này xảy ra, tôi biết đây là một quãng thời gian khó khăn nhưng tôi buộc phải hỏi hai người vài câu về những thông tin mới này. Tôi hứa tôi sẽ là người hỏi.” Ông ra hiệu về phía quán Kroger. “Cả mọi người nữa, có lẽ mọi người sẽ thấy thoải mái hơn khi ở trong quán,” ông nói với những cựu binh đang hoang mang, “Clare sẽ có một vài câu hỏi cho các ông, về ông Burnside, nếu các ông không phiền.”

Gunny nghiêm túc gật đầu. “Chúng tôi sẽ đợi anh ta. Cẩn thận nhé, Priya.”

Bên trong quán cà phê, Lou chỉ chúng tôi ngồi ở một bàn và đi lấy đồ uống cho chúng tôi. Tôi thấy Joshua ngồi cách đó mấy bàn, vùi đầu trong một cuốn sách và ở sau quầy, nhân viên pha chế chào viên cảnh sát với sự vui vẻ thường thấy.

Tôi không nhớ cảnh sát Clare. Công bằng mà nói, tôi không nhớ bất cứ người nào mặc đồng phục mà tôi gặp trong cái đêm Chavi bị giết hoặc vài ngày sau đó. Thú thực, những người lạ đầu tiên mà tôi có ấn tượng là Bộ ba Đặc vụ. Thế nhưng năm năm sau, cảnh sát Clare vẫn nhớ tôi.

Mặc dù tôi không thật sự nghĩ Landon đứng phía sau vụ gửi hoa, vẫn có điều gì đó đáng sợ về việc điều tra để khẳng định chắc chắn ông ta không dính líu gì.

Nếu không phải ông ta thì là ai cơ chứ?

“Được rồi, Finney, anh đã điều tra cả tuần nay, hãy cho chúng tôi tin gì tốt đi.”

Tiếng cười bất lực vọng ra từ cái loa ở giữa bàn họp không quá chắc chắn. “Tôi thật sự ước tôi có thể, Vic ạ, nhưng chúng tôi đã mất người duy nhất ở xa trong radar của chúng tôi.”

“Bây giờ chúng ta đã biết nhiều hơn về ông ta, liệu ông ta có khả năng gây ra những vụ án mạng lúc trước không?” Vic hỏi, ngả người ra một trong những cái ghế xoay lưng tựa. Một khuỷu tay của ông tựa lên tay ghế bằng nhựa để nâng người dậy, hai ngón tay day mạnh thái dương để ngăn chặn một thứ có vẻ như một cơn đau đầu. Ramirez đang gõ bút dồn dập lên mặt bàn, cô không thể ngừng lại.

Đó hầu hết là lý do mà Eddison phải cẩn thận khi theo sau Vic.

“Landon Burnside đã sống mà không có kết nối gì với xã hội. Không căn cước công dân do bang nào ban hành, không ô tô, không thẻ tín dụng, không tài khoản ngân hàng, không tài sản. Ông ta làm những công việc kỳ lạ để kiếm tiền mặt và thuê một phòng bí mật ở nhà một người bạn để chứa tiền mặt.”

“Nhưng?”

“Nhưng người bạn đó là em họ của ông ta và tên ông ta thực ra là Landon Cooper. Đã thi hành hai năm rưỡi trong án phạt bảy năm về tội hiếp dâm và đủ loại tội linh tinh khác. Ông ta lẽ ra phải đăng ký lại các giấy tờ khi ra tù nhưng thay vào đó, ông ta đã không tới báo cáo và xuất hiện ở Colorado. Kết quả xét nghiệm DNA gửi tới sáng nay đã xác định được danh tính của ông ta.”

“Có khi nào ông ta đi vòng qua San Diego hai năm trước không?”

“Không thể, khi đó ông ta vẫn ở trong tù. Ông ta chỉ mới được thả mười bốn tháng trước. Ông ta chỉ phải lao động công ích một lần nhưng phải tới tòa vài lần khác và đã bị phàn nàn rằng không thực hiện đủ. Một gã kiểu Thợ làm vườn.” Cả ba đặc vụ rùng mình. “Ông ta thích những cô gái mới lớn hơn rất nhiều so với các cô thích hắn. Ông ta đang bị giam trong tù ở Michigan khi xảy ra vụ án của Aimée Browder.”

“Thế nếu ông ta bị giết vì bảo vệ Priya thì sao?”

Cả Rarmrez và Vic đều xoay ghế lại ngay lập tức để nhìn Eddison, cả Finney cũng yên lặng trong điện thoại.

Eddison nhún vai. “Tôi đang hỏi nghiêm túc đó: thế nếu gã sát nhân giết chết Landon vì ông ta cứ bám theo Priya thì sao?”

Ramirez vẫn nhìn anh chằm chằm, như thể ý tưởng đó rất biến thái, nhưng Vic đã có suy nghĩ rõ ràng. “Giải thích cho chúng tôi đi,” ông đề nghị.

“Tôi có thể mua hoa để nguyền rủa, nếu ai đó khác nhận được chúng. Đó có thể là bất cứ thành viên trong gia đình nào của bất cứ nạn nhân nào. Nhưng chỉ có Priya nhận được. Những bó hoa là vì cô, chứ không phải vì những vụ án. Nếu chúng ta coi đó là những món quà…”

“Hắn đang phán xét cô và khi cô chuyển đi, hắn đã giết Aimée bởi đó là cách gần nhất hắn có thể tiếp cận Priya,” Ramirez nói.

“Bất kể điều gì thôi thúc hắn giết người, đó cũng không phải tình dục; chỉ một nửa số nạn nhân bị hiếp dâm và đó thậm chí giống sự trừng phạt hơn là nhu cầu tình dục. Hắn nhìn thấy một điều gì khác ở họ và cho dù đó là điều gì thì hắn cũng thấy Priya đặc biệt hơn. Hắn muốn Priya v