(3)
Trái lại, anh không thư từ, không thăm hỏi, không một lời nhắn tin! Thôi thế là hết! Có lẽ nó chấm dứt thật sự rồi! Thu thấy chán chường và vô nghĩa lạ. Thu thở dài. Bên cạnh cô đứa em trai bảy tuổi đang ngáy o o, sấm ầm ầm như tiếng bom dội xung quanh. Những tia chớp lóe sáng hắt vào gian nhà lạnh. Rồi màn đêm lại đen như mực. Hình ảnh Sơn nhạt dần, nhạt dần sau bức màn đêm ấy. Thu thấy nước mắt mình giàn giụa. Rồi hình ảnh Quang lại hiện đến. Con người Thu không yêu nhưng anh đã tìm đến giữa lúc gia đình Thu lâm nạn. Ngày mai đây và cả những ngày sau nữa chắc chắn là gia đình Thu sẽ sống bằng lòng hào hiệp của anh, sẽ được anh cưu mang. Thu sẽ đồng ý lấy anh làm chồng! Ôi tình yêu nào chân chính mà chẳng nhuốm những hy sinh! Ông bà ta đã dạy ta qua câu nói có ý nghĩa “một miếng khi đói bằng cả gói khi no”. Thu phải đền đáp lại sự cưu mang của anh. Không còn cách nào khác. Rồi đám cưới của Thu sẽ được mau chóng tổ chức. Chắc chắn như thế. Giữa cái thời buổi khó khăn này chả ai kéo dài sự đi lại ra làm gì! Có thể Thu sẽ sống trong tình yêu mới. Cũng có thể Thu phải sống trong tiếng thở dài. Thu thiếp đi trong giấc ngủ nặng nề. Trong giấc ngủ ấy, Thu thấy hiện lên mấy gốc nhãn xanh tươi trong góc vườn nhà chị Hiền. Cả khóm hồng nữa. Khóm hồng đầy hoa, lá. Cây cỏ còn tốt tươi nguyên vẹn, sao lòng Thu đã thay đổi! Thu bỗng thấy xuất hiện từ sau khóm hồng nét mặt giận dữ của Sơn. Đôi mắt Sơn nhìn Thu đầy oán trách, nhưng vẫn chứa đựng một tình yêu nồng cháy như xưa. Hình như trên khuôn mặt ưu tư của Sơn hằn lên những nét đau khổ làm cho lòng Thu tê tái. Thu như nghe bên tai mình có tiếng nói của Sơn: “Sao em không giữ được tình yêu chung thủy giữa chúng ta! Sao nỡ quên nhau giữa lúc này!”. Rồi Sơn lặng quay đi, không do dự, không luyến tiếc. Cả bầu trời quanh Thu như trở nên trống rỗng. Thu hớt hải chạy theo bóng Sơn đang khuất dần. Cô níu lấy Sơn, cố kéo Sơn trở lại. Giọng cô run lên qua nước mắt: “Anh… anh bỏ em đấy à? Emmm… em đợi anh! Sao anh nỡ nghi ngờ em! Những năm công tác trên văn phòng Huyện ủy em đã học được ở các anh, ở bố em… bao nhiêu điều hay, bao nhiêu điều trung thực… Tình nghĩa ràng buộc nhau trong chiến tranh, trong bom đạn của giặc, trong sự nghiệp chung của mọi người như các anh đã nói, em quên sao được…”. Tiếng nức nở của chính Thu làm cho cô bừng tỉnh. Nước mắt Thu ướt đầm cả một bên má. Cô mở mắt nhìn gian nhà tối đen như mực. Ngoài trời mưa vẫn đổ xuống từng cơn. Thu gạt mọi những ý nghĩ để lòng mình được một phút thanh thản nhưng sao những ý nghĩ cứ liên tiếp xâm chiếm đầu óc Thu. Những lời dặn dò đầy tâm huyết của cha Thu, một người cha cương nghị mà số phận khắc nghiệt giáng xuống đầu làm Thu không thể nào hiểu nổi, đã nói với Thu trước khi chết: “Con là con gái nhưng con hãy làm nhiệm vụ của đứa con trai vì em con còn nhỏ. Con phải can đảm lên mà sống, sống và nói cho được nỗi oan của bố, cho các đồng chí của bố biết sự thật, để cho lịch sử không còn bao giờ lặp lại những việc vô trách nhiệm như việc đã xảy ra với bố”. Rồi bố Thu phàn nàn tiếp mỗi câu: “Trong kháng chiến chống Pháp chín năm, khi phá tề, khi chống càn, bom đạn rơi trên đầu, nhiều lúc cái chết kề bên nhưng bố vẫn không chết. Nay hòa bình lập lại được vài năm, nước nhà lại chưa thống nhất, bố lại phải chết trong nỗi chua xót không lời nào tả xiết này! Bố thật không thể hiểu được vì sao lại phải gây nên cảnh tàn khốc này giữa lúc Bác Hồ đang nêu lên ngọn cờ đại đoàn kết để thống nhất đất nước!”. Thu đã hứa với bố: “Con sẽ ghi lòng tạc dạ những điều bố nói. Bố!... Bố hãy tin ở con! Con sẽ kêu lên đến… Bác Hồ, để Bác biết đến… điều oan của bố!...”. Tự nhiên Thu cảm thấy tâm hồn mình như rắn lại. Nó như được rèn luyện quá khắc nghiệt qua bao nỗi gian lao. Không thể quên lời bố dặn! Không thể từ bỏ cả những điều nguyền ước cũ. Thu đã tìm ra chân lý. Phải, nhiều đồng chí của cha Thu, các bác, các chú của Thu toàn dạy Thu điều hay lẽ phải. Nhờ họ mà Thu mới có được trí tuệ như ngày nay. Vài ba năm công tác, Thu đã học được hơn cả nhiều năm cắp sách đến trường. Thu hiểu được cuộc kháng chiến gian khổ, hiểu được sức mạnh của nhân dân, Thu đã tự nguyện đóng góp sức lực nhỏ bé của mình vào công việc chung. Chính họ, những người chú, người bác đó cùng ăn khoai sắn với Thu, đã nhường cho Thu chiếc hầm cá nhân khi bom giặc dội xuống gần văn phòng Huyện ủy. Tất cả không ai muốn cho Thu phải khổ. Tất cả không ai muốn để mẹ Thu phải khóc đến bị lòa! Không ai muốn em Thu phải đói. Tại sao gia đình Thu lại rơi vào hoàn cảnh này? Tại sao? Thu không tìm được câu trả lời. Một ánh chớp lóe sáng! Tiếp theo là tiếng sấm rền cắt đứt luồng suy nghĩ của Thu. Bà Phan hình như cũng không ngủ, bà cựa mình và thở dài luôn. Thằng Thủy giật mình vội vàng ôm ngang lưng chị. Mưa bên ngoài rả rích. Gió đập phành phạch vào những tầu cau trước nhà. Nước rơi lộp bộp từ trên mái nhà dột xuống chiếc phản gỗ gian bên, nghe đều đều như tiếng nhịp của bản đàn mưa gió giữa đêm khuya, nghe buồn nẫu ruột!
Ngay sáng sớm hôm sau, gia đình Quang đã cho đứa cháu đèo một tải gạo xuống nhà Thu. Gia đình ấy họ cũng cẩn thận. Họ xin phép trước các cốt cán ở xóm. Nghe đâu dạo này ở trên cũng có lệnh xuống là nới lỏng sự bao vây các gia đình địa chủ, cần thiết thì để họ hàng hay người thân tiếp tế cho các hộ thật sự bị đói. Vì thế mà việc Quang tiếp tế gạo cho gia đình Thu cũng không gặp khó khăn gì. Liên tiếp những tuần sau, tuần nào anh ta cũng cho người tiếp xuống, khi thì gạo, khi thì ngô. Có lần lại cả vải cho bà Phan may áo quần cho thằng Thủy. Một hôm Quang theo chiếc xe thồ gạo của đứa em họ xuống thăm gia đình Thu. Anh ta hí hửng tưởng dễ dàng như mọi lần, đến chỗ điếm canh đầu xóm Quang chẳng thèm chào mấy anh du kích cốt cán, cứ lẳng lặng theo chiếc xe đi. Không ngờ hôm ấy lại gặp ngay cái anh cốt cán cố nông “đấu rất hăng” trong cải cách đợt bốn, được anh đội trưởng bắt rễ, đang ngồi trong điếm. Anh ta trông thấy Quang mặc chiếc áo sơ mi màu trứng sáo còn mới tinh, biết ngay là con địa chủ, liền quát: -“Đi đâu?”. Không chờ cho Quang kịp trả lời, anh ta nói thêm: -“Đến liên lạc với địa chủ hả? Mới cải cách xong năm ba tháng đã cấu kết với nhau!”.
Thấy anh cốt cán chỉ bằng tuổi em út mình nhưng hách quá, Quang đành đấu dịu. Anh ấp úng: -“Bẩm… bẩm… các anh cốt cán… chúng tôi đã xin phép…”. Anh ta liền chỉ vào mặt Quang bắt bẻ: -“Chỉ láo! Phải gọi chúng tao bằng “ông bà nông dân”, “bẩm ông bà nông dân”. Không được xưng ngang với chúng tao là các anh cốt cán!”. Rồi anh ta ách Quang lại. Quang cố nằn nì, chịu đựng “bẩm các ông nông dân cốt cán…” để xin vào thăm Thu. Quang chịu nhũn như con chi chi cũng chỉ vì yêu Thu. Anh cốt cán bên cạnh thấy Quang nhăn nhó van xin liền nhắc khéo anh kia là đã có lệnh nới lỏng bao vây. Nhưng anh hách dịch nói nhỏ với bạn: “Phải cảnh giác! Đội đã nhắc từ lâu! Trông thằng này bảnh bao lanh lợi thế kia!... Phải cảnh giác!”. Anh ta quát: -“Chỉ một thằng được vào thôi, còn thằng kia về!”. Thấy Quang còn ngần ngừ, anh ta sờ tay với khẩu súng trường, dọa: -“Về ngay! Đã bảo về là về! Đừng có mà lờn với các ông bà nông dân!”. Thế là Quang đành lủi thủi ra về, lòng nặng trĩu nhục nhã! Ai bảo anh lại tìm cái áo sơ mi sáng choang để mặc. Thời buổi người ta đang khoe cái nghèo đói, cái rách rưới, cái dốt nát thì anh lại đem cái áo mới màu trứng sáo ra mà mặc. Tóc tai anh lại không để cho nó rối bù lên như cái tổ cú ấy. Nét mặt anh lại không làm ra vẻ nhem nhuốc chân lấm tay bùn, mà lại sạch sẽ, sáng sủa thế kia! Chẳng nhẽ đến nhà người yêu lại ăn mặc rách rưới! Lúc ở nhà ra đi, bà Cựu Minh, mẹ Quang đã cẩn thận bảo: “Lấy cái áo cũ mà mặc, rách vá cũng được. Thời buổi này không phải là lúc chưng diện. Mới đủ bát cơm, manh áo đã trở thành địa chủ rồi đấy, anh liệu mà mặc”. Quang thấy mẹ nói đúng nhưng không muốn mặc chiếc áo rách để xuống nhà Thu. Chẳng lẽ may được chiếc áo đã cất từ mấy năm nay, đã qua thời đấu tranh chính trị, qua giảm tô, qua cải cách không dám mặc, đến nay đã xong cả đấu tranh rồi lại vẫn phải cất đi. Các cụ hay lo sợ đấy thôi. Cả cuộc đời các cụ sống trong lo sợ, trước sợ Tây, sợ Nhật, bây giờ lại sợ đấu tố! Sợ cái thật đã đành, bây giờ lại sợ cả đến cái bóng, cái gió nữa! Ai ngờ thời dân chủ mà lại sống với cái lo ngay ngáy bên mình! Nghĩ thế nên Quang cứ mặc chiếc áo mới và rõ ràng anh đã bị đuổi về. Hồi học xong lớp bảy, thi đậu, trong huyện hết trường học, Quang đã xung phong đi bộ đội mấy lần, nhưng cũng vì người thấp bé mà bị loại. Quang phải ở nhà, nhiều lúc nhớ Thu, Quang đã có lần nói thật với cha mẹ để sang hỏi Thu cho anh. Mẹ Quang vốn tính thận trọng lại rút rát, bà đã khuyên con: “Phải biết mình biết người con ạ. Nó là con ông chủ tịch huyện, nó lại đi công tác trước con, nó đang có bao nhiêu đám cán bộ trên tỉnh, trên khu nhằm. Lại nghe nói cả mấy anh bộ đội bốn túi cấp đại đội, tiểu đoàn gì đấy dòm ngó. Con đã nên ông, nên bà gì mà chen chân vào!”. Nghe mẹ nói Quang buồn thiu, nhận ra cái vị trí còn thấp kém của mình. Từ đó nghe nói anh ta quyết tâm đi tìm trường học thêm, không nói năng gì đến chuyện vợ con nữa. Ít lâu sau Quang được tin Thu đã đính ước với Trần Sơn, Huyện ủy viên, người có trình độ và nhiều triển vọng nhất Huyện ủy. “Rồi tay ấy nó còn lên to!”. Nghĩ thế Quang càng buồn. Chả còn một tí hy vọng nào để anh mơ tưởng đến Thu. Trong thâm tâm anh cảm thấy chỉ còn có một con đường để trả thù sự thất bại đầu tiên này là học tập. Anh mơ tưởng sẽ học đến thành bác sĩ, sẽ như ông bác sĩ Hoàng nổi tiếng cả huyện Nga này. Anh sẽ nối nghiệp làm thuốc của bố, cái nghề nhân đạo, chỉ trị bệnh cứu người như bố anh thường nói. Không ngờ, việc đời thay đổi cảnh ngộ trớ trêu, số phận bỗng nhiên lại tạo cho anh cơ hội để có thể hỏi Thu làm vợ như anh từng mơ ước. Anh bàng hoàng như đang sống trong một giấc mơ, một giấc mơ vừa phũ phàng, vừa êm đẹp lạ thường. Trải qua các phong trào “đấu tranh chính trị”, “giảm tô”, “chấn chỉnh tổ chức”, “cải cách ruộng đất” đầy sóng gió, những cuộc nổi dậy hào hùng và đầy khí thế của nông dân, những trật tự ngàn năm bị đảo lộn, những nỗi oan trái bi thảm kèm theo, làm cho lòng người cũng xáo động hoang mang đến tận bề sâu trí tuệ. Những điều oan trái ấy đã buộc số phận của Thu vào anh.
Khi Đội cải cách đợt cuối cùng rút đi, mười chính sách đối với địa chủ đã được công bố rõ ràng, Quang liền bàn lại với mẹ về việc hỏi Thu. Lần này thì anh quyết tâm thuyết phục bố mẹ. Lúc đầu ông Cựu Minh còn lưỡng lự: “Để từ từ xem người ta có sửa sai không đã. Hỏi bây giờ nhỡ người ta lại ghép cho cái tội “liên quan phản động” thì khốn”. Bà Cựu Minh thì lo cho tương lai của con. Bà nói: “Thằng Quang tuổi đã lớn mà vẫn chưa có vợ. Bây giờ nhà mình lên địa chủ hỏi vợ cho nó càng khó. Bần cố nông, trung nông ai người ta gả con cho địa chủ! Mà con gái các nhà ấy cũng chả có mặt mũi nào đáng hỏi cho thằng Quang. Lấy mấy đứa bần cố nông về để hơi một tí nó dọa đấu, để nó làm ngụy trong nhà này! Ông xem, hay để tôi nhờ người xuống làng Thạch hỏi quách cái Thu, con chủ tịch Phan cũ ấy cho thằng Quang”. Ông Cựu Minh thì vẫn thận trọng, mặc dầu ông cũng nôn nóng về lời đề nghị của con. Ông trả lời: “Cứ thong thả một tí, xem thời cuộc nó ra sao đã!”. Bà Cựu Minh nói: “Con bé ấy trước kia nó như hòn ngọc ấy. Nhà ấy mà không bị oan thì khối cán bộ khu, cán bộ tỉnh xông vào, chả đến phần con mình. Bây giờ thì họ chạy sạch, họ lảng ra hết!”.
Dần dần, thấy tình thế trong toàn huyện bớt căng thẳng. Người ta nói nhiều đến sai lầm trong đợt bốn, đợt năm. Đội rút đi được một thời gian thì từ chính quyền đến các đoàn thể đều lỏng lẻo. Người cũ thì bị loại ra gần hết, các chi bộ cũ cũng gần như tan hoang. Chi bộ mới chấn chỉnh thì vừa yếu, vừa kém, các cốt cán mới nhiều người không biết cách làm việc. Họ thắc mắc lẫn nhau. Dân thì ngày càng nói thẳng những điều ấm ức trong lòng, chẳng úp mở nữa. Ông Cựu Minh cũng bất mãn với thời cuộc. Ông cũng không muốn cuộc sống của mình cứ bị gò bó mãi vào những dư luận khắc nghiệt, một phần cũng nể và chiều đứa con trai lớn tuổi có học nhất nhà, ông đồng ý để vợ nhờ người xuống hỏi Thu cho Quang. Ông đồng tình với bà: “Thời này thì địa chủ chỉ còn cách thông gia với địa chủ chứ còn biết thông gia với ai?”. Ông đọc khẽ một câu thơ: “Gặp thời thế thế thời phải thế!”. Và thế là Quang được toại nguyện.
Ngày càng có nhiều tin đồn về Đội sửa sai sắp về làng. Dân khắp các xã trong toàn huyện bàn nhiều đến vụ xử oan ông chủ tịch. Bà Phan lại càng buồn tủi. Gia đình Thu đã qua những ngày đói kém. Thu thức nhiều đêm để viết sẵn những lá đơn, chờ có dịp là gửi đi kêu oan cho cha. Cả hai gia đình đã đồng ý xúc tiến cái đám cưới của hai đứa con. Gọi là đám cưới nhưng thực ra chỉ là một vài thủ tục tối thiểu đối với họ hàng còn lại và đối với tổ tiên cho phải đạo. Họ đều vừa trải qua những nỗi kinh hoàng và những tai biến thảm khốc nhất, còn gì nữa đâu mà dám tổ chức ngày vui cho các con. Thu thì tính từng ngày. Cô muốn kéo dài thời gian ra, đẩy lùi cái ngày cưới khốn khổ ấy lại. Mỗi ngày trôi qua cô lại như mất mát thêm một cái gì quý giá. Đó chính là niềm hy vọng được gặp Sơn. Nhưng cô biết bây giờ anh đang ở phương trời nào mà tìm. Cả Huyện ủy cũ cũng không còn nữa. Người ta đã thay thế cả. Một số ít còn lại thì cũng không biết tin tức Sơn ở đâu. Nghe nói anh cũng đi cải cách ruộng đất từ đợt bốn. Nhưng nay anh ở phương trời nào thì Thu làm sao mà tìm được. Các Đoàn ủy cải cách cho đến Ủy ban cải cách ruộng đất trung ương, đối với Thu, một đứa con gái của một tên địa chủ phản động đương thời phá hoại thì có nghĩa lý gì! Thu làm sao tiếp cận được họ để kêu oan! Họ như những vì sao hung trên bầu trời, chỉ có thể khấn vái thầm, chẳng thể trực tiếp với tới. Trong khi đó thì cái ngày cưới ác nghiệt kia cứ đến gần. Thu bây giờ không còn thuộc cô nữa. Cô là niềm hy vọng của mẹ và của em. Cô đã thuộc về con người hào hiệp đã đến với cô lúc hoạn nạn. Thu đã là người của số phận. Nhưng sao Thu vẫn hy vọng! Chỉ còn hai tuần nữa là đến ngày cưới.
Hôm ấy, Thu đi làm cỏ lúa chỗ sào ruộng tận rộc Chùa mà Đội cải cách để lại cho gia đình cô. Gần trưa cô mới về để nấu cơm cho mẹ và Thủy. Trời cuối năm se lạnh và nắng hanh. Gió bốc bụi trên con đường cát trắng. Giữa đường Thu trông thấy một người đàn ông đang đạp xe phía trước mặt. Chiếc xe đạp còn mới nhưng bị khô dầu nên nó cứ kêu lên ken két. Đến gần Thu nhận thấy người khách tóc đã hoa râm, mặc quần kaki vàng, áo vét tông màu nâu đã cũ. Bên hông đeo chiếc xà cột da. Chắc là một ông cán bộ có cỡ nào đây. Thu ngờ ngợ vì dáng vẻ quen thuộc của ông, nhưng chiếc xe đạp đã vượt qua. Bỗng người khách hãm xe, dừng lại và quay nhìn Thu như để dò xét. Hình như ông khách suy nghĩ một lúc rồi hỏi:
- Có phải… cháu là… cháu Thu, con anh Phan đấy không?
Thu thấy hồi hộp, chăm chú nhìn bác, rồi cô bỗng kêu lên:
- Bác Đạt! Bá… ác…, lâu lắm… cháu chả biết bác ở đâu!
- Mà sao cháu ăn mặc rách rưới thế kia? - Bác nhìn vào chiếc áo nâu vá nhiều chỗ của Thu, mặt nhăn lại:
- Trời lạnh mà mặc phong phanh thế kia! Con không có áo ấm à? - Trước kia bác vẫn gọi Thu là con. Bác nhìn vào rổ rau má, rau sam Thu đã nhặt được ở thửa ruộng bên cạnh. Vài tuần nay tuy có gạo, có ngô nhưng Thu vẫn phải dè xẻn, vẫn hàng ngày độn thêm rau, thêm sắn. Bác phàn nàn:
- Cháu lại hái cả rau má về ăn đấy à? Chết thật! - Rồi bác giục Thu:
- Thế nào? Thế nào? Gia đình cháu thế nào mà cháu đến nông nỗi này? Ơ kìa, sao cháu lại khóc? Thôi, đi về, hãy đưa bác về nhà đã! - Bác dắt chiếc xe đạp, kéo tay Thu cùng đi.
Thu không trả lời những câu hỏi dồn dập của bác, nước mắt cô cứ trào ra. Trong giây phút, trên vầng trán đầy kinh nghiệm của bác hằn lên những đường răn. Bác đã đoán ra được cái gì đã xảy ra với gia đình Thu, nhưng bác chưa hình dung được tấm thảm kịch ấy bi đát đến mức nào. Giọng bác lộ hẳn vẻ lo âu, bác nói:
- Lại lên địa chủ hay phú ông chứ gì? - Bác đã biết những quá khích của đợt bốn và đợt năm, nhưng bác vẫn chưa thể hình dung ra cái kết quả thảm khốc của phong trào chỉnh đốn tổ chức lồng vào các đợt cải cách. Bác nói với Thu:
- Gia đình con, họ mà mù quáng đẩy lên thì cũng chỉ đến mức phú ông. Thế bố mẹ con ra sao rồi?
Thu trả lời qua nước mắt:
- Bác còn hỏi làm gì! Nhà cháu bị quy lên địa chủ! Bố cháu bị… người ta… bắn chết rồi!
- Bị bắn chết! Bố cháu bị bắn thật à? Đứa nào bắn bố con?
Hai mắt bác giương to hốt hoảng! Bác chỉ nghe tiếng thổn thức của Thu trả lời: - Đội cải cách!
Bác Đạt bỗng kêu lên: - Trời ơi! - Bác dừng lại hồi lâu, suy nghĩ.
Thu thoáng nhận thấy rõ ràng bác cũng hoang mang. Hình như tâm thần bác trong giây lát bỗng bị rối loạn. Bác không thể hình dung ra cái điều sét đánh ấy. Bác chưa thể nhận định ngay được đâu là phải trái. Trong đầu óc bác thoáng một nét nghi ngờ: “Phải là phạm trọng tội, họ mới xử như thế! Mình phải tỏ ra vững vàng tin tưởng mới được. Không thể để cho tình cảm cá nhân chi phối. Hơn ai hết mình phải đồng tình với phong trào cách mạng của nông dân, không thể nghi ngờ họ, không thể đả kích vào họ!”.
Nhưng sao bác vẫn thấy tim mình bị đau nhói. Bác có cảm giác như chính mình bị kết án. Bác thở dài và lắc đầu vẻ ngao ngán. Bác cũng chả biết mình thở dài vì buồn cho cảnh ngộ của người đồng chí cũ hay buồn cho cái lập trường tình cảm của mình hiện tại. Nhưng rồi bác nhìn Thu, bác thấy hiện lên cả những kỷ niệm đã qua. Bác nhìn thấy những giọt nước mắt của Thu, nghe thấy tiếng nức nở của cô, trông thấy rổ rau má cô bưng bên hông, bác thấy thương Thu. “Ừ, nó có tội tình gì! Con bé này lúc nhỏ nó ngoan lắm. Bác nghĩ. Vừa đi học, vừa giúp mẹ làm đồng, lại làm liên lạc cho cha giữa thời kỳ bom đạn”. Lòng bác dần dần trấn tĩnh. “Chúng nó chỉ quy láo, quy lếu! Lại mấy anh đội lập trường quá khích gây ra chứ gì!”. Rồi hình ảnh gia đình Thu hiện lên trong trí nhớ của bác. Cả giai đoạn công tác ở gần ông Phan cũng còn như mới tinh. Bác không thể nhầm được. Bác vuốt tóc Thu an ủi:
- Nín đi con! Đi về nhanh lên, rồi kể chi tiết cho bác nghe con! Bác sẽ hết sức…
Nói đến đó bác ngừng lại. Có lẽ bác nghi ngờ khả năng của bác. Cái cơn lốc cải cách, chỉnh đốn tổ chức ấy nó cuốn mọi người đi theo, bác làm gì được bây giờ! Người ta chưa ra khỏi cơn lốc ấy. Chao ôi, cách mạng không phải là con đường bằng!
Bác Đạt dắt xe phía trước, Thu theo sau. Hai bác cháu bước đi từng bước nặng nề, không ai nói với ai một lời nào nữa.