← Quay lại trang sách

Phần II - Chương 1

Thưa chú, bố cháu bảo cháu mang bì công văn này đưa tận tay cho chú. Chín giờ tối nay, bố cháu sẽ gặp chú ở văn phòng Huyện ủy có việc quan trọng.

Lần nào cũng thế, khi nhận công văn xong là người chú nhìn cháu gái mười bốn tuổi, cái tuổi mới lớn lên còn dáng dấp trẻ con, hỏi vặn linh tinh mấy câu:

- Thế cháu có biết việc quan trọng ấy là việc gì không?

- Cháu chả biết đâu, việc bí mật lắm, bố cháu chả nói đâu.

- Bố không nói, sao cháu lại biết là quan trọng?

- Bố cháu nói thế.

Có hôm người chú hỏi:

- Sáng nay giặc có càn làng bên cạnh làng cháu, cháu có sợ không? - Cô cháu gái cũng thích nói chuyện với chú cán bộ vui tính.

Chú hỏi: - Mấy năm nữa cháu lớn, cháu có muốn đi làm cán bộ như các cô, các chú bây giờ không? Rồi chú tự trả lời khi đứa cháu chưa kịp nghĩ ra lời đáp:

- Làm cán bộ kháng chiến vất vả lắm, chắc cháu chả ưng đâu.

Đó là mẩu đời bốn, năm năm về trước, khi mà cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở trong giai đoạn gay gắt, giặc liên tục chà đi, chà lại mấy xã phía bắc vùng Nga Sơn này. Quân địch ở Phát Diệm, Điền Hộ tăng cường về để càn quét. Cô con gái ông chủ tịch huyện Nguyễn Phan lớn lên trong chiến tranh nên sớm tinh khôn, cô vừa đi học vừa là liên lạc viên đắc lực cho cha. Chú cán bộ mà cô thường xuyên đến gặp để đưa công văn hay lấy tin tức về cho bố là đồng chí Trần Sơn - Huyện ủy viên trực tiếp phụ trách công tác chống càn. Cũng như mọi cán bộ khác công tác trong vùng giáp ranh địch chiếm này, anh thanh niên mới khoảng hăm ba tuổi đầu mà trông già bằng người ngót ba chục xuân xanh. Anh được cô con gái ông chủ tịch gọi ngay bằng chú. Sơn cũng nhận cô là cháu, mặc dầu anh chỉ hơn cô chừng tám, chín tuổi, như biết bao người cháu trong cuộc đời kháng chiến đã qua. Thành một thói quen thường lệ cứ sau vài câu nói đùa, anh lại thân mật bảo cô cháu gái:

- Ở đây ăn cơm với các chú rồi chiều mát hãy về. Cháu ở đây tha hồ mà đọc sách, có hầm trú ẩn kiên cố, không sợ máy bay địch đâu. Người cháu gái thích xem tranh ảnh trong những tờ họa báo Liên Xô và Trung Quốc, những tờ họa báo rực rỡ màu sắc mà cô chẳng thể tìm được ở đâu khác, vui lòng ở lại đến chiều, ngồi giở từng trang hết cuốn này đến cuốn khác xem không chán mắt chồng họa báo tại văn phòng Huyện ủy. Cô phát hiện ra biết bao điều mới lạ trong các tờ báo. Chiều đến Thu cùng ăn với các cô, các chú một bữa cơm tập thể có rau muống chấm tương với cá khô hoặc quả trứng vịt luộc dầm nước mắm. Đã mấy kỳ tết Nguyên đán, Sơn đến thăm chúc tết gia đình ông chủ tịch Nguyễn Phan đều không quên mua tặng đứa cháu gái nữ sinh trường huyện những cuốn sổ tay bìa đỏ và những chiếc bút chì màu. Có tết chú Sơn mua cho Thu chiếc khăn quàng bằng len màu tím nhạt vì thấy Thu không có khăn quàng đi học những buổi trời gió mùa đông bắc, cái khăn màu tím Thu rất thích. Thế rồi thời gian trôi nhanh chóng, cô liên lạc bé nhỏ và nhí nhảnh như con chim non ấy lớn vượt hẳn lên cùng với cái tuổi mười bảy, mạnh mẽ và đẹp như một vì sao. Bẵng đi một thời gian cô không làm liên lạc cho cha nữa. Người chú thấy nhớ bâng quơ cô cháu gái. Cuối năm một ngàn chín trăm năm mươi ba, giặc Pháp liên tiếp mở những trận càn lớn vùng này. Ông Phan một hôm nói với Sơn:

- Chỗ quê tôi dạo này máy bay bắn phá dữ quá, chả là nơi bộ đội chủ lực lui tới đóng quân luôn, tôi muốn đưa nhà tôi và cháu nhỏ tạm lánh về quê ngoại ít lâu. Riêng cháu Thu nó cũng đã lớn, trường học cũng phải sơ tán, học bữa đực bữa cái, tôi muốn cho cháu lên giúp việc trên văn phòng Huyện ủy này, làm kế toán hay văn thư gì đấy cũng được. Một là để cho cháu tập một công việc, hai là nó có thể tiếp tục học văn hóa buổi tối trên này. Ở nhà thì chỉ lo tránh máy bay cả ngày cũng chả làm ăn gì được. Anh có gặp đồng chí bí thư thì báo cáo giúp tôi, tôi chắc đồng chí ấy cũng ưng thuận, vì văn phòng còn đang thiếu văn thư.

Nguyện vọng ông chủ tịch được đồng chí bí thư Huyện ủy chấp nhận. Từ đó, Sơn và Thu lại có điều kiện gần gũi nhau hơn trước. Và cũng từ đó, cuộc sống tập thể cơ quan đã làm thay đổi mối quan hệ giữa hai người. Hình như cách xưng hô “chú cháu” trong giai đoạn này không còn thích hợp nữa. Nó trở thành sự ngượng ngùng đối với một cô gái đã lớn và một thanh niên hai mươi sáu tuổi chưa vợ. Anh em trong cơ quan lại hay tinh nghịch chế nhạo: “Này, này, hai anh chị kia, họ hàng gì với nhau mà cũng “chú cháu!”. Hãy chuyển cách gọi đi, hãy thay bằng “anh em” cho nó thuận lẽ phải”. Có anh tai ác trêu Thu: “Này, gọi người ta là chú là gián tiếp chê người ta là già đấy nhé!”. Nói rồi cả bọn phá lên cười làm cho Thu đỏ bừng cả mặt. Họ trêu cho đến lúc Thu phải chạy đi chỗ khác mới thôi. Từ đó mỗi lần gặp Sơn, Thu cảm thấy mất cả vẻ tự nhiên vốn có. Hình như Sơn cũng thế. Không hiểu sao lòng Thu thấy xốn xang mỗi lần gặp Sơn. Cả hai người đều lúng túng về cách xưng hô, họ đều thấy khó xử. Gọi ngay bằng “anh Sơn” thì Thu thấy ngượng quá. Đã nhiều lần Thu cố tránh để khỏi phải gặp Sơn trong cơ quan, nhưng cô lại thấy bồn chồn trong lòng mỗi lần cô né tránh. Rõ ràng cô đã có cảm tình với người chú khắc khổ và kiên nghị, người cán bộ kháng chiến xa gia đình đã để lại dấu ấn trong lòng cô từ cái tuổi mới lớn lên. Rõ ràng đã có một cái gì thiêng liêng đối với Sơn tàng ẩn trong lòng Thu. Có phải đó là tình yêu? Có phải chính Thu đã yêu Sơn? Nghĩ đến đó, cô bỗng thấy hai gò má mình nóng ran. Thu thấy xấu hổ lạ. Cô không muốn công nhận điều ấy, cô còn muốn giấu chính lòng mình. “Con gái ai lại đi yêu trước! Nhỡ người ta không yêu mình!”. Cô nghĩ như thế. Cho đến một hôm, nhân văn phòng vắng người, Thu nghe Sơn nói với mình: “Thu này, từ nay tôi gọi Thu là “em” nhé, cho nó thuận… lòng tập thể - Rồi Sơn ngập ngừng: -Thu cũng nên gọi tôi là… là… “anh”, đừng đừng… gọi là “chú” nữa…, người ta cười cho…, ngượng lắm!”.

Đôi má Thu bừng đỏ. Thu cúi mặt xuống, mân mê tà áo, hơi thở dồn dập. Chỉ một thoáng thế thôi Thu cũng đã đoán biết là Sơn yêu cô. Cô hồi hộp lạ, ngồi yên không đáp. Sơn như đoán được ý Thu, anh an ủi: “Kệ cho họ cười. Cứ gọi nhau như thế cho… quen đi. Họ có chế nhạo vài hôm cũng không sao. Cũng là do tính vui đùa của tuổi thanh niên như ta cả thôi…”.

Một thời gian sau, Sơn không ở văn phòng Huyện ủy nữa. Anh được cử xuống lãnh đạo công tác chống càn ở mấy xã phía bắc huyện, vùng giáp danh địa phận bị địch chiếm đóng. Vắng mặt Sơn hàng tháng ròng, Thu bỗng cảm thấy lòng mình trống trải. Một nỗi nhớ nhung vơ vẩn đến xâm chiếm tâm hồn cô. Những kỷ niệm nhỏ nhoi mà đẹp đẽ thời học sinh còn ghi đậm trong trí nhớ: những cuốn sổ tay màu đỏ, hộp bút chì màu, chiếc cặp tóc màu xanh, chiếc khăn quàng màu tím nhạt. Hầu như Thu còn giữ tất cả. Rồi ngày nào cũng thế, hễ có ai ở các xã phía bắc về họp hoặc báo cáo công tác, cô lại không quên hỏi thăm tin tức về Sơn. Cô mừng rỡ khi nghe tin Sơn vẫn bình an, công tác chống càn có nhiều thắng lợi. Cô bồn chồn lo âu khi biết Sơn đã lọt sâu vào lòng địch, đang phải ẩn mình trong các gia đình cơ sở, dưới các hầm bí mật tối tăm và ngạt thở. Tự nhiên trong sinh hoạt chật vật hàng ngày Thu cố tiết kiệm từng đồng để mua những cuộn len, cô nghĩ đến Sơn mùa rét sắp đến.

Mấy thanh niên trong ban văn thư cơ quan, trong đội giao liên, những ông tướng tếu lại được dịp bàn tán, đánh đố nhau: “Tao đã bảo mà, hai đứa nó yêu nhau chết mệt đi rồi!”.

“Tao thì bảo không, con bé ấy nó không đời nào lại lấy cái ông nó đã gọi bằng chú ấy!”. Rồi họ nêu đủ mọi lý lẽ để đoán già đoán non: “Dứt khoát là Thu nó sẽ lấy Sơn. Người ta còn hơn kém nhau mười lăm, hai mươi tuổi, chứ hơn kém tám chín tuổi thì thấm vào đâu!”; “Nó có khối thanh niên trong huyện dòm ngó, đặt vấn đề, việc gì nó phải lấy cái anh cán bộ quê mãi tận đâu đâu mà lại khô như ngói ấy. Trông như một ông cụ non!”. Một anh trong bọn vỗ đùi đánh đét một cái như người ta phát hiện ra được một kế hay, nói: -“Có khó gì mà các cậu phải cãi nhau. Muốn biết Thu nó có yêu ông Sơn không chỉ cần giả vờ báo tin cho cô ta biết là anh Sơn bị giặc bao vây trong trận càn và bị bắt rồi, xem thái độ Thu nó ra sao, khắc rõ ngay”. Cả bọn cười rộ lên, tán thành ngay cái việc thăm dò tâm lý quái ác ấy. Tối hôm đó sau khi đã ăn cơm xong, chờ cho các đồng chí Huyện ủy về hết, mấy anh tướng tếu ngồi lại chuyện trò với Thu. Nửa chừng, một anh giao liên trong bọn hớt hải chạy vào báo: -“Các đồng chí ơi, nguy to rồi!”. Mọi người hỏi:

-“Cái gì xảy ra thế?”. Anh kia ấp úng: “Có tin đồng chí Sơ..ơn, đồng chí Sơn bị… bị… gi..ặc bắt mất rồi…!”.

Quả thật cái tin sét đánh đó đã làm cho Thu như chết lặng đi. Nét mặt cô trở nên xanh tái, đôi mắt mở tròn hoảng hốt, đôi môi run lên, cô buông một tiếng kêu khe khẽ: -“Trời ơi!”. Cây bút đang cầm trên tay rơi xuống. Cô luống cuống: -“Làm thế nào? Làm thế nào bây giờ các anh?”. Rồi không kịp để cho mọi người trả lời, Thu đứng lên định đi: -“Em đi tìm đồng chí bí thư, báo cáo cho đồng chí ấy biết đây!”. Khi Thu vừa chạy ra khỏi phòng thì mấy ông tướng tếu phá lên cười:

-“Đấy nhé, tớ bảo có đúng không? Có thật là Thu nó đã yêu ông Sơn một trăm phần trăm rồi không?”

Những anh khác tán thành: -“Ừ, ừ, chịu cậu. Đúng là nó đã yêu!”.

-“Cách thử tâm lý của cậu chúa thật! Cậu xứng với chức “quân sư quạt mo”. Nhưng mà nó hơi tai ác. Cậu làm cho con bé hốt hoảng lên đấy!”. Anh ta gọi to ra phía cổng: -“Thu ơi! Thu ơi! Về đi!”.

Khi cả bọn thấy Thu bước vào phòng với vẻ mặt ngơ ngác, trông thấy trên cặp mắt tròn ngây thơ của cô còn đượm nỗi lo âu, họ mới thôi cười. Một anh dịu giọng: -“Chúng nó đùa em đấy, anh Sơn không bị bắt đâu! Đùa một tí mà đã lo cuống cả lên!”. Ôi cái đùa trong cảnh chiến tranh! Nó cũng nhuốm vẻ tàn khốc như chính chiến tranh vậy. Thu vừa thẹn vừa bực, trả lời: -“Phải gió mấy cái anh này! Các anh đùa ác như quỷ ấy! Không sợ ngày sau chết xuống âm phủ phải bỏ vào vạc dầu à?”. Một anh còn cố nói chữa: -“Suýt nữa làm em không ăn được cơm!”.

Ít lâu sau, Sơn trở về văn phòng Huyện ủy. Anh đã tìm mua được mảnh vải hoa từ trong vùng tề đưa ra bán, rất đẹp, đem về làm quà cho Thu. Đã lâu lắm Sơn không mua quà cho Thu, vì thấy Thu đã lớn. Bản thân anh cũng thấy ngượng ngùng khi tặng quà cho một cô gái đã đến tuổi yêu đương. Lần này đưa miếng vải cho Thu làm anh đỏ cả mặt, làm cho Thu cũng thẹn chín cả người. Sơn đã nghe anh em trong cơ quan bàn tán nhiều về những tình cảm của Thu đối với anh, nhưng anh không dám tin vội. Anh cũng chưa một lần ngỏ lời với Thu. “Chà, con gái mới lớn lên họ còn kén chọn chán. Đặt vấn đề với những người ở cái lứa tuổi này là chả có mấy thành công” - Sơn tự nhủ lòng mình. Anh liếc nhìn nét mặt mình trong gương. “Ờ, mình trông lại khô khan, ai người ta ưng mà mơ tưởng!”. Bất giác anh buông một tiếng thở dài. Anh cố xua đuổi những ý nghĩ về Thu, cố nén mối tình đã lâu nay âm ỉ trong lòng. Nhưng cái dáng người thanh nữ mười bảy tuổi có đôi mắt trong veo tươi sáng với khuôn mặt hồng hào, đôi má lúm đồng tiền và nụ cười rất có duyên, với bộ ngực căng đầy sức sống ấy, ngày càng chiếm đoạt tâm hồn Sơn. Anh cũng tự nhận thấy, chính anh quá rụt rè trong tình yêu. Lại thêm lòng tự trọng đã kìm anh lại. Ôi, cái bản tính cha sinh mẹ đẻ đã ban cho anh nói mới khó chữa làm sao! Có câu phương ngôn nào đã nói: “Tình yêu chỉ đến với những kẻ mạnh dạn”. Biết thế, nhưng anh không làm được. Thiếu gì người mạnh bạo. Có cả kẻ cướp giật trong tình yêu nữa. Nhưng có phải họ đã toại nguyện cả đâu. Đối với anh, tình yêu phải bình đẳng, phải đồng cảm, nó vốn không có lời. Mối tình đầu sao quá mong manh và dễ vỡ! Anh nghĩ đến mấy câu thơ của Xuân Diệu mà anh đã thuộc lòng từ hồi còn học năm thứ ba ban Thành Chung: “Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất. Anh cho em kèm với một lá thư. Em không lấy và tình anh đã mất. Tình đã cho, không lấy lại bao giờ!”. Nghĩ thế Sơn càng dè dặt trong việc ngỏ lời, kể cả bằng cách viết thư. Vả chăng hoàn cảnh chiến tranh, công tác chống càn, xây dựng cơ sở đầy bất trắc và gian nguy không cho phép Sơn đặt vấn đề ra lúc ấy. Anh vốn là loại người duy thiên về trí tuệ, anh chế ngự được tình cảm và làm chủ được mình. “Nếu cô ấy quả thật yêu mình thì để vài năm nữa, đến ngày thắng lợi, hết chiến tranh càng thuận lợi”. Nghĩ thế nên anh kiên trì chờ đợi. Đồng chí bí thư Huyện ủy cũng có biết qua về mối tình giữa Sơn và con đồng chí chủ tịch. Đã có lần đồng chí vui miệng hỏi ông Phan: “Bác Phan có đồng ý gả cháu Thu cho đồng chí Sơn hay không? Hay sợ bác gái không muốn gả chồng xa cho con?”. Rồi đồng chí tiếp, không chờ cho ông Phan trả lời: “Thời buổi kháng chiến, bốn bể là nhà, trong nam ngoài bắc người ta còn lấy nhau nữa là chỉ cách nhau có mấy tỉnh. Hai đứa nó tốt đôi lắm đấy. Chẳng lẽ ông chủ tịch lại đi chê đồng chí mình nghèo”. Ông Phan chỉ cười hề hề. Ông nghĩ: cán bộ kháng chiến ai còn chê nghèo, nhưng chả biết Sơn nó có ưng con Thu thật không? Anh ta quê tận Hải Dương.

Nghe nói Sơn con nhà nghèo nhưng có chí, chuyên đi làm gia sư dạy trẻ con nhà giàu mà học được gần hết ban Thành Chung thì gặp dịp Nhật đảo chính Pháp mới chịu thôi học. Anh ta là người có trình độ, tư cách lại đứng đắn. Kể ra hai đứa nếu có ưng nhau thì lấy nhau cũng được. Ông quay sang phía Sơn, nửa đùa nửa thực:

“Con gái tớ nó mới lớn lên, còn ngây ngô chưa biết gì đâu. Nếu cậu chinh phục được tình cảm của nó thì xong ngay. Nhưng cậu muốn lấy nó thì phải gọi tớ bằng “bố” đấy chứ chẳng lôi thôi gì đâu!”. Câu nói của ông làm cho mọi người cười rộ lên. Trong hoàn cảnh thuận lợi đó, mối tình của họ tuy không ai nói bằng lời, nhưng nó lớn lên theo ngày tháng. Anh cán bộ yêu đương quá rụt rè vẫn giữ nguyên mối tình thầm kín chẳng dám nói ra. Một buổi tối, anh em trong cơ quan đi dự đám cưới hết, văn phòng chỉ còn lại Sơn và Thu, bỗng anh nẩy ra ý kiến táo bạo, vì đối với anh, như thế cũng đã là táo bạo lắm rồi. Anh nghĩ “phải dứt khoát thăm dò xem sao!”. Nhân có quả chuối phần tráng miệng sau bữa cơm tối anh chưa ăn, anh liền bẻ đôi, đưa một nửa cho Thu, nói ngập ngừng: “Này Thu. Nếu em… không… không chê… ít…, thì ăn với… anh một nửa vậy”. Thu liếc mắt nhìn Sơn, quay mặt giấu một nụ cười kín đáo. Cô đã cảm thấy qua cử chỉ vụng về của anh cán bộ luống tuổi, qua giọng nói ngập ngừng của anh, cái điều anh chưa nói hết. Thu ngoan ngoãn cùng ăn chung quả chuối với Sơn. Cả hai người đều thấy hồi hộp lạ. Họ lặng yên một hồi lâu không nói. Rồi Sơn cất lời mạnh dạn hỏi Thu: “Anh em trong cơ quan người ta hay bàn tán…, người ta hay đùa… giữa tôi với Thu. Thu có thấy… khó chịu không?... Ý kiến em thế nào?”. Anh hồi hộp chờ đợi câu trả lời của Thu, vẻ lúng túng hiện ra trong từng cử chỉ. Thu nóng bừng cả mặt. Trời ơi, cô biết trả lời sao đây. Cô như đã chuẩn bị nghe câu hỏi đó từ lâu, nhưng sao cô vẫn thấy nó đột ngột quá. Cô chỉ cúi đầu ngồi yên không đáp. Những ngón tay nhỏ run run mân mê tà áo. Cô nghe Sơn nhắc lại, giọng nhỏ nhẹ và rụt rè: “Thế nào? Thu?... Ý kiến… em…”. Cô cảm giác thấy Sơn đang nhìn cô âu yếm, đang chờ đợi một câu trả lời. Cô biết nói sao đây! Thu hồi hộp quá! Lần đầu tiên trên đời Thu đối mặt với tình yêu. Nó mong manh và dễ vỡ biết bao! Nhưng nó cũng vững chắc và sâu sắc biết bao khi mà tình cảm của cả hai người đã bắt rễ vào nhau. Thu muốn nói rất nhiều, muốn thổ lộ tất cả mối tình thầm kín của cô đối với Sơn bao lâu nay cho Sơn rõ, nhưng không hiểu sao cô không nói nên lời. Cuối cùng cô ngước đôi mắt nhìn Sơn đắm đuối, trả lời khe khẽ như trong giấc mơ: “Em… em không biết…”. Hình như Sơn đã hiểu rõ được tâm hồn Thu qua câu trả lời như vô nghĩa mà lại đầy ý nghĩa đó. Hình như lúc đó Sơn ngồi xích lại gần Thu hơn. Anh đưa cánh tay ôm nhẹ ngang qua người Thu, hôn lên mái tóc của Thu. Hai người ngồi yên lặng bên nhau. Và cứ thế, phút yên lặng say sưa ấy chiếm đoạt cả tình yêu son trẻ của Thu. Hình như lúc đó tiếng nhạc liên hoan đám cưới phía nhà bên vẳng lại, xóa hết cả những hình ảnh tàn phá của chiến tranh còn rớt lại trong đầu óc đôi trai gái yêu nhau. Vầng trăng ló khỏi đám mây, rải vàng trên mái tóc, trên vai áo hai người. Cô nghe rõ anh gọi khẽ: “Thu, em!”. Rồi anh nắm chặt lấy bàn tay mềm và ấm của Thu đưa lên môi hôn. Lòng Thu hồi hộp vô cùng, bỗng tự nhiên cô gọi: “Anh!”. Tiếng gọi ngắn ngủi nhưng tha thiết, chứa đựng tất cả tình cảm nồng cháy của Thu. Gió reo cười ngoài bờ tre trước ngõ. Tiếng nhạc êm đềm lan ra xóm làng, tan trong không gian tĩnh lặng đầy trăng. Đám cưới thời chiến không có pháo mà chỉ có những tràng vỗ tay. Nhưng những tràng súng liên thanh phía đồn bốt giặc xa xa, gợi lại tiếng pháo đám cưới của thời bình.

Đêm đã khuya lắm, y sĩ Lê Thu vẫn thức bên ngọn đèn bàn. Trước mắt là cuốn nhật ký nhiều trang đã hoen ố. Thu không đọc thêm những trang nhật ký, nhưng những mẩu đời vui buồn thời con gái cứ hiện lên rõ ràng trong đầu óc chị. Đã ba chục năm rồi mà sao nó chẳng hề phai nhạt. Người ta bảo thời gian như liều thuốc thần chữa lành được mọi vết thương, sẽ xóa đi những nỗi đau thương cũng như làm phai mờ mọi kỷ niệm êm đẹp. Nhưng đối với chị, thời gian ba mươi năm hình như chưa đủ để phủ một lớp bụi mờ lên quãng đời son trẻ của chị. Nó lần lượt hiện lên trong tâm trí chị như mới xảy ra ngày hôm qua.

Thu còn nhớ rõ lắm, hồi ấy, giữa lúc gia đình Thu lâm vào cảnh đói, Thu phải đi mò cua, bắt ốc bán lấy tiền thêm cho mẹ nuôi được cả nhà, thì Quang xuất hiện. Hôm ấy, Thu chưa kịp lên nhà chị Hiền thì chị nhắn qua mấy đứa cháu gọi Thu lên. Chị Hiền là họ hàng của Thu, ở xóm Đông cách nhà Thu hơn cây số. Chị đi lấy chồng đã hàng chục năm nhưng nghe nói vợ chồng chị lủng củng với nhau, sống chẳng có gì là êm đẹp. Anh chồng đi công tác biền biệt quanh năm chả mấy khi ngó ngàng đến chị. Trước kia chị đến nhà Thu luôn, nhưng từ hồi cải cách, nhà Thu bị lên thành phần lại bị quy là phản động, rồi bị bao vây, chị không dám đến nữa. Hôm nay không biết có việc gì mà chị nhắn Thu lên. Bây giờ thì du kích người ta không bao vây nữa nên Thu đi lại cũng được dễ dàng, chẳng có ai kiểm tra. Thu lên nhà chị vào buổi chiều. Nghe tiếng chó sủa, chị Hiền vội vàng chạy ra cổng. Trong nhà hình như đang có khách. Trông thấy Thu chị mừng rỡ ra mặt, nhưng rồi chị kêu lên: -“Thu đấy à? Trời ơi, em tôi! Trông em xanh quá đi mất thôi! Gầy xọp đi nữa!”. Ngừng một lát chị phân bua: -“Từ ngày chú Phan bị… không may…, chị đã đánh liều xuống nhà em thăm chú, nhưng đến nơi thì du kích họ bắt chị. Họ bảo chị là xuống liên lạc với địa chủ phản động. Rồi họ cảnh cáo đuổi chị về. Chị thương chú thím, thương các em nhưng chị chả dám xuống nữa”. Chị phàn nàn thêm: -“Thời nay người ta coi người như con sâu, con mọt ấy. Chị cũng phải phòng thân, lỡ người ta lại quy mình là phản động đem ra bắn giết thì kêu ai!”. -“Hình như trong nhà chị có khách?” - Thu hỏi.