- I - (3)
Người ta chỉ thấy rõ ràng gia đình tôi an nhàn hơn người khác, tháng ba tháng tám, trong lúc bần cố nông trong làng đói meo thì nhà tôi vẫn còn đủ gạo ăn, con gái lại cũng được đi học đến tận lớp sáu. Trong cuộc đời lao động của mẹ tôi, người ta chỉ nghe lời tố cáo có hai ba vụ mùa nào đó bà đã thuê người gặt. Theo sự suy nghĩ của họ, mẹ tôi được xếp vào loại “lao động lớt phớt”, sống bằng bóc lột là chính. Ôi, miệng lưỡi con người độc địa biết bao! Rồi cái số ruộng vốn có của gia đình tôi là chín sào rưỡi được tố tăng lên là một mẫu ba sào. Cộng với năm, sáu sào ruộng xa ở mãi tận khu rộc Chùa mà bố mẹ đã bán đi từ năm, bảy năm về trước để mua thêm số ruộng hiện nay cho gần nhà, rồi lại cả mấy sào bố tôi đã phải bán đi từ hồi đói năm bốn lăm, ngày nay bị coi như “cố tình phân tán”, thành ra mẹ tôi trở thành một mụ địa chủ có gần bốn mẫu ruộng, một số ruộng mẹ tôi chưa bao giờ có, nghe đến giật mình ở cái xã ruộng đất hiếm hoi này. Người ta tịch thu hết ruộng đất và cả hai con bò của mẹ tôi. Bây giờ thì sức vóc mẹ, một người đàn bà khỏe mạnh mới ngoài bốn mươi tuổi đã sụp xuống. Mẹ chỉ còn là một thân cây cằn cỗi khô đét lại, hai vai dô lên. Cái thân cây lùng thùng trong bộ quần áo nâu bạc phếch đã vá nham nhở càng làm tăng lên nước da trước kia hồng hào nay đã xanh bủng của mẹ.
Trên khuôn mặt mẹ tôi nổi vằn lên những đường răn và đôi mắt ướt đỏ hoe, cái miệng như luôn luôn muốn mếu. Một mái tóc hoa râm khô khan và rối bù quấn qua loa trên đầu, xõa cả xuống tai, xuống trán. Mấy tháng trong cải cách ruộng đất đã làm cuộc đời bà như dài đằng đẵng bao năm. Mẹ cố nuốt miếng cháo cám cuối cùng rồi đặt bát xuống, mẹ kéo vạt áo lên chấm khô nước mắt rồi giải thích cho tôi: “Đàn ông người ta như cái nơm ấy, chả úp chỗ này thì úp chỗ khác. Con không bằng lòng người ta thì người ta hỏi đám khác, lúc ấy con biết nương tựa vào đâu?”. Nghe mẹ nói, tôi lại càng thấy xót xa. Tôi biết nói với mẹ tôi như thế nào bây giờ? Mẹ thương chúng tôi rất mực, mẹ lo cho tương lai chúng tôi, nhưng tôi biết rõ mẹ không thể hiểu được tâm trạng tôi lúc này. Ý nghĩ về hôn nhân của mẹ đã xa cách với tôi hàng thế kỷ. Mẹ không muốn cảnh đói khát đè nặng lên đời chúng tôi, bà không muốn bỏ lỡ cơ hội đối với tôi lúc này. Chắc chắn trong đáy lòng mẹ tôi, mẹ vẫn coi tôi như những năm còn bé dại. “Cái con Thu này, nó mới mười tám tuổi đầu, đang như măng như mụt, lớn người mà nó có hiểu gì đâu! Ngày mai đây, con mà ốm nằm xuống như mẹ thì rồi thì đến cám cũng chẳng có mà ăn. Con phải chịu chết đói hay con đi ăn xin, hay con sẽ sa vào tay một người nào tàn ác để vì miếng cơm, để cho nó đầy đọa!”. Tôi biết mẹ đang bị trăm mối lo giằng xé. Mẹ không đoán được sóng gió cũng đang cuộn lên trong lòng tôi. Tôi có trách nhiệm phải cứu sống mẹ, cứu sống em khỏi chết đói. Tôi có linh cảm khó thoát ra khỏi được cuộc hôn nhân tàn nhẫn lúc này. Giá như tôi đã không quen biết anh Trần Sơn từ trước! Giá như chúng tôi chưa hề có một chút hứa hẹn với nhau! Trời ơi, giá như tôi thật sự chưa yêu, tôi chưa hề có mối tình nào hết! Tôi sẽ quyết định dễ dàng biết bao nhiêu. Tôi sẽ nhắm mắt đưa chân, tôi sẽ đồng ý lấy Quang không do dự, mặc dầu tôi không yêu anh ta, tôi chẳng có một nỗi xúc động nào khi nghĩ đến anh ta. Nhưng tôi trọng anh. Anh đã bước lên trên dư luận khắc nghiệt của xã hội này để tìm đến tôi, tìm đến con bé khốn khổ này. Nhưng sao bây giờ tôi lại thấy quá khó khăn!
Ôi, tình yêu ban đầu, mối tình đầu, nó như hòa vào máu thịt tôi. “Anh Trần Sơn, anh có hiểu nổi tình cảnh của em lúc này không? Em biết làm thế nào bây giờ? Anh có còn nghĩ đến đứa con gái gia đình địa chủ này nữa không?”. Tôi nghe như thâm tâm tôi nấc nở. Nếu anh ấy trông thấy hình dáng tôi hiện nay, liệu tình cảm cũ có còn nguyên vẹn? Hôm qua tôi đã nhìn qua chiếc gương lâu ngày không ngó đến bụi đã bám đầy, tôi bỗng giật mình thấy thân hình tôi tiều tụy quá. Nét mặt tôi đã mất vẻ hồng hào mà chỉ còn khuôn mặt của con bé nào xa lạ, xanh lướt như người sốt rét mới khỏi, hai mắt to và thâm quầng trông thờ thẫn chả còn vẻ thơ mộng và quyến rũ như anh từng mô tả. Cái thân hình tầm thước vốn nở nang của tôi cũng đã biến đi từ lâu. Hai vai tôi dô lên, chẳng còn những đường cong uyển chuyển, tôi đã gầy xọp đi, người như cao thêm lên. Nhìn thấy tôi may chăng người ta chỉ thương hại. Tôi chán nản vô cùng. Tôi nhìn thấy thằng Thủy em tôi đang ngồi lấy đũa chọc bát cháo cám đã vữa nước rồi lại ngơ ngác nhìn tôi. Nét mặt nó xệ xuống. Nó buồn lây cái buồn của mẹ và chị. Tôi giục: “Em ăn nhanh lên để chị dọn, chị còn đi chợ nào”. Thằng em bảy tuổi ngoẹo cái đầu về một bên phụng phịu: “Không, không…, chị không ăn em cũng không ăn nữa đâu. Chị ăn đi cơ”. Tôi gắt: “Ơ hay chửa, chị ăn no rồi, ngồi lâu như em ấy à?”. Thằng em tôi lại hỏi: “Chị ăn no sao trong nồi vẫn còn hở chị, sao hôm qua không còn?”. Thằng em ngây ngô của tôi đã phát hiện cho tôi thấy rằng cả mẹ và tôi đều đã ăn ít vì những nỗi đau khổ đã đè nghẹn lấy cổ. Lần đầu tiên nồi cháo cám nấu lẫn với cọng rau rền còn thừa.
Tôi dỗ em: “ Chị ăn no rồi, đây là phần em. Em ăn đi kẻo đói, mãi tối mới lại được ăn cơ. Chị còn đi bắt cua đem ra chợ bán lấy tiền mua gạo, tối em không phải ăn cháo cám nữa”. Bỗng nó ngước mắt lên nhìn tôi, lo sợ hỏi: “Chị đi bắt cua lâu về, em ở nhà với mẹ, người ta có vào đấu mẹ nữa không? Em sợ lắm chị ơi!”. Mặt nó méo xệch đi, vẻ hoảng hốt phút chốc hiện rõ trên khuôn mặt thơ trẻ nhem nhuốc của nó. Những buổi đấu tố bố mẹ đã qua đã để lại dấu ấn quá nặng nề trong tâm trí em, đã hằn trong lòng em sự sợ hãi đối với mọi người. Tôi nhìn những con ruồi đang bâu vào bát cháo cám trong tay em, lòng tôi thắt lại. Số phận đã định rồi. Tôi phải mang lại bát cơm cho mẹ, cho em, dù bát cơm độn ngô, độn khoai, chứ không phải bát cháo cám người ta chỉ nấu cho lợn này. Ánh nắng cuối năm khô úa từ trên mái nhà tranh đầy lỗ thủng lọt xuống nền đất thành những vòng tròn nhỏ.
Ngày 15 tháng 11 năm 1956: Dư luận làng trên xóm dưới nói nhiều đến những sai lầm trong cải cách ruộng đất và nhất là những sai lầm trong đợt chấn chỉnh tổ chức vừa qua. Nhưng người ta chưa dám nói công khai, người ta chỉ thì thầm bàn tán. Hình như cấp trên đã phát hiện ra những sai lầm này. Người ta nay cũng không bao vây nhà tôi nữa. Tôi đi chợ bán mớ ốc, giỏ cua cũng không thấy mấy người cốt cán ách lại lục soát xem có phân tán của cải không. Mẹ tôi cũng nghe thấy thế. Trong lòng bà le lói một niềm tin. Nhưng bà vẫn nửa tin nửa ngờ, bà càng bồn chồn thêm. Mẹ tôi gục đầu xuống bàn thờ bố, nấc nở: “Ông ơi… i…i… là ông ơiii… Biết đến bao giờ mới gỡ được nỗi oan này…, ông ơiii… Chồng tôi làm gì nên tội, trời ơi là trờii…!”. Lời khóc than của mẹ lan ra, âm thầm, rầu rĩ làm tăng mãi cái không khí tang tóc trong gian nhà hẻo lánh này. Mẹ giơ bàn tay run rẩy đốt mấy nén hương trên ngọn đèn dầu hỏa rồi cắm vào chiếc bát hương đang đặt giữa bàn thờ, cái bàn thờ làm bằng một tấm ván mọt kê trên hai chiếc giá cũ, giữa bàn để chiếc bát cơm ăn đựng đầy tro làm bát hương, lởm chởm những chân hương còn cháy dở. Hai bên bát hương để hai ống hương và hai cây nến đã tróc cả nước sơn trông nham nhở, những thứ mà Đội cải cách còn để lại cho, không thèm tịch thu. Tiếng than thở sầu thảm của mẹ quyện trong khói hương nghi ngút. Rồi mẹ tôi nguyền rủa: “Cha tiên sư cái đứa nào tố vu cho chồng tao là phản động. Nhà mày trồng cây dựng ngược, nhà mày ăn sống nuốt tươi, nhà mày gắp lửa bỏ tay người. Ớ… ớ! Cái đứa tố vu! Cái đứa nào hằn thù chồng tao mà vu oan giáng họa! Rồi nhà chúng mày cũng sẽ bị thánh vật phật bóp, nhà chúng mày chết đường, chết chợ! Ơ cái thằng đàn ông, cái con đàn bà, mày tố vu cho người ta…”. Bỗng nhiên tôi thấy mẹ tôi im bặt, mẹ kéo tà áo lau nước mắt. Hình như đầu óc mẹ rối loạn lên, đang việc nọ mẹ nhớ sang việc kia. Mẹ đứng chắp tay trước ngực, nhìn chăm chú vào làn khói hương nghi ngút, mẹ khấn: “Cầu trời phù hộ cho hương hồn ông mát mẻ, sống khôn chết thiêng. Ông phù hộ cho các con kiếm được miếng mà ăn, đừng để đứa nào chết đói”. Rõ ràng là cảnh chết đói tháng ba năm bốn nhăm lại hiện ra trong ký ức mẹ. Rõ ràng là nỗi lo về hai đứa con chết đói đang ám ảnh mẹ. Mẹ hạ thấp giọng, khấn nhỏ, nhưng cũng đủ để tôi nghe: “Ông, ông có thiêng thì ông bảo con Thu nó nhận lời lấy thằng Quang đi, kiếm miếng cơm mà ăn, mà nuôi em nó cho tôi. Nó còn tơ tưởng gì cái anh Sơn ấy nữa! Cái thằng ấy nó đã coi con mình như đứa con của quân phản động rồi, đời nào nó còn dám mò đến nhà mình nữa mà chờ! Con ơi, - mẹ tôi không quay lại phía tôi mà cứ như nói với chính mình - mày định chờ nó đến lúc ngã xuống à con? Nó có chờ mày nữa đâu! Đã gần hai năm nay nó có dòm ngó gì đến con nữa đâu!”. Những lời nói của mẹ cứ như những gáo nước lạnh dội vào lòng tôi, làm cho lòng tôi tê cứng lại. Tôi hoang mang và thất vọng, một nỗi thất vọng thấm đậm xót xa. Sự vắng biệt tin tức về anh Trần Sơn gần hai năm nay giữa lúc gia đình tôi gặp hoạn nạn đã làm cho tôi nghi ngờ anh, nghi ngờ cả những lời hứa hẹn, cả sự chung thủy tưởng như vĩnh cửu của chúng tôi, mặc dầu trong thâm tâm tôi vẫn cảm thấy day dứt. Xung quanh tôi biết bao nghịch cảnh đã diễn ra, biết bao sợi dây linh thiêng ràng buộc con người với nhau từ hàng ngàn đời nay đã bị dứt bỏ: nào là cảnh con cái tố giác cha mẹ, cảnh nàng dâu đấu bố mẹ chồng, cảnh vợ chồng lìa nhau vì thành phần. Liệu tình yêu ban đầu mà tôi coi là quá thiêng liêng còn có ý nghĩa gì đối với Sơn. Một nỗi thất vọng đến chiếm đoạt cả tâm hồn tôi. Tôi không còn tâm trí đâu mà viết tiếp trang nhật ký, mặc dầu những mẩu đời êm đẹp cũ cứ hiện ra trong trí nhớ.