(10)
Qua mười ngày đầu, Tứ ra sức bồi dưỡng, truyền bá cái “lập trường đánh địch” của Hùng đội trưởng và cái tinh thần “cảnh giác cao độ” của Lê Phú đoàn ủy viên cho anh rễ trẻ. Anh cốt cán cố nông mới lớn lên, chưa bao giờ được tham gia bàn việc làng, việc xóm, nay được anh đội khen mình rất nhiều, việc gì cũng hỏi mình, anh ta thấy mình quan trọng quá, phấn khởi quá! Anh thấy anh đội nói hay quá, cái gì cũng đúng. Vốn tính trẻ đang hăng, lại được kích động, anh liền tố hết điều hay, điều dở theo sự hiểu biết của anh. Lẽ dĩ nhiên là điều hay thì ít còn điều dở thì rất nhiều. Anh cốt cán thấy căm thù hết thảy bọn nhà giàu và cả bọn cán bộ có máu mặt trong xóm, trong làng, cái bọn đã cạy quyền thế bắt anh đi đào mương, đi đắp đường cho xã trước đây. Anh lây cái nhìn “nhìn ai cũng ra địch” của đội Tứ. Đội và rễ rất tương đắc. Họp bí mật với nhau là địch! Nói chuyện thì thầm với nhau là địch (bàn cách chống phá). Làm việc để dân thắc mắc nhiều là địch! Chỉ trong mấy ngày, tất cả đảng viên trong tổ đảng xóm Kiều biến thành địch hết! Thế là tổ chức phức tạp nghiêm trọng được khám phá. Đội Phú lại ca tụng “Hùng lập trường” là vững lập trường, đánh địch nhanh và gọn! Riêng mấy xóm làng Hoành Bồ có những người lập trường mơ hồ như đội Sơn phụ trách thì vẫn cứ ỳ ạch, tổ chức địch vẫn bí không phát hiện ra, quần chúng vẫn bị địch khống chế không dám nói. Kẻ địch thì quanh quẩn cũng chỉ mấy tên địa chủ đã phát hiện từ hồi giảm tô. Sau vụ ông Nguyễn Nhẫn chết không tìm ra manh mối, đội trưởng Hùng rút Tứ về tăng cường cho làng Hoành, điều xuống xóm Thống Nhất do Sơn đang phụ trách. Sơ bộ tìm hiểu Tứ đã thấy kẻ địch ở đây mạnh và hoạt động trắng trợn hơn ở xóm Kiều nhiều! Chúng đã dám giết tới hai mạng người để bịt đầu mối. Tứ dự đoán: “Nhất định đội Sơn bị bao vây, nhất định đội Sơn đã chui vào tổ kén, đã dựa vào tay chân địch nên phong trào mới đến nỗi bí như thế!”. Toàn xóm Thống Nhất này có 62 gia đình nông dân lao động gồm hơn hai trăm nhân khẩu. Hầu hết đã vào mười tổ nông hội và bảy tổ đổi công. Tứ tính nhẩm: “Như thế là cả thảy có 20 tổ trưởng, tổ phó nông hội; 14 tổ trưởng, tổ phó đổi công, vị chi là 34; 15 du kích là 49; lại còn tổ Đảng, tổ Thanh niên, lại cán bộ chính quyền xóm, xã!”. Tứ giật mình lo sợ: “Như thế thì tổ chức cũ hết rồi! Thảo nào! Lực lượng xấu đông như thế, hèn gì địch chẳng mạnh, quần chúng chẳng bị khống chế!”. Đó là Tứ mới tính số cán bộ, nếu tính cả số hội viên, đoàn viên các tổ chức thì đông biết bao! Những người còn nằm ngoài tổ chức bây giờ chỉ là những ông già bà cả, những người tàn tật, những phụ nữ đông con, một số thanh niên lười nhác, trốn dân công và thêm một số người vừa bị khai trừ oan hồi giảm tô. Đội Tứ không đánh giá được thành tích của làng Hoành chiến đấu trước kia. Y lại hoảng sợ về tổ chức cũ ở đây quá lớn. Bước chân về xóm Tứ đã thấy khó khăn: vào nhà nào cũng là tổ chức cũ, không tổ chức cũ thì lại liên quan địa chủ hay phản động. Y cũng đồng nhất với quan niệm của “Hùng lập trường” rằng: “Không thể có họ hàng với địa chủ mà lại trong sạch được!”. Tứ lấy làm mừng rằng mình chẳng có họ hàng với ai là địa chủ cả. Y loay hoay mãi không tìm ra được người tốt để bắt rễ. Cuối cùng y vào nhà cụ Đại, một lão nông tri điền, để thăm nghèo hỏi khổ. (Những đợt giảm tô và cải cách trước đây thì Đội về thường hay bắt rễ vào những người lão nông tri điền như thế, nhưng đến đợt sau này thì người ta được phổ biến kinh nghiệm là nên bắt rễ vào những thanh niên mới lớn lên mà nghèo khổ thì tốt hơn vì những nông dân già kiểu cụ để tìm người tốt. Sau khi chuyện trò một hồi với cụ Đại để phát động cụ, Tứ liền hỏi: -“Xóm ta có những ai là người nghèo khổ?”. Cụ Đại vốn người thật thà, lại đã sống gần trọn đời trên mảnh đất làng Hoành, nên ai hay, ai dở cụ đều biết hết. Cụ trả lời:
- Người nghèo làng này thì nhiều lắm, nhưng cơ cực nhất thì có nhà chú Tùng, cô Nguyệt, bà Nhung, ông Tạo…
Đội Tứ thấy cụ kể toàn là những người “liên quan”, không trong sạch cho ngay là tư tưởng cụ chưa được phát động kỹ, liền giải thích:
- Phải là những người thật thà nghèo mà… mà… không liên quan… đến ai, những người… mà cả làng không ai thèm để ý đến cơ cụ ạ. Những người nghèo như thế là những người… bị… khinh rẻ nhất! Họ có khổ nặng mới thù sâu, mới nhớ lâu, nhớ kỹ tội ác bọn địa chủ, bọn phản động!
Cụ Đại ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp: -“Nếu vậy thì ở đây có ông Đùn và ông Nghễnh”. Tứ hí hửng mừng thầm, hỏi thăm đến nhà ông Đùn. Tứ phát mãi ông chẳng động, hóa ra ông là người ngớ ngẩn, dân làng chả ai chú ý đến ông thật. Tứ tự xấu hổ với mình, liền lặng lẽ tìm đến nhà ông Nghễnh. Y bước vào gian lều của ông giữa lúc ông đi làm đồng về. Y chào hỏi ông chẳng trả lời. Tứ lại tưởng ông chưa được phát động nên còn nghi ngờ cán bộ mới có thái độ dửng dưng như thế. Y tự nhủ: “Phải kiên nhẫn phát động, kiên nhẫn giải thích chính sách”. Y ngồi cùng thái rau, băm bèo cho lợn với ông, giải thích cho ông một hồi. Ông Nghễnh trố mắt nhìn y mỉm cười. Thấy rễ đã hơi chuyển, có cảm tình với cán bộ, y càng tuyên truyền, ông Nghễnh hết mỉm cười lại ngơ ngác nhìn. Y nói xong mới hỏi thăm đến hoàn cảnh ông, ông vẫn lặng thinh không đáp. Y lại khuyến khích ông mạnh dạn nói, không sợ địa chủ trả thù. Lúc đó có lẽ ông Nghễnh mới biết là y hỏi, liền chỉ vào tai ra hiệu là không nghe rõ. Lúc ấy Tứ mới tỉnh người ra. Thì ra ông Nghễnh bị tật câm điếc từ lúc nhỏ. Ông quả thật cũng là con người mà cả làng không ai thèm để ý đến thật. Tứ đỏ bừng mặt, oán thầm cụ Đại: “Cái lão ấy khéo lại tay chân địa chủ!”. Ngày hôm sau Tứ chạy loạn xạ, ngồi nhà này một lúc lại sang nhà khác. Cuối cùng y tìm ra chú Đình, đúng ba đời bần cố nông. Tứ vui mừng lên báo cáo với đội trưởng.
“Hùng lập trường” lại khen Tứ là lập trường vững, chịu khó “ba cùng” với bần cố nông nên sớm tìm ra rễ tốt. Hùng kết luận:
-“Ba đời bần cố nông, lại mới lớn lên, nhất định là lịch sử phải trong sạch! Cố bồi dưỡng để kết nạp Đảng điển hình!”. Hùng vui thật sự vì đã có một đối tượng tuyên truyền Đảng. Y sẽ báo cáo lên đoàn ủy viên Lê Phú. Thành tích lãnh đạo của Hùng lại càng sáng lên rực rỡ! Thật là một việc làm ngược đời và kỳ quặc, khi những người đang làm nhiệm vụ xây dựng Đảng lại là những người ngoài Đảng, chẳng hiểu gì về Đảng như đội Tứ và những người mới được kết nạp qua mấy lần tố khổ điển hình rồi được đề bạt đội trưởng như Hùng! Nó trớ trêu như thế mà chẳng ai dám nói ra. Đội Tứ ca ngợi rễ Đình, bồi dưỡng cho rễ ra lãnh đạo các cuộc họp xóm. Đình nghèo khổ và mồ côi, xưa nay chẳng được ai dạy dỗ, lại mới bước qua cái tuổi mười sáu để sang tuổi mười bảy. Dân trong xóm thương chú ở cái tuổi đáng ra phải “bẻ gãy sừng trâu” thì vẫn còi cọc do cảnh nghèo gây ra, tuyệt nhiên chẳng phải vì tình thương đó mà người ta có thể tôn chú bé còi cọc chưa có một tí kinh nghiệm gì về cuộc sống lên làm lãnh tụ nhỏ của họ ở cái xóm Thống Nhất làng Hoành này!
Quả thật người cốt cán non yếu đó được bồi dưỡng bằng cái lối vuốt ve, mơn trớn và kích động của đội Tứ đã vùng lên một cách lệch lạc và cảm tính gây ra biết bao tai biến cho dân làng.
Đội Tứ phát động Đình để thẩm tra Tùng và Duy, những rễ của Sơn. Được khuyến khích và kích động, Đình có biết bao nhiêu nhận xét cảm tính và những ác cảm đối với rễ Tùng và tổ trưởng nông hội Bùi Duy liền nói hết ra, làm cho Tứ hốt hoảng nghi ngờ ngay Tùng và Duy. Tứ nhớ đinh ninh lời đoàn ủy viên Lê Phú bồi dưỡng trước khi được chuyển về bổ sung cho xóm này: “Địch càng gần ngày chết càng phản ứng điên cuồng! Trong đợt năm này địch sẽ phá hoại lớn! Vì vậy chớ có coi thường địch. Cần phải cảnh giác, cần phải mạnh dạn nghi ngờ! Đi sâu tìm kỹ những phần tử “liên quan”… “Vốn tính nhát gan, lại được Phú nhắc đến âm mưu địch như thế, Tứ càng hoảng, càng phải luôn luôn ghi nhớ lời nhắc nhủ “cần phải mạnh dạn nghi ngờ”.
Một đêm Tứ đi họp xóm khuya mới về, đến chiếc ao đầu xóm, Tứ bỗng nghe hai tiếng “tỏm! tỏm!” như có ai ném gì rơi xuống ao. Tứ hốt hoảng, trống ngực đánh thình thịch. Rồi Tứ lại nhìn thấy như có một bóng đen chạy vào cổng nhà Duy. Tứ sợ quá, y ba chân bốn cẳng chạy một mạch về nhà rễ Đình! “Địch né… ém đáá! Định hại tôi!”. Tứ cuống cuồng kêu với Đình, làm cho chú bé mới lớn lên cũng đâm hoảng. Ngay đêm đó y phải gọi thêm hai du kích xóm đến cùng ngủ. Sáng sớm hôm sau y đã không quên lên báo cáo ngay đội trưởng Hùng. Sự thật chẳng có ai ném cả. Đó là hai quả ổi chín trên cây ổi mọc ngay cạnh bờ ao Tứ đi qua, gặp lúc gió lay rụng xuống mặt ao đúng lúc đó, làm y hoảng sợ!
Hùng khuyên Tứ về họp riêng rễ chuỗi để phát hiện vụ ném đá định ám hại cán bộ, hy vọng thông qua vụ này có thể tìm ra kẻ đã giết ông Nhẫn lẫn ông Lai. Trong mấy ngày qua được đội Tứ bồi dưỡng, chú Đình đã xâu chuỗi thêm được bốn thanh niên mới lớn lên trạc tuổi chú. Tối nào họ cũng họp với Tứ, được Tứ luôn luôn động viên “mạnh dạn nghi ngờ”, “mạnh dạn tố giác địch”, lại nghe đội Tứ gọi Duy bằng thằng, mấy thanh niên đó đoán ngay là Duy có vấn đề, liền thi nhau tố giác: -“Duy là phần tử xấu, nó chẳng coi bần cố nông chúng em ra gì đâu! Nó hay vào nhà Nguyễn Phong đầu sỏ phản động trước đây”. -“Nó hay họp bí mật với nhau!”. -“Chính thằng Duy bóp cổ tên Nhẫn chứ chẳng sai. Hôm tên Nhẫn chết trông mặt nó cứ tái mét đi!”. -“Nó đã dám giết người để bịt đầu mối giữa lúc này thì nó sợ gì mà không ném đá vào anh đội!”. -“Kiểu ấy là nó định ném chết anh đội đấy, may mà không trúng!”. Họ tố Duy hay “họp bí mật”, hay “ra vào nhà Nguyễn Phong”, quả có đúng vì trước đây họ đều là đảng viên cùng sinh hoạt trong một tổ đảng, mãi đến khi Phong bị xử oan hồi giảm tô mới thôi. Họp tổ Đảng hồi còn chiến tranh đều phải họp bí mật, bọn thanh niên mới lớn lên như loại Đình chẳng hiểu Đảng là gì, từ hồi giảm tô cứ thấy người ta tố “họp bí mật là bọn phản động Quốc dân đảng”, nên bây giờ họ cũng cứ thế mà tố. Đội Tứ lại là loại cán bộ chẳng có trình độ suy xét được đúng sai, được học tập như thế nào, anh ta cứ thế làm theo. Thấy hàng ngũ rễ chuỗi hăng hái tố giác kẻ địch Tứ mừng như mở cờ trong lòng. Rõ ràng y đã tìm ra manh mối kẻ địch! Y kiên nhẫn động viên mấy thanh niên cố gắng đào sâu thêm nữa, không thương tiếc kẻ địch, Đội cho nói, cứ nói hết. Cuối cùng Tứ đã có đủ tài liệu. Chẳng còn nghi ngờ gì cái thằng tay sai địch Bùi Duy nữa! Chính nó là phần tử tay chân địch nguy hiểm, đội Sơn thiếu lập trường đã mù quáng chui vào lưới của chúng chăng! Tứ chẳng thèm hội ý với Sơn, vội vã báo cáo thẳng với Hùng để tâng công. Họ đã thống nhất kế hoạch bắt khẩn cấp tên Duy để truy hỏi, đồng thời cũng để làm cho Sơn sáng mắt ra!
Sơn bước vào văn phòng đội ngoan ngoãn và hối hận như một con chiên đi xưng tội. Phải, anh là kẻ phạm tội. Anh đã mất một phần cái vẻ đường hoàng sòng phẳng trước kia. Đoàn ủy viên Lê Phú và đội trưởng Hùng đang bàn kế hoạch bước hai. Anh không dám lên tiếng, sợ làm gián đoạn cuộc hội ý của họ. Đội trưởng Hùng trông thấy Sơn vào lặng lẽ nhìn đi chỗ khác. Trên nét mặt Hùng lại hiện rõ cái vẻ khinh khỉnh đối với Sơn. Đoàn ủy viên Lê Phú lại nhìn Sơn bằng con mắt “liên quan”. Sở dĩ hai người chủ chốt này đi đến quyết định gọi Sơn về văn phòng kiểm thảo, không phải chỉ đơn thuần việc phát hiện ra Sơn bắt vào những rễ thối, mà còn vì Lê Phú vừa nhận được công văn của Đoàn ủy cải cách thuộc địa bàn tỉnh Thanh Hóa, Liên khu Bốn, nơi Sơn công tác trước kia, cho biết là Trần Sơn có đính ước với con gái một tên “phản cách mạng đương thời phá hoại” chui vào hàng ngũ cách mạng, vừa bị địa phương xử tử! Đoàn ủy ở Thanh Hóa điện cho Liên khu Ba, Liên khu lại điện về cho đoàn của Lê Phú để tiện việc theo dõi quản lý cán bộ trong Đoàn. Lê Phú sau khi cho Hùng đội trưởng biết cái tin giật gân ấy, liền kết luận: -“Thế mà trong lý lịch cậu ta không hề khai một câu! Lại còn hay thắc mắc mọi chuyện! Có vấn đề! Dứt khoát có vấn đề! Cần cảnh giác và phải đi sâu điều tra thêm xem cậu ta thế nào?”. Vừa nói đến đó thì Sơn vào, hai người đành bàn sang chuyện công tác. Họ liền quay sang Sơn, thi nhau cho anh những bài học đích đáng. Anh được nghe giải thích lại mọi chính sách, nào những là “sự phức tạp nghiêm trọng của tổ chức cũ”, “sự phản ứng điên cuồng của địch trong đợt năm này”. Sơn ngoan ngoãn ngồi nghe họ giảng như một con chiên nghe cha cố giảng đạo, chẳng còn dám thắc mắc điều này, điều kia nữa! “Hùng lập trường” lại phân tích cho anh biết về lập trường mơ hồ của anh. “Phú liên quan” lại nhắc nhở anh phải kiên quyết khắc phục những tư tưởng “liên quan” còn nặng nề trong đầu óc anh, khuyên anh phải dứt khoát với giai cấp địa chủ, với những phần tử địch chui vào hàng ngũ của ta.
Anh lễ phép trả lời:
- Thưa các đồng chí, đây cũng là một sự nhầm lẫn không may, thật tình tôi cũng muốn tìm những bần cố nông tốt để dựa.
“Hùng lập trường” thấy Sơn thật đáng ghét. Đã mù quáng chui đầu vào tổ chức cũ mà lý luận mãi vẫn không ra. Hùng giải thích thêm:
- Những người như thằng Tùng, thằng Duy mà ông còn cho là bần cố nông? Chúng nó là bọn tay chân địch, chúng đã “mất gốc” bần cố nông rồi! Chúng đã “biến chất” rồi!
Sơn không dám cãi lại lời Hùng nữa. Thật quả tình Sơn đã không giác ngộ về các lý thuyết “mất gốc” và “biến chất” kiểu đó.
Hùng nhắc thêm cho Sơn rõ:
- Thằng Tùng có họ cái tên địa chủ Cờ, là phần tử liên quan; thằng Duy trước ở trong tổ chức cũ, nay lại nắm tổ trưởng Nông hội, ông nội nó lại làm Hương Bản cũ, có phải ba đời bần cố đâu mà ông lại nhầm! Lịch sử chúng nó như thế làm sao mà trong sạch được!
Đoàn ủy viên Lê Phú lắc đầu lè lưỡi nói thêm:
- Phần tử liên quan như thế mà sao lại bắt rễ! Thật thiếu cảnh giác, thiếu đi sâu!
Trước đây đã có lần Sơn cãi lại Phú và Hùng về cái cách suy nghĩ của họ: “Các anh suy nghĩ đơn giản quá! Chưa chắc ba đời bần cố nông đã trong sạch, có khi lại vớ phải anh lưu manh thì sao! Có họ với địa chủ nhưng không liên quan gì đến chúng thì có gì là không trong sạch! Dân ta có câu “ai giầu ba họ, ai khó ba đời” cơ mà!”. Nhưng lần này thì Sơn như người đã đuối lý. Anh đành ngồi im.
Anh buồn rầu nghĩ đến bản thân mình cũng có một người cô ruột là địa chủ. Đội trưởng Hùng quẳng cho anh một tập giấy trắng, ra lệnh:
- Anh sang nhà bên nằm đó viết bản kiểm thảo, nói hết những sai lầm của anh ra, nguyên nhân do đâu? Không cần anh về xóm công tác nữa, bao giờ kiểm điểm xong sẽ hay.
Sơn cầm lấy tập giấy, lủi thủi bước ra, đầu óc anh rỗng không như người mất hồn. Anh đi khỏi, “Hùng lập trường” nói với Lê Phú:
- Phải cảnh giác với anh chàng này! Hữu khuynh hạng nặng! Lập trường rất khả nghi, nhất định có vấn đề chính trị! Lấy con phản động mà lại làm cán bộ cải cách làm sao được!
“Phú liên quan” nghe Hùng nói thấy phải, liền quyết định:
- Quê anh ta thuộc xã Tân Phong cũng trong phạm vi đoàn mình. Đồng chí nên lấy tư cách ban chỉ huy đội trọng điểm (vì đội của Hùng là đội trọng điểm của toàn Đoàn) báo cáo lên Đoàn ủy đề nghị cho công văn về ngay địa phương để thẩm tra lại xem có quan hệ gì với những phần tử phản động ở địa phương trước đây không. Tôi sẽ báo cáo lại bí thư Đoàn ủy duyệt, vì tôi phụ trách cụm này. Phải nói rõ những phản ứng của anh ta ở đội này để địa phương quê hương anh ta có tài liệu truy thêm rõ ràng!
Thế là Hùng làm ngay theo lời Phú và tờ công văn mật của Đoàn ủy cải cách được gửi cấp tốc về xã Tân Phong với những nhận định cá nhân đầy thành kiến và lệch lạc về Sơn.
Đội trưởng xã Tân Phong là một cốt cán mới thoát ly tham gia cải cách ruộng đất tám tháng nay, đang gặp thế bí là tìm không ra được tổ chức phản động ở địa phương như mong muốn của cấp trên, nhận được tờ công văn mật của Đoàn ủy gửi về, liền đọc kỹ từng mảng:
“… Tên Trần Sơn, quê xã Tân Phong, hiện là cán bộ cải cách ruộng đất thuộc xã Hồng Thái, có nhiều hành động khả nghi… Xuống xã Sơn không chịu thực hiện chính sách dựa hẳn vào bần cố nông…, bắt rễ vào những phần tử liên quan đến giai cấp địa chủ, liên lạc với những tên tay chân địch…, cố tình bưng bít những hoạt động chống phá của chúng… Không chịu phát động quần chúng truy tìm ra tổ chức phản động địa phương… Đoàn ủy chỉ thị cho đội Tân Phong phải khẩn trương phát động quần chúng tìm xem trước đây Trần Sơn hoạt động ở địa phương có những sai lầm và biểu hiện gì khả nghi thì cung cấp ngay cho Đoàn ủy và đội trọng điểm Hồng Thái để có tài liệu xem xét giáo dục cán bộ…”
Đội trưởng đọc xong tờ công văn mật, ngẫm nghĩ: “Lại một tay chân địa chủ phản động chui vào tổ chức của ta để phá!”. Anh ta bàn với đội phó phụ trách tổ chức cán bộ: “Làm ngay vụ này đi. Có khi ta lại tìm ra được tổ chức địch ở địa phương ta cũng nên. Tên Sơn này trước đây làm bí thư chi bộ đầu tiên ở xã này. Biết đâu nó lại là đầu mối tổ chức địch ở đây”. Đội phó phụ trách tổ chức cán bộ xưa nay vốn thận trọng, bây giờ cũng hơi do dự vì thấy thành phần của Sơn chỉ là trung nông lớp dưới và anh ta lại là người tham gia kháng chiến rất sớm ở địa phương. Đội trưởng thấy thế không ổn, liền giao ngay công việc thẩm tra Sơn cho đội phó phụ trách tòa án.
Anh này nghĩ: “Ái chà, người ta cũng đã cẩn thận chán ra rồi! Hiện tượng có rành rành ra người ta mới dám viết thư về địa phương như thế này. Thiếu gì anh tham gia kháng chiến cũ mà nay trở thành phản động! Đi cải cách mà còn dám chống phá ắt phải là tay gớm chứ chẳng phải tầm thường!”. Thế là anh ta triệu tập cốt cán bần cố nông toàn xã lại để phát động thẩm tra Sơn. Phương pháp y làm cũng giống như phương pháp mà đội Tứ đã dùng ở Hồng Thái.
Trong hội nghị y đã phát động rất kỹ mà cốt cán vẫn ngồi im, không ai chịu tố tên Sơn, người nọ lại cứ lấm lét nhìn trộm người kia. Họ nể anh đội quá, nhưng thật tình họ chẳng biết nói gì. Không kiên nhẫn chờ đợi được, đội phó tòa án đem ngay tờ công văn mật ra đọc cho mọi người nghe, rồi giải thích: “Chúng ta nghe rõ rồi đấy. Ở trên người ta đã có đầy đủ chứng cớ rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Chẳng lẽ tên Sơn quê ngay tại xã ta mà cốt cán lại không biết gì về nó. Chúng ta phải kiên quyết với những phần tử xấu… tay chân địch!”. Đã được nghe đọc tờ công văn của cấp trên, lại được anh đội giải thích kỹ, những người cốt cán đâm ra suy nghĩ. Phút chốc bao nhiêu khuyết điểm, sai lầm của Trần Sơn hồi còn công tác ở xã hiện đến trong trí những người cốt cán lớn tuổi. Họ lần lượt phê phán Sơn là quan liêu, là coi thường bần cố nông. Rồi nhiều việc không vừa ý họ trước kia trong sự nghiệp chiến đấu chống giặc cũng như trong việc sản xuất họ đều ghép cho Sơn hết. Hạn hán do Sơn không chịu huy động dân đào mương dẫn nước. Lụt lội cũng do Sơn không chịu cho phá đê để mương dẫn nước sang xã bên chịu đỡ. Rồi đến phá đình chùa cũng do Sơn khởi xướng, du kích đánh nhau với giặc chết cũng do âm mưu của Sơn cùng xã đội Nguyễn Phong, giặc bỏ bom cũng do Sơn đem bộ đội về làng! Chẳng mấy chốc mà những thành tích cũ hóa ngay ra tội ác! Đội phó tòa án căn cứ vào đó lên hồ sơ. Tội ác của Trần Sơn phải viết đặc hàng chục trang giấy. Bản hồ sơ được gửi báo cáo Đoàn ủy và Hội Hồng Thái. Thế là Trần Sơn bị bắt giải về xã cho nhân dân hỏi tội đã trên một tháng nay. Đêm nay, lần đầu tiên Sơn được họ để cho nghỉ ngơi sớm hơn mọi đêm. Anh không hề biết tí gì về bản án tử hình đã giáng xuống đời anh cũng trong đêm nay, ở ngay tại cuộc họp của Đội cải cách nơi giam giữ anh chẳng bao xa!
Đêm đã về khuya. Bốn bề lặng ngắt! Sơn không thể hình dung nổi, trong cảnh đêm chết lịm của xã Tân Phong này có một cuộc chiến đấu khác âm thầm nhưng cũng không kém phần sôi sục đang lặng lẽ diễn ra!