← Quay lại trang sách

(9)

Ba ngày nay tôi được điều động về tăng cường cho xóm anh Sơn, tôi đã bắt được rễ tốt là chú Đình, mới mười bảy tuổi, mới lớn lên hoàn toàn trong sạch. Chú này mồ côi cha mẹ từ bé, phải sống cầu bơ cầu bất. Sở dĩ từ trước Đội giảm tô không bắt rễ là vì có đôi lần phải đi ăn trộm vì đói quá. Dân nghĩ không đúng cứ cho chú ta là quân trộm cắp, nhưng tôi thẩm tra kỹ thấy chú này rất tốt, gia đình ba đời là cố nông, họ hàng nội ngoại toàn người nghèo, không có vấn đề “liên quan”. Bỏ rơi chú là không đúng! Tôi đã phát động chú Đình thì thấy chú này biết rất nhiều chuyện. Chú biết rõ tên Tùng lại rất hay đến nhà Nguyễn Phong là xã đội trưởng cũ mà Đội giảm tô đã phát hiện ra là một tên phản động và đã xử bắn, nghi anh này có nhiều vấn đề! Về tác phong thì tên Tùng hay phê bình lung tung! Tôi mới phát hiện được từng ấy điều, tưởng cũng đã đủ để kết luận tên này không đủ tiêu chuẩn rễ!

- Còn tư tưởng gì nữa! Này nhé, Hùng giải thích luôn, thứ nhất có họ với địa chủ, thứ hai liên quan đến tên phản động Nguyễn Phong, thứ ba hay phê bình lung tung, tức là hay đả kích lung tung vào cải cách chứ gì!

Hùng nhìn Sơn cười mỉa mai vẻ đắc thắng:

- Thế nào? Ông đã nghe rõ chưa?

Sơn ngạc nhiên về những điều Hùng cho là mới phát hiện về Tùng.

Anh bình thản trả lời:

- Tất cả những điều đó tôi đã thẩm tra kỹ trước khi bắt rễ và đã phân tích và báo cáo cho anh từ mấy hôm đầu rồi! Tất cả không phải như anh Tứ kết luận. Đó là một người nông dân lao động chân chính!

Hùng giải thích lại như vẹt:

- Đó là ý kiến của cá nhân ông. Còn bây giờ kết luận của một cố nông thực sự đã được bắt rễ. Ta phải tin và dựa hẳn vào bần cố nông, phóng tay phát động quần chúng.

Sơn đối lại:

- Một người bần cố nông không thể phán đúng mọi vấn đề, nhất là người đó mới lớn lên lại bị lưu manh hóa. Phải lắng nghe ý kiến của nhiều bần cố nông cốt cán mới kết luận được.

Hùng lập tức chộp ngay lấy câu nói của Sơn vặn lại:

- Như thế là ông cho cố nông là “lưu manh hóa” hết chứ gì! Ông không tin ở họ, ông lại đả kích vào họ. Lập trường của ông… Hùng bỗng nhớ đến lời tổng kết của đoàn ủy viên Lê Phú trong cuộc họp sơ kết bước một: “… Ai đả kích vào bần cố nông, người đó đả kích vào cách mạng!”. Không do dự, Hùng dõng dạc lên án:

- Tôi, cố nông làm đội trưởng ông cũng đả kích, rễ của đồng chí Tứ là cố nông ông cũng đả kích. Ông không muốn cho bần cố nông lãnh đạo cách mạng. Ông không muốn cho bần cố nông ngóc đầu dậy! Ông có biết không - Hùng dằn giọng - ai đả kích vào bần cố nông người đó đả kích vào cách mạng!

Thật tình Sơn chẳng thấy sách vở nào nói bần cố nông lãnh đạo cách mạng. Những người cán bộ xuất thân từ bần cố nông ngày nay có ai đó có thể đảm đương được trách nhiệm lãnh đạo to hay nhỏ thì họ đều là những người đã kinh qua thời gian dài được đào luyện trong công tác và chiến đấu, họ đều phải khổ công học tập, tự trau dồi để tiếp thu những tư tưởng cách mạng của giai cấp công nhân. Họ không còn là đại diện của bần cố nông nữa. Nhưng Sơn biết mình không thể tranh cãi với Hùng lúc này. Anh đã choáng váng lên vì những lời của Hùng: “Đả kích vào bần cố nông… đả kích vào cách mạng”. Nguy hiểm biết bao khi những lý luận đó lại được những phần tử hãnh tiến và cơ hội như Hùng lợi dụng. Mà họ lợi dụng được chính vì địa vị và quyền hạn đã rơi vào tay họ! Rồi đây, đoàn ủy viên Lê Phú vốn quan liêu và khệnh khạng nhất định sẽ nghe theo báo cáo của “Hùng lập trường”, sẽ cho anh là “chống chính sách, đả kích vào bần cố nông, đả kích vào lãnh đạo!”. Họ sẽ liệt anh vào loại “liên quan”, có vấn đề, cần cảnh giác! Người ta sẽ ghi vào lý lịch của anh những điều chẳng tốt đẹp gì. Ôi, tại sao anh lại không thể như một cái máy, cắm đầu làm theo sự chỉ huy của Hùng, bất luận đúng sai! Phải rồi, chỉ vì trí tuệ và cường quyền! Hai điều ấy hình như không thể dung hòa được với nhau. Cường quyền bao giờ cũng muốn đè bẹp chân lý, chà đạp lên nhân đạo! Còn trí tuệ thì lại muốn chúng được nâng lên, muốn chúng chiến thắng! Nghĩ thế Sơn cảm thấy đau khổ. Anh chán nản, anh muốn khóc! Nhưng anh nén lại được vì như nghe tiếng lương tâm mình nói: “Sao lại phải khóc trước mặt thằng “Hùng lập trường” cơ hội này! Sao lại tỏ ra hèn nhát trước mặt nó!”. Anh thay đổi thái độ đột ngột, lấy lại vẻ bình tĩnh vốn có, quay ra nói với Hùng:

- Tôi không thèm cãi với anh làm gì. Anh muốn nói tôi như thế nào thì nói nhưng tôi thấy anh cần phải suy nghĩ và nên lễ phép một chút. Cái ấy sẽ có lợi cho anh hơn.

“Hùng lập trường” rất bực mình vì cái thằng cha cán bộ tiểu tư sản Sơn thiếu lập trường này lại dám lên mặt dạy anh ta là một đội trưởng cốt cán trong phong trào cải cách ruộng đất. Nó lại dám bảo là “không thèm cãi với mình”, lại còn to mồm bảo mình là “thiếu lễ phép”! Rõ ràng nó vẫn khinh miệt bần cố nông! Hùng liền dọa:

- Rồi anh sẽ phải kiểm thảo trước toàn Đội về lập trường của anh! Đối với bần cố thì anh đã kích, đối với địch thì anh hữu khuynh! Chúng giết tới hai mạng người mà đã hàng tuần anh tìm cũng chẳng ra tên địch nào!

Sơn đã đứng dậy ra về, nghe thấy Hùng lại khiêu khích, anh quyết định nói thẳng thêm một câu:

- Chính anh mới là kẻ đang đả kích vào nông dân. Anh nhìn đâu cũng thấy địch, đem nông dân lao động ra truy bức để biến thành nhiều địch để được cấp trên khen thưởng chứ gì! Hạng anh theo thời giỏi lắm. Còn tôi, tôi đã đánh địch suốt tám năm chiến tranh, tôi không dễ hữu khuynh! Tôi không vu oan cho nông dân được. Nếu anh có tài đánh địch, tôi xin nhường anh tìm ra địch!

Sơn nói xong, lẳng lặng ra về, lòng nặng trĩu. Anh biết rồi anh sẽ phải trả giá cho những lời nói mạnh bạo của mình. Nhưng anh lại nghĩ: “Cả một tổ chức mà lại không có ai dám nói ra sự thật thì cái tổ chức ấy ra sao?”. Bản chất lý trí trong con người anh lại chiến thắng cùng với lòng tin bất diệt: “Lẽ phải cuối cùng sẽ thắng, sự thật sẽ trở về với sự thật, những con người như “Hùng lập trường”, như “Phú liên quan” rồi sẽ bị đào thải, chẳng thể có tiền đề như họ mong muốn!”.

Có lẽ cuộc sống của nhân dân mấy xóm làng Hoành Bồ thuộc xã Hồng Thái từ xưa tới nay chưa bao giờ lại dồn dập, sôi sục, căng thẳng như lúc này. Kể cả những ngày mà làng Hoành đang chiến đấu chống địch để bảo vệ bờ tre, từng thước đất cũng không có những giờ phút hồi hộp đến tột độ như thế. Từ sau ngày ông Nhẫn chết, anh đội Tứ được bổ sung thêm về xóm, không khí truy địch trong xóm bùng hẳn lên. Cả xóm sôi sục và lo sợ như người lên cơn sốt ác tính. Người già, trẻ con lấm lét theo dõi từng cử chỉ, từng lời nói của những anh đội cải cách. Bữa nay, người ta thì thầm bàn tán về việc anh đội Sơn không ở trong nhà chú Tùng nữa mà chuyển sang ở nhà tổ trưởng Nông hội Bùi Duy. Anh đội Sơn đã hết lời giải thích trước khi chuyển để làm yên lòng Tùng và yên lòng dân, nhưng người ta vẫn đoán già đoán non. Người ta chỉ sợ anh đội Sơn lại bỏ nhà Bùi Duy để bắt rễ vào người khác như nhà cái anh đội Tứ thì rồi còn lắm nhà bị oan! Người lo lắng nhiều nhất là chị Nguyễn Phong. Chị đang hy vọng lần này Đội cải cách về sáng suốt hơn thì chồng chị may ra được minh oan. Nhưng cái hy vọng ấy ngày cứ thấy xa dần. Chồng chị đã làm xã đội trưởng trong kháng chiến chống Pháp, đã huy động dân đi dân công tiếp tế, đã kêu gọi mọi người rào làng chiến đấu. Những việc đó đòi hỏi sự hy sinh của nhiều người, ắt có kẻ ghét, người ưa. Những kẻ lười nhác, trốn tránh nghĩa vụ sợ chết chạy trốn, những kẻ buôn lậu làm giầu, hồi hội giảm tô về lại có người trong số đó được bắt rễ, xâu chuỗi. Họ trả thù, tố vu cho chồng chị là “cường hào”. Do “cường hào” chui vào làm xã đội mà du kích bị chết, mà dân làng bị bỏ bom, mà ngô lúa bị tàn phá!

Hôm Đội cải cách mới về, biết anh đội Sơn bắt rễ vào chú Tùng, chị Phong đã đỡ lo vì biết Tùng không tố oan cho chồng chị. Nay thấy anh đội Sơn lại bỏ Tùng sang ở nhà Bùi Duy, chị bắt đầu lo lắng. Bởi vì theo chị nhận định thì bà mẹ Duy cũng chẳng phải là người đứng đắn, dễ a dua theo người ta mà bảo chồng chị là phản động. Chỉ mới từ hôm Đội cải cách bắt đầu về xã, chị Phong đã thấy thái độ bà mẹ Duy đối với chị đột ngột thay đổi. Chiều hôm đó, trông thấy mấy người kéo đường dây điện thoại về xã Hồng Thái rồi về tận đầu làng Hoành, dân trong xã đã xôn xao lên. Chỉ trong khoảnh khắc tin “Đội cải cách sắp về” đã lan ra khắp xóm, khắp làng.

Cả xã Hồng Thái hồi hộp nửa mừng, nửa lo chờ đợi. Chị Nguyễn Phong ăn cơm chưa kịp rửa bát đã vội vàng chạy sang nhà bà Duy, lo âu nói:

- Đội cải cách lại sắp về bà ạ!

Bà Duy nghe tin từ lúc đang làm cỏ lúa ngoài đồng, nhưng bà vẫn hỏi:

- Ai bảo?

- Dây điện thoại đã chăng về đầu làng ta rồi!

Cứ như mọi lần chị Phong lại ngồi kể lể với bà Duy những nỗi oan ức của chồng chị hồi giảm tô. Bà Duy cũng thông cảm thở dài, than thở thay cho cái oan đó. Bữa nay Đội cải cách đã về thật bà Duy lại thấy lo! Bà nghĩ đến con. Cái thằng Duy đang làm tổ trưởng ở Nông hội. Lỡ có đứa ác mồm, ác miệng, thấy chị Nguyễn Phong hay sang nhà bà lại tố điêu cho con bà “liên quan” đến Nguyễn Phong thì chết. Bà không đồng tình để chị Phong kể lể nữa. Bà chẳng mời chị Phong ngồi như mọi khi, vội vàng xua tay ra hiệu đuổi chị về:

- Này, này, nhà chị đi về đi! Đừng sang bên này nữa! Nhà tôi không dính dáng gì đến phản động đâu! Không bạn bè thân thích gì với nhà phản động! Nhà chị cứ sang nhà tôi lại tai bay vạ gió bây giờ!

Chị Phong sửng sốt về thái độ thay đổi bất ngờ của bà Duy, đứng ngẩn người ra một lúc. Chị vừa thấy tủi nhục, vừa căm giận bà Duy, chị cảm thấy như có gì đè nghẹt lấy cổ. Nước mắt chị rơi xuống, chị uất ức quay gót bước ra khỏi nhà bà. Tuy thế, chị vẫn còn hy vọng ở Duy là tổ trưởng Nông hội. Anh chưa hề tố điêu cho chồng chị điều gì. Như thế cũng là may rồi, chứ thời này nhà nào cũng phải lựa gió phất cờ, họ chả dám lên tiếng bênh vực cho gia đình chị. Bữa nay đội Sơn lại rời nhà chú Tùng sang ở nhà Duy, chị lại cảm thấy lo lắng hơn. Chị đang hy vọng ở chú Tùng, cái thằng ấy nó còn dám nói lên điều đúng. Nay thì hỏng cả rồi! Kinh nghiệm trong giảm tô đã cho chị Phong hiểu rằng: đang được Đội bắt rễ làm chỗ dựa, nay Đội lại bỏ sang ở nhà khác là rễ đã thối rồi. Chị hoang mang! Những người ngay thật, không tố điêu, tố nhảm lại trở thành rễ thối cả thì còn hy vọng gì nữa! Chị chưa hết lo thì tình thế lại đổi ngược ngay một trăm tám mươi độ tệ hại hơn.

Chỉ hai ngày sau, vào buổi chiều, Sơn đang ngồi nghe Duy kể lại lịch sử chống càn của dân làng trước đây thì đột nhiên có năm anh du kích mang võ khí sộc vào nhà Duy. Họ vào quanh chỗ Duy và Sơn đang ngồi. Không kịp để cho Sơn hỏi, một anh giơ ngang tờ giấy nhỏ ra đọc dõng dạc: “... Bùi Duy là một tên tay chân địch, đã cùng bọn đồng lõa tổ chức ném đá định ám hại cán bộ Đội cải cách. Nhiều hiện tượng đã chứng tỏ Bùi Duy nhúng tay vào vụ giết ông Nhẫn... Để trừng trị những phần tử chống phá cải cách ruộng đất, bảo đảm trật tự an ninh cho nhân dân, Đội cải cách ra lệnh bắt giữ tên Bùi Duy để xét hỏi!”.

Trần Sơn giật nẩy mình sửng sốt. Trong phút chốc anh không thể phân biệt được phải trái. Mặt anh tái dần đi. Anh nhìn thấy nét mặt Duy cũng đã tái mét đang nhìn anh cầu cứu. Nhưng Sơn làm gì được bây giờ! Đến nước này thì chính Sơn cũng bị chui vào lưới của địch chăng rồi còn gì! Những người du kích không biết khoan nhượng với kẻ địch, xúm lại trói hai tay Duy về phía sau. Bà mẹ Duy hốt hoảng kêu van. Mặt bà cũng đã tái xanh như tầu lá. Nước mắt bà chảy xuống má. Mặt bà méo đi vì thương con và lo sợ. Khó mà nói hết được nỗi lòng của một người mẹ đối với con lúc đó. Nếu con bà bị bắt giam, bị tù tội, hoặc không may bị chết, đứa con trai độc nhất của bà chết, bà sẽ không sống được ở đời. Bà nấc nở kêu van: “Lạy các anh! Tôi cắn cỏ lạy các anh, các anh trình với Đội tha cho em... em nó xưa nay hiền lành!...”. Năm người du kích gạt bà ra, cứ trói chặt hai cánh tay Duy lại. Bà kêu van chẳng được liền lăn xả vào giằng lấy đứa con. Bà hét: “Ô hay, con tôi làm sao mà các người tự nhiên bắt đi? Các người định bắt con tôi đi đâu?”. Đôi mắt bà bỗng long lên. Hai cánh tay bà run cầm cập cố giữ lấy con. Nước mắt bà cứ chảy. Bà thở hồng hộc. Bà nghe con gắt: “Mẹ cứ để yên, để con xem ra sao đã nào!”. Những người du kích gỡ tay bà ra. Bà vừa chống cự vừa khóc con: “Con ơơii!... con... on! Mày nghe ai mà lại động mồ, động mả đến nông nỗi này! Coonn ơơi...!”.

Trong giây phút đột ngột của tai họa xảy đến, bà đã nghi ngờ và trách móc đứa con mà bà vẫn tin tưởng là xưa nay chưa làm điều ác cho ai, bây giờ con bà đã nghe ai để đi làm những điều phản nghịch xấu xa! Bà khóc con. Bàn tay già run rẩy cố kéo con lại. Nhưng sức bà phỏng được bao nhiêu! Năm người du kích trẻ tuổi vẫn coi bà như mẹ, nay đã được huấn luyện về “lập trường dứt khoát với địch” liền gạt bà ra một cách rất dứt khoát để điệu con bà đi. Bà mếu máo chạy theo, hết khóc con bà lại đến khóc Đội: “Ớ anh đội Sơn ơi...i... con tôôi... làm sao mà anh bắt điii... Tôôii tưởng người ta đến để dò xét con tôi... để bắt nó!...”.

Trần Sơn trông thấy cảnh tượng đó diễn ra trước mắt mình. Anh nghe rõ từng lời oán trách của bà mẹ Duy. Ôi! Cuộc sống nó mới khắc nghiệt và thô bạo làm sao! Nó mài dũa không thương tiếc mọi khía cạnh còn sắc sảo của con người! Nó thử thách lòng trung thành và lý trí của anh. Anh thấy vừa đau xót, vừa hoang mang và cả sự bất lực nữa! Sức lực của anh, sự hiểu biết và kinh nghiệm bây giờ nó mới vô dụng làm sao! Tại sao đội Tứ không thảo luận với anh? Đội trưởng Hùng cũng không báo trước cho anh một lời nào! Đầu anh như bốc lửa. Anh như chợt nhận ra một điều gì nghiêm trọng. “Chết rồi! Có thể ta đã dựa vào kẻ địch thật rồi, vì ta đã mù quáng đâm đầu vào tổ chức cũ của địa phương!”. Anh bắt đầu nghi ngờ chính anh, nghi ngờ cả mớ lý luận anh đã có, nghi ngờ cả sự nhận thức từ trước và lòng tin vốn có! Những việc đã qua thoáng hiện trong trí nhớ càng làm anh hoang mang thêm. Chao ôi, sao anh dám cả gan cãi đội trưởng Hùng. Sao anh lại dám không tin ở Hùng, một cốt cán mà ai cũng phải công nhận. Sao anh lại mất cảnh giác tin vào Bùi Duy. Sự thật phũ phàng đã trả lời cho anh rõ. Anh quả là một anh chàng thiếu lập trường, đáng khinh; một đảng viên không xứng đáng! Quả thật anh đã coi thường “lập trường” của những người như Hùng, coi thường cái “liên quan” của những người như đội Tứ. Anh đã không chịu nghe theo họ ngay từ đầu. Bây giờ vỡ lở ra, anh biết nói sao đây? Đầu óc anh rối bời bao nhiêu ý nghĩ. Anh đọc vội mảnh giấy người du kích đưa cho anh lúc nãy: “Ban chỉ huy Đội yêu cầu đồng chí Trần Sơn lên ngay văn phòng đội có việc cần. Đội trưởng: Hùng”. Thôi, Sơn là kẻ có tội rồi. Anh đã nhận ra tất cả những sai lầm của mình. Anh sẽ chịu cái tội mù quáng. Những khó chịu đối với “Hùng lập trường” và “Phú liên quan” từ trước tới nay bỗng nhiên như tiêu tan hết. Hết thảy do anh không nhận thức đúng tình hình ở nông thôn. Có lẽ bây giờ anh mới thấm thía lời phê bình “xa thực tế” của Hùng đối với anh. Anh vội vàng an ủi bà Duy vài câu rồi đeo ba lô ra đi, chẳng bao giờ còn dám trở lại căn nhà này nữa. Lòng anh tràn đầy những hối hận.

Hội nghị toàn xóm buổi tối nặng nề và buồn tẻ. Đội Sơn đã bị gọi về văn phòng, hội nghị do đội Tứ ở nhà điều khiển. Tứ phổ biến cho nhân dân trong xóm biết những tội chống phá cải cách ruộng đất của Bùi Duy. Mọi người hoang mang lo sợ. Những ai đã hay ra vào trò chuyện với tổ trưởng Nông hội trước đây càng sợ hơn. Họ chỉ sợ bị Đội quy cho tội liên quan. Nhiều người đứng tuổi còn nhớ đến thành tích của người du kích dũng cảm đó trước đây, không tin vào lời nói của đội Tứ, nhưng cũng phải ngồi im thin thít, chẳng ai dám lên tiếng bênh vực. Nhưng cũng khối người trước tình thế đó tin ở lời nói của cán bộ Đội cải cách cho rằng Duy là tay chân của địa chủ thật. Họ thật lòng hoảng sợ kêu lên:

- Chết chưa! Địch ở ngay bên mình mà không biết! Đội không sáng suốt tìm ra thì chúng tôi chẳng biết đâu mà mò. Lại còn bầu nó làm tổ trưởng Nông hội mới chết chứ! Tổ chức địch nó gài tay chân vào khắp tổ chức cũ như thế làm gì mà dân không bị đói, không bị oan!

Phút chốc bao nhiêu khuyết điểm, bất công của địa phương, bao nhiêu sự ì ạch của chính quyền và các đoàn thể họ đều như tìm được lý do chính đáng để giải thích. Họ không thể hiểu được sở dĩ cái kết quả quá khích và thảm khốc đó cứ nối nhau tiếp diễn chính là do phương pháp sai lầm của đoàn ủy viên Lê Phú và của đội trưởng Hùng gây nên. Cái phương pháp đó lại được đội Tứ lặp lại một cách thẳng thừng không thương tiếc! Hết thảy lời nói của chú Đình Tứ đều tin là thật. Tứ không thể nào tin được rằng bần cố nông lại có người nói sai sự thật. Tin như thế sẽ hóa ra mất lập trường to! Tứ không cần suy xét nhiều, không cần phán đoán đúng sai. Mà thật ra y là con người không có óc phán đoán. Cấp trên đã bảo “tin vào bần cố nông, dựa hẳn vào bần cố nông, phóng tay phát động quần chúng” thì y cứ làm đúng như thế. Để truy cho ra nhiều địch theo nhận thức của y đã được bồi dưỡng, y đã biến những xích mích nhỏ nhặt của nông dân các xóm làng Hoành Bồ thành ra những mâu thuẫn lớn và giáo dục họ ý thức báo thù sai lệch. Cái mà đội Tứ tự hào là có tài phát động quần chúng chậm tiến chính là cái thuật mơn trớn, vuốt ve quần chúng không đúng mức của y. Y luôn mồm khêu gợi: “Trước kia bần cố nông chúng ta không có quyền ăn nói, bây giờ có Đội về chúng ta chẳng sợ ai. Có gì thắc mắc dù to, dù nhỏ ta cứ tố giác thẳng được kẻ địch!”. Hễ thấy hội nghị còn yên lặng, Tứ lại giục: Nào! Các cốt cán gương mẫu lên nào! Anh em bần cố nổ phát súng đầu tiên đi nào! Kiên quyết tìm cho ra hết địch!”. Khổ cho những người được bắt rễ xâu chuỗi. Họ cố moi óc xem có ai đã một lần bắt nạt họ, đã coi thường họ. Nếu họ không chịu thổ lộ những thắc mắc nhỏ nhặt về hạt gạo, lá rau để làm mất tình làng nghĩa xóm thì Tứ lại cho họ còn bị địch khống chế. Tứ cố “phát” cho kỳ họ chịu “động” mới nghe!

Từ một anh nhân viên in rônêô ở văn phòng ủy ban một huyện trong vùng, Tứ trông người to béo nhưng nhát như cáy, tính tình chẳng tương xứng gì với thân hình. Hồi còn đi học ở lớp cải cách ruộng đất, được nghe báo cáo tình hình địch phản ứng điên cuồng, hàng trăm vụ giết người, đốt nhà đã xảy ra trong địa bàn một đoàn, y đâm hoảng. Lại bị những kết luận “địch lũng loạn tổ chức cũ nghiêm trọng”, “địch bao vây các cốt cán cải cách, giết khổ chủ, thủ tiêu đầu mối” ám ảnh, Tứ sợ chết định chuồn, nhưng không làm cách nào để rút lui cho ổn. Y to béo như thế giả ốm chẳng ai tin. Vả chăng trong lớp học đông đến hàng ngàn con người, có cả trăm phụ nữ, nếu y để lộ cái ý định rút lui vì sợ chết thì rồi Học ủy sẽ nêu lên thành trường hợp điển hình cho toàn trường, y sẽ chẳng còn mặt mũi nào mà trông thấy mọi người. Y đánh liều chịu sự phân công về Đội của Hùng. Trước khi đi, Tứ viết về cho mẹ một lá thư, trong đó có câu: “… Trận chiến đấu chống phong kiến sẽ gay go ác liệt chẳng kém chống giặc Pháp trước kia. Con như một người lính xung kích chẳng tiếc thân mình, mười phần biết chín… Nếu không may con bị địch hãm hại, mẹ hãy nên nhớ lấy ngày con ra đi mà cúng giỗ…” Chẳng biết bà mẹ thương con khi đọc được lá thư con gửi về sẽ hoảng hốt đến thế nào, chứ thật ra Tứ viết với cả nỗi lo lắng thật sự của mình. Mang sẵn cái tâm lý sợ địch, khi về xã Tứ nhìn ai cũng ra địch. Y được phân công về xóm Kiều làng Tân Phú cũng thuộc xã Hồng Thái. Ngày đầu chưa bắt được rễ, Tứ không dám ngủ ở nhà một nông dân nào cả, chỉ sợ ngủ nhầm phải nhà địch. Tứ ra ngoài điếm ngủ với du kích. Theo suy nghĩ của Tứ thì đây là vùng căn cứ du kích cũ, địch ta lẫn lộn, chắc kẻ địch sẽ nham hiểm hàng chục lần hơn vùng tự do. Tứ luôn luôn thấy như có những tên địch lẫn lộn trong nhân dân đang rình từng bước đi của Tứ. Qua ngày thứ ba, Tứ bắt được rễ. Tối đến trông thấy gian nhà của rễ trống trải quá, Tứ lại sợ đêm khuya nhỡ có kẻ địch nào lẻn vào ám hại Đội thì nguy.

Nghĩ mãi y liền ra điếm gọi thêm một du kích vào cùng ngủ. Y bố trí: anh du kích có võ khí nằm ngoài, rễ nằm trong, còn Tứ nằm giữa. Đã cẩn thận đến thế rồi mà Tứ vẫn sợ. Đến đêm thứ ba y thấy anh du kích đặt mình xuống là ngáy o o làm y chẳng yên tâm. Kẻ địch có thể lẻn vào ám hại y dễ dàng. Thế là đang đêm Tứ lại lẻn ra điếm ngủ với du kích. Kẻ địch có mò đến gian nhà này sẽ chẳng thấy Tứ đâu. Tứ cảnh giác hơn chúng, chúng sẽ hoảng sợ vì mưu đồ bị lộ. Vỏ quýt dày có móng tay nhọn! Tứ đắc chí nghĩ thầm.