(8)
Thế là họ kéo đến nhà khổ chủ. Hùng đi lật lại xác chết. Đầu tiên, Hùng đoán là “bị thuốc độc”, liền cho đi mượn đồng bạc để thử. Theo phương pháp của y thì hễ bỏ đồng bạc vào miệng xác chết năm phút mà thấy đồng bạc bị xám đen thì chắc chắn là bị thuốc độc. Không hiểu cái thí nghiệm của y dựa trên cơ sở khoa học nào chẳng rõ, chỉ biết rằng lúc ấy đồng bạc lấy ra thì bạc chẳng đen tí nào. Hùng lại đoán là người chết vì bị bóp cổ. Y lấy quả chanh cắt đôi rồi xát vào hai bên cổ xác chết, xát chán rồi y kết luận: -“Đúng là bị địch bóp cổ rồi! Dấu ngón tay còn nổi lên đây!”. Mọi người cố giương to cặp mắt, dán mặt xuống cũng không thể nhìn ra dấu ngón tay, nhưng chẳng ai dám nói gì. Thấy Sơn lắc đầu tỏ vẻ nghi ngờ, “Phú liên quan” liền chỉ vào chiếc cổ tái nhợt của tử thi nói như đinh đóng cột: -“Đây này, đây này, chẳng dấu lằn nổi đỏ lên là gì đây! Đồng chí Hùng nói đúng: đây dứt khoát là có liên quan đến âm mưu địch!”. Sơn cố nhìn thật kỹ cũng không thể nào thấy được các vết lằn ngón tay kẻ giết người trên cổ nạn nhân. Anh phải kêu lên: -“Trời ơi, mắt tôi cũng như mắt các đồng chí chứ có phải cận thị đâu!”. Hùng tỏ ra khinh bỉ Sơn ra mặt: -“Lập trường không đứng hẳn về phía nông dân thì việc có rành rành ra cũng không thể thấy được gì!”. Lê Phú thì luôn mồm nhắc: -“Phải cảnh giác! Cảnh giác!”. Đối với Hùng, Lê Phú là cấp trên, mọi lời nói ra của Lê Phú đều là lẽ phải, không thể chối cãi được. Phú thì nhìn đâu cũng có vấn đề “liên quan”, tìm được người thật sự trong sạch rất khó! Chẳng thế mà mấy hôm đầu mới về xã, nhân dân địa phương thấy Đoàn ủy cải cách về đóng tại làng mình, ai cũng phấn khởi. Họ tìm đến văn phòng đoàn, thăm các anh đội, anh đoàn. Họ kính nể Lê Phú. Có người mời Phú về nhà mình ăn cơm. Có người nấu nước chè kéo Phú sang uống. Có người đem biếu Phú mấy bắp ngô luộc buổi trưa. Nhưng Phú không thông cảm được tấm lòng chân thành của quần chúng. Anh ta nghĩ ngay đến bài học đã được Học ủy phổ biến, đem áp dụng một cách hết sức thô thiển. Phú nhủ thầm: “Địch! Địch! Âm mưu địch muốn dùng nước chè, ngô luộc bao vây cán bộ đây! Phải cảnh giác, không lại chui vào lưới của địch giăng!”. Thế là Phú chẳng dám uống nước, ăn ngô, chẳng dám ngồi trò chuyện với họ. Anh ta lánh xa dần những người nông dân chất phác, nhìn đâu cũng thấy âm mưu địch, cũng thấy liên quan! Phú không biết rằng anh ta đã biến tính cảnh giác cần thiết thành lòng nghi ngờ quá trớn. Phú lại cho là mình có tinh thần cảnh giác cao. Thành ra cái nơi làng quê anh dũng, đã thiết lập được chính quyền cách mạng từ năm 1945, mà hồi kháng chiến Phú vẫn yên tâm qua lại, vẫn ngủ nhờ một nhà xóm đội hay gia đình một đồng chí trưởng thôn mỗi khi công tác về qua một cách yên ổn thì bữa nay đã làm Phú hoảng sợ. Bữa nay Phú lại được trông thấy một thực tế nữa về “âm mưu của địch”! Phú nghe Sơn lý sự:
- Người ta bóp cổ chết bao giờ mặt cũng thâm tím lại, lưỡi lè ra vì bị ngạt, phân, nước tiểu bao giờ cũng vãi ra!
Phú chưa biết trả lời Sơn ra sao thì Hùng đã đỡ lời anh ngay:
- Mặt chẳng tím lại là gì kia! Chẳng phị ra mà lại thế kia à? Còn phân nếu có thì kẻ địch nó cũng phải biết chùi đi để khỏi bị lộ. Anh tưởng “lập trường” kẻ địch nó kém đấy hả? Kém mà nó lại có phản ứng giai cấp mạnh như thế!
Trước những lý sự của Hùng và thái độ cảnh giác của Phú, Sơn lại thấy ra được một điều hết sức thấm thía: “Những con người như Hùng và Phú khi đã có một lòng tin mù quáng mà lại được trang bị bằng lý luận và quyền hạn vượt quá tầm cỡ của họ thì họ có thể nhìn thấy mọi chuyện, chứng minh chuyện theo suy nghĩ chủ quan của họ”. Sơn chưa biết nên tranh luận với Hùng nữa không thì bà chủ nhà đã vừa khóc vừa kể lại:
- Thưa Đội, nhà… à… tôi… bị ốm chưa lành, lại tham công tiếc việc đi làm nên gặp lạnh, bị cảm mà chết đấy thôi!... Chẳng có… ó… aii… bóp cổ cả đâu!
Một ý nghĩ bỗng lóe sáng trong đầu Hùng: “Nhất định người vợ này đã thông đồng với kẻ giết chồng mình, nhưng tư tưởng còn bị khống chế nặng nên mới cố nói để bịt âm mưu địch hòng đánh lạc hướng cán bộ đội như thế!”. Trong đầu óc Hùng nhanh chóng hình thành cả một kế hoạch truy địch: “Phải tác động mạnh mụ này! Khêu gợi tình nghĩa vợ chồng để phân hóa hàng ngũ địch, nhất định sẽ tìm ra manh mối”.
Từ hôm đó, Hùng phân thêm cán bộ về liên tục phát động bà Lai. Bà đi đâu họ theo đi đấy, lải nhải giải thích mỗi một điều về âm mưu của giai cấp địa chủ. Nhưng phát mãi bà ta cũng chẳng động bởi vì bà không thể khai ra một người nào đã bóp cổ chồng bà cả. “Hùng lập trường” đâu có chịu thua. Cái chức đoàn ủy viên không thể tuột khỏi tay Hùng. Hơn lúc nào hết, y phải tỏ ra lòng quyết tâm truy địch đến cùng, tấn công địch liên tục không chịu lùi bước. Cái thái độ lấm lét của tên Nhẫn, người hàng xóm nhà ông Lia đáng ngờ lắm! Người ta bảo người ít trí tuệ thì hay sống bằng cảm giác. Bây giờ là lúc cảm giác của Hùng phát huy sức mạnh. Khốn khổ cho những ai có máu mặt trong làng mà Hùng lại có cảm giác xấu! Gia đình ông Nhẫn rơi vào tầm cảm giác của y. Cả một kế hoạch truy ông Nhẫn được hình thành. Không do dự, Hùng gạt Sơn ra ngoài, gọi ngay anh cốt cán vừa được bổ sung về xóm lên Đội bồi dưỡng suốt một buổi về kế hoạch phát động quần chúng truy tên Nhẫn khả nghi! Kể từ ngày có phong trào giảm tô đến nay, cuộc đời của vợ chồng ông Nhẫn cũng thật long đong, năm chìm bẩy nổi chỉ vì gia đình ông thuộc loại trung nông khá. Đội trưởng Hùng đã đem đến cho vợ chồng ông nỗi lo sợ ngay từ buổi đầu mới về xã. Hôm đặt chân về làng, việc đầu tiên của Đội cải cách là thâm nhập quần chúng đi thăm nghèo hỏi khổ các gia đình. Trông thấy vợ chồng ông Nhẫn lam lũ, Hùng tưởng gia đình ông thuộc loại bần nông, liền vào trò chuyện. Bà Nhẫn đang lúi húi sau vườn thì thấy đứa con gái nhỏ chạy ra gọi:
- Mẹ ơi, có anh đội cải cách vào nhà ta!
Nghe con nói, bà Nhẫn mừng rơn. Bà nghĩ: cán bộ cải cách đến nhà thì chắc chắn gia đình không còn bị nghi ngờ là phú nông như hồi giảm tô nữa. Bà chạy vọt vào nhà, đon đả mời chào rối rít anh đội. Bà lấy chiếc chổi đót quét sạch mặt chiếc phản gỗ đầy bụi, trải lên chiếu hoa mới rồi mời anh ngồi. Bà sai con đi đun nước pha trà. Ông Nhẫn thì lôi bộ ấm trà cổ vẫn để trên giường thờ xuống lau sạch, bộ ấm trà từ thời ông cụ để lại, có khách quý ông mới lấy xuống. Không ngờ lòng hiếu khách không hợp thời của ông đã làm cho đội trưởng Hùng giật mình. Thấy chủ nhà có chiếu hoa mới, có sập gỗ, lại có cả bộ chén pha trà cổ, Hùng nghi ngại lên tiếng hỏi:
- Nhà ta thành phần gì nhỉ?
Bà Nhẫn nhanh nhẩu trả lời:
- Dạ, Đội giảm tô xếp nhà tôi vào thành phần trung nông.
Vừa nghe nói là trung nông, Hùng đã muốn đứng dậy đi ngay, nhưng lại nghĩ: “Đoàn kết với trung nông!” nên anh ta đành ngồi nán lại. Lòng anh ta bồn chồn không yên. Đứng lên đi ngay thì sợ phạm chính sách đoàn kết trung nông, mà ngồi lâu lỡ có ai biết thì lại phê là mới đến đã dựa vào trung nông thì khốn! Đang suy nghĩ thì Hùng lại trông thấy đứa con gái mười ba tuổi của bà Nhẫn ở ngoài vườn chạy vào, tai đeo đôi hoa bằng đồng, loại hoa tai của trẻ con nông thôn làm dáng, Hùng lại tưởng là hoa tai vàng, anh ta hoảng sợ, nghĩ: “Không khéo lại vào nhà địa chủ lọt lưới thì chết!”. Hùng vội vàng đeo ba lô lên vai, chào qua gia chủ rồi đi thẳng ra cổng, mắt lấm lét chỉ sợ người trong xóm biết mình đã vào nhà này lại bàn tán đến tai toàn đội thì cũng phiền. Vợ chồng ông Nhẫn thấy anh đội chưa nói được câu nào đã vội bỏ đi, không ngoái cổ nhìn lại thì cũng đâm lo. Hai vợ chồng mất ăn mất ngủ từ hôm đó. Mấy hôm nay vừa mới đỡ lo sợ đôi chút thì lại có tin như sét đánh: ông Nhẫn bị Đội nghi ngờ là đã giết ông Lai. Chỉ có vài ngày mà ông lo rạc cả người. Ông bị đưa ra hội nghị xóm để phát hiện bằng chứng. Buổi chiều Sơn đã đề nghị với Hùng:
- Nếu anh còn nghi ngờ là ông Lai bị địch giết, muốn điều tra cho ra, ta nên tìm những người tốt để phát động, hỏi ý kiến họ mà tìm ra manh mối thì hơn. Nếu đem ngay ra hội nghị toàn dân truy vu vơ bị những người lạc hậu, những người xấu tố điêu, tố nhảm thì sao?
Hùng chẳng những không nghe mà lại tỏ ra ngạc nhiên về câu hỏi của Sơn:
- Chết, chết! Đến giờ mà anh vẫn không tin vào quần chúng! Quần chúng bần cố nông mà lại tố điêu, tố nhảm hả? Lập trường thế thì chết!
Kết quả lại càng củng cố thêm lập trường cho Hùng, càng chứng minh cái thiếu lập trường của Sơn. Nghĩ lại, Sơn thấy giật mình. Chuyện thật chết người mà cứ như chuyện đùa!
Tối hôm đó, giữa hội nghị toàn xóm, Hùng liếc mắt nhìn về phía ông Nhẫn đang ngồi, dõng dạc tuyên bố:
- Kẻ địch có khi sờ sờ ngay trước mặt ta mà ta không biết. Đề nghị nhân dân thấy gì nghi ngờ cứ việc mạnh bạo nói hết, không sợ địa chủ hay tay sai của chúng trả thù!
Mọi người im phăng phắc, chẳng ai dám lên tiếng trước mặc dầu trước đó Hùng đã họp cốt cán bồi dưỡng cho một số người biết về những nghi ngờ đối với tên Nhẫn, mớm cho họ cách tố giác, kích động họ cái gọi là “lòng mạnh dạn nghi ngờ”. Bây giờ thì người nọ vẫn lấm lét nhìn người kia. Thấy cuộc họp im lặng kéo dài, Hùng khêu gợi thẳng:
- Hôm qua anh em bần cố nông chúng ta đã phát hiện thấy trước khi ông Lai chết, có tên Nhẫn rất hay lén lút qua lại bàn tán. Nếu họ không tham gia gì tổ chức bí mật thì tại sao lại hay lén lút vào nhà nhau như vậy?
Hùng lập trường gợi ý như thế bởi trong đầu ý đã có sẵn cả một hệ thống ý nghĩ rất sai về tổ chức địch ở nông thôn. Hồi tổng kết đợt bốn, Hùng được nghe một báo cáo điển hình về tổ chức Quốc dân đảng phản động ở một xã tận Vĩnh Yên, nơi sào huyệt của Quốc dân đảng cũ, đã hoạt động chống phá cải cách ruộng đất rất trắng trợn. Mà cũng chẳng hiểu sao họ lại đem cái xã có chống phá cá biệt ấy lên báo cáo điển hình. Thế là Hùng chẳng thể phân biệt được cái cá biệt với cái phổ biến, Hùng hình dung trước cả một tổ chức địch trong đầu để áp dụng cho xã này. Hùng tin vào bản báo cáo điển hình rằng chính quyền của ta ở xã đã nằm trong tay bọn phản động Quốc dân đảng từ thuở nào rồi!
Gặp câu hỏi của Hùng, cố nhiên những người có chút hiềm khích với ông Nhẫn được cơ hội giơ tay. Mụ phó Hường vốn ghét bà Nhẫn về cái việc đã nói xấu con gái mụ chửa hoang, nên lần này có dịp trả thù, mụ liền nói:
- Vợ chồng nhà nó hay nói không làm có lắm, nó giết người chẳng cần gươm dao đâu. Nhờ ơn Đội sáng suốt, trị cho chồng nó một phen cho dân chúng tôi nhờ.
Ông Tửu thấy mụ phó Hường nói mạnh mồm, cũng nghĩ ngay đến chuyện xích mích cũ với ông Nhẫn. Nửa tháng trước hai nhà chửi lộn nhau chỉ vì đàn gà nhà ông Tửu sang phá vườn rau nhà ông Nhẫn, bị con ông Nhẫn ném què hai con. Nỗi uất ức vì bị ông Nhẫn chửi tục, lại bị mất hai con gà đang đẻ vẫn chưa nguôi. Ông Tửu theo mụ phó Hường phát biểu:
- Tên Nhẫn lòng… dạ… nham hiểm lắm. Nó cậy giàu, cậy có của hơn người… làm hại người! Chính nó đã giết ông Lai chứ chẳng sai. Tôi… xin Đội… cứ bỏ tù cả hai vợ chồng nó… cho đáng đời!
Vợ chồng ông Nhẫn trong hội nghị tức tím ruột, tím gan, biết người ta nói vu cho mình mà chẳng dám hé răng. Bà Nhẫn thì run lên bần bật, người ngồi đó mà hồn vía ở tận đâu đâu. Ông Nhẫn thì còn mạnh bạo hơn, ông giơ tay định xin anh đội cho thanh minh vài lời thì đội trưởng Hùng quát:
- Im đi! Để cho các ông các bà nông dân nói đã, anh chưa được phép nói. Khôn hồn thì sáng mai đến thú với Đội, chịu hàng phục nông dân, sẽ được giảm nhẹ bớt tội!
Ông Nhẫn càng lo sợ, uất ức đến ứa nước mắt. Hùng thấy im lặng lại khêu gợi:
- Nhân dân ta phát hiện thêm âm mưu địch đi! Truy thêm vài chứng cớ kẻ giết ông Lai.
Vẫn im lặng, chẳng ai có ý kiến thêm. Hùng lại nghĩ là “nông dân còn bị địch khống chế, không dám nói”. Tên Nhẫn ngồi lù lù đó, nếu không trấn áp thì quần chúng còn sợ uy thế đó. Hùng liền giải thích:
- Ngày nay nông dân ta đã có Đội về. Ta đã làm chủ. Ta có quyền nói, có quyền nghi ngờ, không đứa nào trả thù được ta cả. Nếu ta biết mà không nói thì hóa ra ta còn thương xót kẻ địch, ta bao che cho địch.
Vài ba thanh niên mới lớn, lêu lổng, lười nhác, vừa được bồi dưỡng thành cốt cán nghe Hùng nói, liền bốc lên để chứng tỏ lập trường cứng rắn của mình với anh đội:
- Nhà thằng Nhẫn giầu có hơn anh em bần cố nhiều! Nó không phải là trung nông! Nó lao động… lớt… phớt!
- Tên Nhẫn là địa chủ lọt lưới!
- Chính tên Nhẫn bóp cổ ông Lai!...
Ông Nhẫn vốn không muốn đi họp để nghe những lời tố vu đó. Ông muốn nằm ở nhà để khỏi tức uất lên, nhưng ông bị dồn vào thế bí. Nếu ở nhà thì Đội cải cách sẽ kết tội ông là chống phá, Đội triệu tập mà dám trái lệnh. Đi họp thì ông lại bị nghi là đi để dò xét tình hình, để khống chế nông dân. Ở trong hội nghị, ông Nhẫn không biết ngồi chỗ nào cho phải. Ngồi với những người cùng hội cùng thuyền đang bị ngờ thì họ bảo “ngồi co cụm lại với nhau để bàn bạc đối phó”. Ngồi xa nhau ra thì họ bảo “phân tán khắp hội nghị để dễ bề chống chế kìm hãm quần chúng phát hiện”. Ngồi chỗ sáng thì xấu hổ. Ngồi chỗ tối thì đội trưởng Hùng bấm đèn pin vào mặt. Ông Nhẫn cảm thấy thật vô cùng nhục nhã.
Tối qua bà Nhẫn lo nghĩ bàn với chồng: -“Ông nó ạ, họ mà tố vu cho nhà mình lên địa chủ thì hết cả cơ nghiệp vất vả mấy chục năm. Có ít đồ đồng, ông nó đem chôn đi…”. Chưa nghe hết câu ông Nhẫn đã gạt phăng: -“Thôi, thôi, bà mày đừng có vẽ việc ra, lại chết cả bây giờ! Còn thì giữ, hết thì thôi. Người ta đã kích mình lên địa chủ, lại vu cho tội phản động, giờ lại chôn của để chịu thêm cái tội phân tán thì rồi ngay cũng hóa gian. Mà đến lúc người ta đem mình ra truy hồi thì liệu có giấu nổi không hay chỉ thêm khổ!”.
Bà Nhẫn nghe chồng nhưng tiếc của cứ ngẩn ngơ cả ngày. À thì tính mấy bà nông thôn quen tằn tiện, chân lấm tay bùn, ky cóp suốt đời để tạo nên cơ nghiệp, người ta tiếc nó là dĩ nhiên. Cả ngày bà như thày bói dọn cưới: bà giấu năm chiếc mâm đồng vào sau đụn rơm góc nhà. Nghĩ đi nghĩ lại bà lại sợ phạm vào phân tán, hết đem dựng ở xó nhà đằng đông lại chuyển ra xó nhà đằng tây, chỗ nào bà cũng thấy không kín đáo. Mấy chiếc chum đựng thóc giống, bà vần cái xuống bếp, cái ra góc nhà, rồi lại khiêng vào buồng. Bữa nay ngồi trong hội nghị, đầu óc bà rối loạn. Có ai đang nói bà liên quan địa chủ! Ai đang vu cho bà chống phá cải cách. Ai đang tố bà bóc lột nhân công. Bà mê man chẳng nghe gì nữa. Hai dòng nước mắt từ từ chảy xuống khuôn mặt nhợt nhạt, xanh xao. “Hùng lập trường” thấy quần chúng lại ngồi im thin thít chẳng ai phát hiện thêm gì nữa, anh ta liền tỏ rõ lập trường, kiên quyết quát to:
- Đuổi cổ thằng Nhẫn ra ngoài cho nông dân họp!
Ông Nhẫn nghe như có tiếng sét đánh. Vợ chồng ông đứng dậy lảo đảo bước ra khỏi hội nghị, biến vào bóng đêm.
Suốt cả đêm hôm đó hai vợ chồng ông trằn trọc không ngủ, nằm lắng nghe những tiếng gà gáy nối tiếp nhau từ phía nhà hàng xóm lan ra mãi tận làng mạc nào xa xôi. Một cảm giác uất ức chán nản đến cực độ xâm chiếm cả tâm hồn ông. Ông vắt tay lên trán nằm nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác. Cả cuộc đời vất vả của hai vợ chồng từ nhỏ đến lớn bỗng hiện ra trong trí nhớ. Ông thổn thức vì những cảnh cũ chưa phai, những tai nạn mới đã ập đến. Ông ngồi dậy vặn to ngọn đèn, hút từng hơi thuốc lào sồng sộc. Rồi ông gọi bà Nhẫn dậy cùng bàn qua nước mắt:
- Số kiếp tôi với bà mày thật long đong! Tôi từ bé chí lớn vất vả, chỉ vài ba năm nay mới đỡ túng. Đã quá nửa đời người dãi gió dầm sương, không dám xỏ chân vào đôi giầy đôi guốc, mà bây giờ người ta bảo tôi là “lao động lớt phớt”. Tôi ăn ở với mọi người có trước, có sau, chả làm phản ai bao giờ, mà bây giờ họ bảo tôi là “phản động”. Tôi lao động cực nhọc để kiếm sống cho gia đình, bây giờ họ bảo tôi “bóc lột”…
Nước mắt ông chảy ròng ròng xuống má, nét mặt ông méo xệch đi. Bà Nhẫn cũng khóc theo. Hồi lâu ông mới nói tiếp:
- Bà mày cũng khó nhọc. Bố mẹ chết sớm, bà mày phải đi ăn đi ở từ tấm bé, đến năm hai sáu tuổi mới làm bạn với tôi. Thôi thì số vất vả đành chịu lấy vất vả, bà mày cố làm mà nuôi bốn đứa con cho khôn lớn… Cố sống… nói cho chúng nóó… biết cái khổ của bố mẹ… Còn tôi… nông nỗi này thì tôi chẳng sống nữa đâu!
Bà Nhẫn nghe chồng than thở cuống cả lên. Bà biết tính ông, đã nói là làm, đã quyết định cái gì là khó can ngăn lắm. Ông là hạng người không chịu được nhục. Bà năn nỉ kêu van “xin ông nghĩ lại! Khổ bao năm còn chịu được, huống hồ mấy tháng cải cách! Ông đừng có dại mà hủy hoại thân ông… Rồi con ông nó sống ra sao! Một mình tôi chịu đựng nổi được à?”. Bà Nhẫn vừa nói vừa khóc, nhưng bà không dám khóc to. Bà như thấy ngoài bờ rào lúc nào cũng có người đang rình mò trong bóng tối. Ông Nhẫn vội vàng vặn nhỏ ngọn đèn xuống, nói tiếp:
- Còn chịu đựng đến thế nào nữa! Nay mai họ bắt tôi ra đấu, để cho mấy đứa trẻ con mới lớn lên vắt mũi chưa sạch, lại toàn là những thằng đầu đường xó chợ, nó xưng “mày”, xưng “tao” chửi vào giữa mặt mình; đáng đạo cha, đạo ông nó, nó cũng gọi là “thằng” thì còn cái nhục nào bằng! Con người ta ai cũng một lần chết, ai cũng phải nát ra đất! Bà mày có thương tôi thì cứ để mặc cho tôi chết, để không đứa nào làm nhục được tôi!
Bà Nhẫn nghe những lời kiên quyết của chồng bà càng sợ. Bà mếu máo van xin ông, khuyên ông hãy “thương lấy những đứa con. Để chúng nó khỏi phải đầu đường xó chợ!”. Bà khóc nấc nở, làm cho ông Nhẫn cuối cùng cũng phải nao lòng. Ông không nói chuyện ấy nữa. Ông tìm lời an ủi vợ, làm như chính ông cũng đang nghĩ lại quyết định của mình. Thấy ông yên lặng bà Nhẫn góp ý:
- Ông hãy làm đơn mà kêu oan lên cấp trên xem nó ra sao đã…
Ông Nhẫn buồn rầu trả lời:
- Bây giờ kêu trời, trời cao; kêu đất, đất dầy; kêu cụ Hồ, cụ Hồ ở xa, bà còn hy vọng kêu ai!
Bà Nhẫn lại ra sức an ủi ông, tỉ tê kể lể, bà đã làm bạn với ông ngót vài chục năm, vợ chồng trên thuận dưới hòa…, ông đừng có bỏ bà, bỏ con. Ông Nhẫn nằm nghe từng lời vợ nói chẳng buồn trả lời nữa. Ông nghĩ gần, nghĩ xa thương con thương vợ. Lòng ông vô cùng xót xa, nhưng ông đã quyết định rồi, ông thấy không còn con đường nào hơn con đường ông đã chọn. Cuộc đời này chẳng còn gì để ông đáng sống nữa!
Những ngày tiếp theo, ông Nhẫn không thực hiện được ý định. Ông đi đâu là bà Nhẫn đi theo sau ngay. Trong nhà có con dao nào, cuộn dây thừng nào là bà cất giấu hết. Nhưng đến hôm thứ tư thì bà Nhẫn không giữ được chồng nữa. Qua mấy ngày lo nghĩ, canh giữ ông suốt đêm, bà Nhẫn chợp mắt ngủ thiếp đi. Ông Nhẫn chỉ chờ có thế. Ông lẻn dậy, lấy chiếc bao ruột tượng bằng lụa tơ tằm của bà dùng làm thắt lưng, treo lẫn trong đống quần áo, ông mò ra phía ngoài chuồng bò. Ông bắc chiếc ghế đẩu, với tay buộc một đầu chiếc ruột tượng lên chiếc xà tre tận áp nóc chuồng thật chặt, đầu kia ông làm thành chiếc thòng lọng. Xong xuôi, ông chui đầu qua chiếc thòng lọng đó, chân ông đạp mạnh chiếc ghế đẩu ra xa. Thế là thân hình gầy rạc của ông treo lơ lửng và chiếc thòng lọng riết chặt lấy cổ ông! Ông Nhẫn giãy giụa, chiếc thòng lọng riết chặt lấy cổ ông! Ông không thở được nữa! Nước mắt ông trào ra. Ông thấy hiện lên rõ ràng nét mặt vợ ông khóc sướt mướt và những đứa con mồ côi! Ông muốn kêu lên một tiếng, nhưng không được nữa rồi! Miệng ông há to, lưỡi thè ra, hai tay ông buông thõng xuống!... Trong nhà, bà Nhẫn vẫn nằm thiếp đi sau những đêm mất ngủ.
Việc ông Nhẫn chết là như thế, cho nên Trần Sơn có tìm đủ cách theo lệnh của Đoàn, của Đội để điều tra, phát động gia đình bà Nhẫn cũng không thể tìm ra một tổ chức nào của địch đã liên tiếp giết chết ông Lai rồi lại giết ông Nhẫn. Đoàn, Đội cử thêm cốt cán về xóm của Sơn để tăng cường. Người ta phê phán nhiều cái anh cán bộ Sơn tiểu tư sản thiếu lập trường này! Cả đoàn ủy viên Lê Phú lẫn đội trưởng Hùng đều đau đầu về “âm mưu trắng trợn của địch” ở xóm Sơn phụ trách. Kẻ địch nó phản ứng điên cuồng như thế mà lại không tìm ra manh mối! Một buổi trưa, Hùng cho gọi Sơn lên văn phòng đội để hội ý. Hùng đang ngồi trước chiếc bàn làm việc đọc tờ chỉ thị thì Sơn bước vào. Hùng khẽ ngửng đầu lên nhìn Sơn nhưng không chào. Y cúi xuống, tiếp tục đọc tờ chỉ thị. Sơn hỏi trước:
- Anh cho tìm tôi?
Hùng không đáp, cứ mải nhìn tờ giấy trước mặt. Y làm ra vẻ đang mải mê đọc, nhưng thật ra nghĩ thầm: “Cứ đứng đó đã, không vội!”.
Sơn nhận thấy rõ trên nét mặt Hùng hiện rõ vẻ tự đắc đáng ghét, nhưng anh kiên nhẫn chịu đựng. Đối với Hùng thì loại cán bộ như Sơn, vừa là thành phần tiểu tư sản đáng ghét, vừa là loại ở trong “tổ chức cũ” có nhiều vấn đề, được cơ quan cho đi cải cách để cải tạo tư tưởng nên y coi thường ra mặt. Bữa nay y đang thưởng thức cái cảm giác “coi thường ra mặt” đối với Sơn. Điều y nhận thức và lấy làm tự hào, một phần do bản tính con người y, nhưng phần lớn do hoàn cảnh đã tạo nên y. Bởi vì Hùng trưởng thành trong dòng xoáy cuồng tín bần cố nông và trong mớ lý luận nhất thời “thành kiến với tổ chức cũ”, cho nên Hùng cứ tưởng mình là đúng, là vững lập trường không ai bằng. Suốt trong những tháng học tập và tổng kết Hùng đã nghe bao nhiêu là điều xấu xa của tổ chức cũ, bao nhiêu báo cáo điển hình về sai lầm dựa vào tổ chức cũ. Bên tai y luôn luôn vang lên những lời nhận xét “chi bộ Đảng ở nông thôn vô cùng phức tạp! Bị lũng loạn nghiêm trọng!...”. Lại có cả nhận định “có chi bộ đảng đã biến thành chi bộ địch!”. Trong khối óc thô thiển của Hùng còn ghi rành rọt bao nhiêu mẩu chuyện đáng chê cười về những cán bộ cải cách dựa vào tổ chức cũ. Nhận thức của y lại được củng cố thêm bằng biết bao chứng minh thực tế: rất nhiều đảng viên dưới xã bị quy là “chống phá”, là “phản động, tay sai địa chủ” thậm chí là “Quốc dân đảng” mà Hùng tưởng thật. Thỉnh thoảng trong Đoàn lại có cán bộ bị bắt về địa phương để cho nhân dân đấu tố. Họ đều là những cán bộ cũ. Ngày nay, họ đang là những cán bộ tích cực trong các đội, ngày mai họ đã trở thành những phần tử phản cách mạng chui vào hàng ngũ cán bộ cải cách hòng “trèo cao phá sâu” chỉ vì họ bị địa phương quê hương phát hiện ra những tội không hề có, hoặc tìm ra mối liên quan với địa chủ, hoặc chính gia đình cha mẹ họ đã bị đẩy lên địa chủ. Cứ mỗi lần Đoàn ủy thông báo có một trường hợp như thế Hùng lại lắc đầu lè lưỡi: “Phức tạp thật! Ghê gớm thật! Lập trường không vững thì chết với địch!”. Chừng như phút yên lặng đã kéo dài, Hùng ngửng đầu lên, hỏi Sơn:
- Thế nào?
Nghe câu hỏi trống không vô nghĩa đó, Sơn thấy bực cả mình. Anh cũng hỏi lại:
- Anh hỏi thế là thế nào?
- Đã một tuần rồi, anh đã tìm ra manh mối tổ chức của địch trong vụ chúng giết hai mạng người chưa? Chứ còn thế nào nữa! - Hùng nổi cáu.
- Việc ấy tôi đã báo cáo kỹ với anh từ hai hôm nay rồi kia mà! Các cốt cán đều cho là ông Nhẫn vì sợ hãi quá mà tự tử đấy thôi!
Nghe Sơn nói, nét mặt Hùng bỗng tái mét, Hùng gay gắt:
- Thế là ý anh muốn đổ tại tôi chứ gì? Tại tôi đưa tên Nhẫn ra cho nhân dân phát hiện, nên nó sợ nó chết chứ gì? Vậy ra tôi giết tên Nhẫn đấy à? Như thế là anh tấn công vào tôi, tấn công vào Đội cải cách! Hỏng! Hỏng! Anh này hỏng!
Sơn dằn lòng không nổi, đành cãi lại:
- Anh là đội trưởng mà kết luận thiếu suy xét. Sự việc như thế nào thì tôi báo anh như thế, sao anh lại bảo là tôi tấn công anh?
Hùng vẫn gay gắt:
- Lập trường của anh là… là… không kiên định! Anh không đứng hẳn về phía nông dân! Anh đã dựa vào rễ thối là phần tử có liên quan! Anh đã rúc đầu vào tổ kén rồi thì còn tìm ra địch sao được!
Nghe đến đó thì Sơn tức lên đến cổ. Mặt anh đỏ bừng, anh không kiềm chế được nữa. Anh trả lời Hùng cũng gay gắt:
- Anh ngu lắm! Anh không xứng đáng là đội trưởng! Những câu nói của anh không lọt vào tai tôi được!
Hùng lịm người đi một lúc. Nét mặt đang tái nhợt bỗng chuyển thành đỏ tía. Hùng nuốt nước bọt đánh ực rồi chỉ vào mặt Sơn nói:
- Rõ ràng là… là… anh đả kích vào bần cố nông, anh chê bần cố nông là ngu dốt! Anh to gan thật! Anh tự phụ, tự mãn, không muốn cho bần cố nông lãnh đạo cách mạng. Được, tôi sẽ báo… báo… cáo lên Đoàn ủy để anh làm đội trưởng!
Hùng lấy tay quệt những giọt mồ hôi trên trán. Y thấy tức với cái thằng cha Sơn quá mức! Thằng cha này dứt khoát là có vấn đề, Hùng nghĩ, trong bản sơ yếu lý lịch của anh ta có khai là “có một người cô ruột là địa chủ kháng chiến!”. Chắc là nó thêm chữ “kháng chiến” vào cho đỡ cái mục “liên quan”. Khéo lại tay chân địch lọt vào hàng ngũ cán bộ để phá rối! Hùng hách dịch gọi chú liên lạc:
- Giang! Giang! Đi gọi ngay anh đội Tứ về đây!
Sơn đoán Hùng lại sắp giở cái trò đôi co ra với Sơn. Cả hai người đành ngồi yên lặng chờ đợi, chẳng có ai nói với ai câu nào nữa.
Một lúc thì Tứ đến. Hùng chỉ Sơn ra hiệu cho Tứ biết, rồi ra lệnh:
- Đồng chí nói lại tất cả những điều đã phát hiện được về thằng Tùng cho ông Sơn nghe.
Hùng bắt đầu gọi Sơn bằng “ông”. Tứ hiểu ý đội trưởng, liền mở túi dết lấy cuốn sổ tay, giở từng trang tìm kiếm rồi báo cáo: