← Quay lại trang sách

CHƯƠNG THỨ HAI -PHẤT CỜ KHỞI NGHĨA

Ngày 31 tháng 8 năm 1917, tỉnh Thái Nguyên vào khoảng 8 giờ tối.

Trời oi bức khó chịu, dân chúng bắc ghế ngồi hóng mát cả ở dưới hè. Tiếng trống tuồng rời rạc hòa lẫn với tiếng ve sầu làm cho cảnh phố đã buồn tẻ lại càng buồn thêm lên. Dưới ánh sáng vàng vọt của các cây đèn dầu tây, vài ba người khách đi chơi phiếm, thỉnh thoảng lại dừng chân trước một cửa tiệm tạp hóa, nhìn vơ vẩn một lát rồi lại đi. Trước sòng bạc, một bọn người đang đứng chăm chú nghiền ngẫm nước bạc, giữa những tiếng rao “hối à” của mấy cô gái Tàu trẻ tuổi. Cách đấy độ trăm thước, ba nhà hát cô đầu vắng khách rầu rĩ chìm trong bóng tối.

Trước sở Giám Binh, một bọn độ bốn năm người lính khố xanh đang chuyện trò đùa bỡn với mấy cô gái bán nước chè tươi. Xa xa một cái chòi canh bằng gạch nhô lên hai dãy nhà lá, nom rờn rợn ghê người.

Đến 9 giờ, phố xá đã vắng người. Lác đác chỉ còn vài cái xe tay bánh sắt, chất đầy hàng, rồi mất dần trong ngõ hẻm.

Đội Cấn cùng 5 tên lính thủng thỉnh đi tuần qua các phố một lúc, rồi về nghỉ chân ở chòi canh. Leo hết bậc thang cuối cùng, Cấn thấy Đội Giá, Bếp Đen cùng với 4 tên lính nữa ngồi uống rượu với lạc rang, thì khì cười nói pha trò:

- Tửu lạc vong bần.

Đoạn ngồi sà vào, nhặt mấy củ lạc rang ăn.

Bếp Đen lấy một cái chén, rót rượu mời:

- Ngài Đội nếm thử “hoàng hoa tửu” xem có thú không.

Thế rồi chén này chén khác, phút chốc cả bọn đã đánh ngã luôn ba chai bố, mặt đỏ gay như thoa phẩm hồng. Đội Giá lè nhè nói:

- Chúng mình có thể ví như 7 người hiền uống rượu ở rừng Trúc, mặc cho ngày tháng trôi qua, mặc cho thế nhân chen nhau trong vòng danh lợi.

Bếp Đen hỏi:

- Bảy người hiền nào, hay là “Thất hiền quyến’’ mà tuồng vẫn diễn phải không?

- Không. Đây là bọn “Thất hiền trúc lâm’’ đời nhà Tấn, vì chán đường danh lợi, hàng ngày họp nhau uống rượu làm vui.

Đội Cấn tiếp:

- Đó là những bậc Á thánh, chứ chúng mình thì nước gì mà hiền với ác,

Một tên lính chém vào một câu:

- Nước gì à? Thế mà tức lên thì phải biết.

Đội Giá nhìn vào mặt Đội Cấn nói:

- Tôi vừa bị thằng Quản Hạnh “sà lù” lúc ban sáng.

Đội Cấn quắc mắt hỏi:

- Nó có quyền gì mà “sà lù” được anh?

Bếp Đen tiếp:

- Nó làm phó quản thì nó có quyền chứ sao?

Đang lúc say rượu, Đội Cấn đập tay xuống giường.

- Chẳng phải tay tôi.

Đội Giá nói khích:

- Tay anh thì cũng chịu chứ gì?

- Tôi cứ mượn phăng chỗ đội nón.

Bếp Đen hăng tiết, đứng phắt dậy, hỏi:

- Ngài cho phép.

- A lê hấp!

Bếp Đen vùng chạy ra ngoài, trong khi ấy, Đội Cấn say quá gục đầu xuống giường ngủ. Bếp Đen nhảy ba bước xuống cầu thang, chạy vào nhà một người cai ở gần đấy gặp lúc vợ đang thái thịt, liền dành lấy con dao:

- Bác cho em mượn.

Đoạn quay đi, nhưng chỉ vài phút sau lại đến:

- Bác cho em mượn cái đĩa to:

Người đàn bà thấy Bếp Đen sặc sụa mùi rượu, lại đòi mượn dao với đĩa, đoán là đi kiếm thức nhắm, liền đi lấy đem ra.

Bếp Đen tay cầm dao, tay cầm chiếc đĩa ù té chạy lên buồng Quản Hạnh gõ cửa. Quản Hạnh đã đi nằm, ngồi nhỏm dậy hỏi:

- Ai?

- Bẩm quan Bếp Đen đây.

- Có việc gì?

- Quan Giám hỏi quan.

Quản Hạnh vừa mở cửa, Bếp Đen nhẩy tót vào không thèm nói một câu, khoa dao chém một nhát thật mạnh, đứt phăng đầu Quản Hạnh. Cái thây ngã đè vào chiếc giường gỗ, giẫy đành đạch một lúc rồi im, máu ở cổ phun ra ồng ộc như suối. Bếp Đen thản nhiên nhặt chiếc đầu lâu đặt vào đĩa, rồi quay về chòi canh. Lúc ấy Đội Cấn, Đội Giá và bốn tên lính đang vùi đầu ngủ như chết. Bếp Đen đánh thức mọi người dậy. Đội Cấn mắt nhắm mắt mở nhìn thấy chiếc đầu lâu máu me gớm ghiếc, giật mình hỏi:

- Cái gì thế?

- Bẩm cháu tuân lệnh Ngài Đội, lấy đầu tên Quản Hạnh.

Đội Cấn toát mồ hối, tỉnh hẳn rượu:

- Ai xui anh giết người?

- Chính ngài cho lệnh.

Đội Giá cũng đờ mặt nói:

- Nguy to rồi, chết cả nút.

Bốn tên lính sợ quá toan chạy. Đội Giá nhanh trí ngăn lại:

- Cớ sự đã thế này, thì một liều ba bẩy cũng liều. Chúng ta hành động ngay cho khỏi bị lộ.

Đoạn chàng rút khẩu súng sáu, chỉ vào bốn tên lính.

- Các anh nghĩ thế nào? Theo thì sống phản đối thì chết.

Bốn tên lính phải ưng thuận. Đội Cấn bị dồn vào bước đường cùng, đành lên tiếng:

- Tôi xin cắt đặt công viậc: Anh Bếp Đen cấp tốc đi giết nốt lão Giám Binh, còn anh Giá cho nổi kèn Ô Sám (aux armes) gọi lính về.

Mọi người răm rắp tuân lệnh. Bấy giờ độ 10 giờ. Phố xá đang yên tĩnh bỗng vang lên một hồi kèn báo động. Những lính khố xanh còn lảng vảng ngoài phố, nghe tiếng kèn đều vội vã trở về trại.

Người nào có nhà riêng ở ngoài phố, cũng mặc binh phục hấp tấp đi. Hơn hai trăm người đứng xếp hàng ở sân. Đội Cấn tay cầm súng, theo sau có Đội Giá và hơn mười người thủ túc võ trang đầy đủ, điểm mặt một lượt, rồi dõng dạc nói:

- Chúng ta bị ách nô lệ quàng lên cổ mấy chục năm nay, dẫu có sống cũng như chết. Hôm nay là ngày chúng ta phải trỗi dậy, nhất quyết giải phóng đất nước. Tôi đã sai người giết chết viên Giám Binh và tên Quản Hạnh tay sai của nó.

Đội Cấn chỉ hai chiếc đầu lâu cắm ở hai cọc tre tiếp:

- Giờ khởi nghĩa đã điểm. Ai không theo thì giơ tay lên.

Ai nấy đều xanh mắt lại, đồng thanh xin theo.

Đội Cấn nói:

- Nếu phản bội thì chịu tội gì?

- Tội chết.

- Vậy các anh đồng hô: “Giải phóng dân tộc”

Cả bọn hô to:

- Giải phóng dân tộc!

Đội Cấn phân phát công tác cho mọi người, rồi nổ ba phát súng, báo hiệu giờ khởi nghĩa.

Cai Trương đem hai chục tên lính đến trại giam giết chết cai Tèo vào lão Ách “gà chọi” giải phóng cho bọn tù chính trị, Trần Lập Thành hô to:

- Mỗi người phải tìm lấy một món binh khí, cùng tôi đến Tòa Sứ tìm Công sứ Darles.

Cả bọn reo ầm lên, tranh nhau lấy củi, gậy rồi theo Thành đến Tòa Sứ. Nhưng hôm trước, Darles và viên phó sứ đã về Hà Nội, nên Thành kiếm mãi không thấy, tức mình ra lệnh cho bọn tù phóng hỏa đốt cháy mấy chiếc nhà gianh gần đó. Ngọn lửa bốc cháy, khói đen bay ngất trời. Đội Giá đem năm chục tên lính đến chiếm nhà Đoan.

Viên chủ sự là Cazenave ôm két bạc chạy thoát được. Sở bưu điện cũng bị nghĩa quân vây, nhưng viên chủ sự là người Nam còn đủ thì giờ điện về Hà Nội báo tin.

Không đầy một tiếng đồng hồ, các công sở đều hoàn toàn bị chiếm đóng. Một số kiều dân Pháp nhanh chân chạy lên được đồn quân Lê Dương đóng ở trên một quả đồi cách Tòa sứ độ năm trăm thước.

Các công chức người Nam. thư ký, đề lại, trước còn kéo nhau vào dinh viên tuần phủ mong được toán quân Lê Dương đến giải nguy, nhưng đợi mãi chưa thấy trên đồn nổ súng mà khắp nơi nghĩa quân ầm ầm kéo tới nên mạnh ai người nấy chạy, không phân biệt phương hướng. Viên Tuần Phủ cải trang thành một thường dân thoát được ra khỏi tỉnh.

Sang tới một giờ đêm, thì tình hình đã tạm yên. Đội Cấn họp các đồng chí ở Sở Giám Binh bàn định công việc. Đội Giá sai người mang võng đến trại giam đón Lương Ngọc Quyến ra, vì Quyến đã bán thân bất toại không đi được.

Chung quanh mười chiếc bàn ghép lại thành hai dãy dài choán hết cả gian phòng, các đảng viên cao cấp ngồi yên lặng nhìn làn khói trầm thơm ngát cuồn cuộn bốc ở chiếc lư hương bằng đồng đặt trên cái ghế cao lênh khênh. Giáp mặt vào tường, hai lá cờ Việt Nam Quang Phục Hội to bằng nửa chiếc chiếu đóng chéo cán, uy nghi và hùng dũng. Đội Cấn khai mạc cuộc họp:

- Thưa các đồng chí! Nhân danh là một đảng viên trong phong trào giải phóng dân tộc, tôi xin báo cáo tình hình quân sự trong mấy giờ qua. Tất cả các công sở đã bị nghĩa quân chiếm đóng, kho súng đạn đã lọt vào tay chúng ta. Dân chúng đã yên tĩnh và đồng lòng hưởng ứng phong trào cách mệnh. Giờ phút này, chúng ta hoàn toàn làm chủ tình thế.

Cử tọa vỗ tay tán thưởng. Một đảng viên đứng lên phát biểu ý kiến:

- Đây mới chỉ là bước đầu phong trào giải phóng dân tộc. Chúng ta còn phải tranh đấu nhiều nữa và con đường chắc chắn sẽ chứa nhiều gian nan, hiểm trở. Muốn thống nhất hành động và ý chí, chúng ta cần phải bầu một vị lãnh tụ để lãnh đạo phong trào.

Cử tọa vỗ tay hoan bô. Cai Trương lên tiếng:

- Vị lãnh tụ này phải là một người có uy tín đối với anh em. Ngoài ra, lại phải giàu sáng kiến về quân sự. Riêng tôi, tôi xin bầu anh Trịnh Văn Cấn.

Lại một tràng vỗ tay nữa. Đội Giá tiếp:

- Anh em nghĩ thế nào?

Cả bọn hô:

- Biểu đồng tình.

Đội Cấn nghiêm minh đáp:

- Tôi tự xét không đủ năng lực để đảm nhiệm một công việc quan trọng như vậy. Hiện nay, bên cạnh chúng ta có nhà cách mệnh trứ danh là Lương Ngọc Quyến ; phi tay ấy, không ai đủ tài năng điều khiển phong trào.

Quyến đang nằm trên một tấm phản, vội ngắt lời:

- Tôi đã thành một phế nhân, ăn còn phải có người và thì cáng đáng sao nổi công việc ấy được. Tôi xin bầu anh Cấn làm minh chủ.

Mọi người đều nhao nhao lên hưởng ứng, Đội Cấn hai ba lần từ chối, sau đành phải nhận, rồi ngồi vào ghế giữa.

Một người đứng lên hỏi:

- Xin đảng trưởng cho biết tại sao lại treo lá cờ kia?

Đội Cấn đáp:

- Đây là cờ của đảng Việt Nam Quang Phục Hội do Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm minh chủ. Chúng ta phần đông đều là cựu đảng viên cả, lẽ tất nhiên phải dùng lá cờ đó.

Lại một dịp để cho cho đảng viên cộng sản quấy rối. Một thanh niên phần tử Cộng sản đứng lên phản đối:

- Như thế không được. Chúng ta tự động đánh chiếm Thái Nguyên, không theo mệnh lệnh của đảng nào. Có lẽ đâu lại phải mượn oai người để làm việc riêng của mình? Vả lại, hiện nay Việt Nam Quang Phục Hội đã tan rã, các đảng viên mất liên lạc với nhau, chịu bó tay nằm yên một chỗ. Các lãnh tụ như Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Thượng Hiền bôn ba ở Hải ngoại, biết đâu chả rút chân ra khỏi sân khấu chính trị rồi? Và an phận với cuộc đời vợ đẹp con khôn? Tôi đề nghị bỏ lá cờ kia đi.

Đội Cấn hỏi:

- Nên thay bằng lá cờ nào?

- Để tùy theo ý kiến của Hội đồng.

Sau một cuộc bàn cãi sôi nổi, Hội đồng nhất định chấp thuận đề nghị của đại đa số đảng viên dùng lá cờ của Việt Nam Quang Phục Hội. Mấy đảng viên Cộng sản đứng lên phản đối.

- Lá cờ này tượng trưng cho nền đế chế hiện hữu của nước ta Từ Đề Thám đến Phan Đình Phùng những cuộc tranh đấu vẫn nhắm mục đích ủng hộ quân quyền. Đả đảo đế chế! Hoan hô Cộng sản!

Một cựu tướng lĩnh của Đề Thám là Ba Nho đứng lên chất vấn:

- Cộng sản là cái gì?

- Là Lê Ninh.

Ba Lâm hỏi luôn:

- Lê Ninh là ai? Có phải người Việt Nam không?

- Là người của nước Nga La Tư.

Đội Giá quắc mắt:

- Vậy mời các ông đi về với Lê Ninh và nước Nga La Tư của ông. Chúng tôi tranh đấu cho nước Việt Nam thì chỉ muốn cộng tác với người Nam mà thôi.

Các đảng viện Cộng sản đi ra ngoài phòng.

Đội Cấn không giữ, ngồi xuống, dõng dạc tuyên bố:

- Xin mời các đồng chí ấn định chương trình hành động.

Lương Ngọc Quyến nói ngay:

- Xong cuộc tấn công chớp nhoáng, lực lượng quân sự của ta đã bị phân tán đi để chiếm đóng các công sở. Hiện nay đồn Lê Dương còn mấy trăm lính trang bị bằng những võ khí tối tân. Nếu sáng mai chúng phản công thì lấy gì chống đỡ? Tôi đề nghị rút hết cả về, chỉ để vài người canh gác là đủ, rồi lợi dụng lúc đêm tối tiến đánh chiếm đồn. Nếu ta thanh toán được toán lính Lê Dương, thì Thái Nguyên không lo gì nữa.

Đội Cấn gật đầu:

- Đồng chí bàn hợp lý lắm.

Quyến tiếp:

- Chắc chắn là Hà Nội đã biết tin tức ở dây rồi, chỉ nội nhật ngày mai là quân tiếp viện sẽ tới. Chúng ta cho ngay người đi phá hết cầu cống để chặn đường tiến của địch. Ta cố thủ ở Thái Nguyên trong một thời gian, rồi bắt liên lạc với toán quân Việt Nam Quang Phục Hội ở Quảng Đông, Quảng Tây. Đợi khi nào lực lượng đầy đủ, ta sẽ đánh rộng ra chiếm dần dần các tỉnh khác.

Đội Giá ngắt lời:

- Một căn cứ nhỏ xíu như Thái Nguyên không phảỉ là nơi thuận tiện để cố thủ. Ta lợi dụng lúc lòng dân đương hăng đánh tràn đi, thì đại sự tất xong.

Ba Lâm cũng nói:

- Thời cơ đã đến ta không nên nhút nhát, mà hỏng cả việc. Hiện nay Pháp đang lúng túng ở chính quốc không thể phái binh sang được. Ta lấy số đông tràn ngập các châu huyện đi đến đâu mộ binh đến đấy, thóc gạo sẵn, khí giới đủ, thì lo gì chả chiếm được Thủ Đô trong một thời gian gần đây.

Sau một cuộc bàn cãi gay go, hội đồng bác bỏ đề nghị của Quyến, nhưng theo lời của Đội Cấn, phái Cai Trương, Ba Nho đem 200 quân đánh đồn Lê Dương.

Đúng ba giờ sáng, toán nghĩa quân đến bố trí ở chân đồi đoạn nã súng lên.

Trên đồi chỉ có năm chục lính Lê Dương với một ít thường dân Pháp. Nghĩa quân vừa bò lên, vừa bắn, đã khá lâu, nhưng vẫn chưa thấy địch bắn trả lại. Đơn vị thứ nhất đã tới chân thì một loạt liên thanh nổ, làm chết mất mấy người. Tiếp theo đó súng trường ở các lỗ châu mai thi nhau nhả đạn. Nghĩa quân không sao tiến được, nằm rạp cả xuống. Trong lúc ấy, đại bác bảy mươi lăm ly ở đồn bắt đầu bắn vào Sở Giám Binh mười lăm phát liên tiếp. Cai Trương hô xung phong mấy lượt, nhưng không ai dám tiến, vì đạn khạc ra như mưa rào. Hai bên cầm cự nhau đến năm giờ sáng thì Ba Nho cho lệnh nghĩa quân lui, khiêng bốn xác chết.

Đội Cấn hỏi:

- Đồn không chiếm được à?

Ba Nho có vẻ bẽn lẽn, đáp:

- Chúng phòng thủ chu đáo lắm.

Đội Cấn gọi Cai Trương:

- Trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, anh phải chiếm xong vị trí của địch. Nếu trái lệnh thì đừng nên trông thấy tôi nữa.

- Xin tuân lệnh đảng trưởng.

Đoạn Trương mang hai trăm quân đi. Đang lúc ấy bỗng được tin báo có một toán quân không biết ở đâu đến, hiện nay đang đóng ở trại Gia Sàng cách tỉnh ba cây số. Đội Cấn hỏi:

- Ai dám xung phong?

Trần Lập Thành giơ tay. Đội Cấn điểm ba chục tay súng cùng với năm chục nghĩa quân đủ giáo mác.

Nguyên toán lính khố xanh này là của hai viên Giám Binh François Martini và Pellegrini ở hai tỉnh Phúc Yên, Bắc Giang kéo đến thám thính tình hình.

Quyến phát biểu ý kiến:

- Ta nên cho quân đi các nhà, giải thích cho mọi người hiểu rõ và khuyên dân chúng đừng hoang mang. Có như thế mới giữ vững được tinh thần cho quân dội.

Đội Cấn khen phải, tự mình đem hai chục thủ túc đi. Trong khi ấy Cai Trương đã mở cuộc tấn công lên đồn. Súng nổ rền… Khói thuốc bay khét lẹt. Toán nghĩa quân hết lớp này đến lớp khác, lăn xả vào chiếm những hầm chiến đấu của địch.

Nhiều viên đạn trái phá rơi cả vào khu phố của dân ở gây ra ít nhiều thiệt hại về người và nhà cửa.

Đội Cấn đi quan sát phố xá thấy cửa đóng chặt, Chàng cho bắc loa gọi dân chúng phải bình tĩnh đề phòng bọn lưu manh lợi dụng thời cơ để cướp bóc của cải. Khi quay về thì được biết đồn vẫn chưa chiếm được, Đội Cấn tức giận toan phái thêm quân tiếp viện thì Quyến can rằng:

- Đối với toán quân Lê Dương trên đồn, ta không cần phải dùng sức mạnh. Ta cứ cho quân vây chung quanh, rồi dụ hàng. Hễ hết lương thực thì súng đạn dẫu nhiều cũng thành vô dụng.

Đội Cấn nghe lời, lập tức phái người đến bảo thôi bắn. Đến ba giờ chiều, Đội Cấn vẫn chưa thấy tin tức gì của Trần Lập Thành, liền cho quân đi dò xét.

Nguyên do, Thành đến một nơi cách Gia Sàng độ ba trăm thước, thì cho quân đào đất đắp ụ để nấp. Đoạn chàng cho thét loa gọi hàng.

Lúc ấy vào khoảng bốn giờ chiều hôm mùng một tháng chín. Bên này viên Giám Binh Pellegrini chưa biết rõ hỏa lực của dịch ra sao, nên chưa dám nổ súng.

François Martini bàn rằng:

- Ta chỉ có hai mươi sáu tay súng. Nếu địch lấy số đông uy hiếp thì khó lòng mà thoát chết. Tôi muốn rút khỏi chỗ này.

Pellegrini không nghe, nói:

- Chỉ đêm hôm nay là toán quân tiếp viện ở Hà Nội sẽ tới nơi. Dù địch tấn công, ta cũng cứ đánh. Tôi xem địch cũng không vừa, vì chúng đã biết dùng chiến thuật lung lạc tinh thần của ta trước khi tấn công.

Trong khi ấy, loa của nghĩa quân vẫn cứ ầm ầm gọi:

- Hỡi các anh em lính khố xanh. Chúng ta đã sống hàng mấy chục năm nay, dưới sự kiềm tỏa của bọn cướp nước. Hiện nay toàn dân đã trỗi dậy đánh kẻ thù chung, các tỉnh như Vĩnh Yên, Bắc Giang, đều bị nghĩa quân chiếm đóng, Chỉ nay mai là Hà Nội sẽ thất thủ. Anh em hãy bỏ hàng ngũ địch hợp lực với chúng tôi giải phóng nốt những tỉnh còn trong phạm vi thế lực của địch. Quân tiếp viện của ta đã vượt biên thùy Hoa Việt, hiện đóng rải rác khắp nơi. Các anh em mau mau tỉnh ngộ mà quay về phụng sự Tổ quốc.

Martini mỉm cười:

- Chúng tuyên truyền.

Một tên lính đứng sau cướp lời:

- Có lẽ thực đấy.

Martini rút súng lục dí vào ngực tên lính:

- Tôi cấm anh không được nói láo.

Tiếng loa vẫn không ngớt, nhưng toán lính ở trại Gia Sàng không hề sao xuyến, nằm cả xuống bố trí cẩn thận.

Đến năm giờ thình lình nghĩa quân mở cuộc tấn công. Những luồng đạn nhắm Gia Sàng bay tới.

Một đơn vị xung phong của Thành, miệng ngậm dao, bò dần dần đến hàng rào tre. Pellegrini hô quân bắn trả lại. Khói thuốc che kín cả khu trại; những lá tre cháy ngùn ngụt. Phía người nghĩa quân vẫn tiến đều, mà trong trại lính đã thấy nao núng. Pellegrini cho lệnh rút về phòng tuyến thứ nhì. Thành chia quân ra làm hai bỏ mặt giữa cho đánh thốc vào hai cạnh sườn.

Pellegrini lẩm bẩm:

- Nó khôn thực.

Martini khẽ hỏi:

- Thế nào?

- Bắn đến viên đạn cuối cùng.

Đạn cứ rào rào rơi vào giữa trại. Toán nghĩa quân đi tiên phong đã chiếm được mấy căn nhà giáp bụi tre. Pellegrini vừa nhô đầu lên thì bị một viên bắn trúng cái mũ sắt bật văng đi hụt chết. Martini tay run run nói:

- Coi chừng.

Vừa nói xong, thì một viên đạn bay tới, cắm phập xuống đất cách chỗ hắn nằm chừng ba chục phân tây.

Ngoài này Thành thấy quân mình đã lọt vào trại, liền hạ lênh đốt mấy căn nhà lá để thị uy. Tuy vậy, sự thắng bại vẫn chưa rõ rệt, vì lính khố xanh còn đủ đạn để bắn. Nhân thấy trời gần tối, Thành hô xung phong, nhất định đánh một đòn quyết liệt cuối cùng. Nghĩa quân lăn xả vào chiếm từng căn nhà. Toán lính khố xanh bị tràn ngập với số đông, chết khá nhiều. Pellegrini và Martini ra lệnh rút lui lúc bấy giờ đã hơn 8 giờ. Nhưng đến đêm thì đám tàn quân này gặp 16 người nữa ở Đức Thắng (Bắc Giang và Hà Châu (Phúc Yên) kéo đến trợ chiến.

Hai toán họp lại, đóng ở một làng cách Gia Sàng 3 cây số, đợi dịp phản công.

Vừa đẩy lui được địch ở Gia Sàng, Trần Lập Thành trở về Thái Nguyên, hợp lực với cai Trương vây đồn Lê Dương, Thành hiến kế:

- Ta rút quân khỏi chỗ này, chỉ để vài chục người án ngữ mặt trước, thỉnh thoảng đốt pháo làm nghi binh. Tôi đem 30 người bò lên núi, trước hết bắt sống mấy tên canh gác, rồi bắn 3 phát súng làm hiệu, anh ở đàng sau đánh bừa lên, chắc chắn sẽ thắng.

Trương bằng lòng cho rút hết quân. Thành chọn lấy 50 người cảm tử, cởi trần, chỉ đóng khố nâu, rồi ra lệnh cho bò lên núi. Trong khi ấy, tiếng pháo thỉnh thoảng lại nổ và trên đồn, súng cũng bắt đầu thưa thớt. Bọn quân cảm tử tiến dần dần trong bóng tối đen. Lên tới nơi, Thành chưa biết rõ chỗ quân canh nấp, thì đột nhiên một luồng ánh sáng ở đâu rọi đến, tiếp theo một loạt súng nổ. Một vài người trúng đạn. Luồng ánh sáng hết quay sang tả lại quay sang hữu, chiếu xa có tới mấy trăm thước. Thành để cho vệt sáng vừa quay sang bên kia, ngồi phắt dậy giơ súng ngắm rồi bấm cò:

- Đoàng!!

Luồng ánh sáng phụt tắt, nhưng lần này thì không thấy súng bắn trả lại.

Thành ngạc nhiên, lại bò lên. Toán nghĩa quân còn cách chân tường vài chục thước thì dừng lại, nín hơi đợi lệnh. Thành bò sát tới chân tường, đưa tay sờ thấy một khẩu súng thò ra ở lỗ châu mai vội rút tay lại. Lạ lùng hơn nữa, là súng vẫn không thấy nổ, Thành mạo hiểm vói tay ra giật súng, thì lấy được dễ dàng. Đoán là địch dùng mưu, đánh lừa. Thành chưa dám cho quân chiếm chòi canh, bắn ba phát súng hiệu, để cho cai Trương tiến. Khi đã biết quân tiếp viện đã tới nơi, Thành hô quân chiếm chòi canh. Không một phản ứng nào của địch. Cai Trương bắc thang trèo vào trước, nghĩa quân bám lên vai nhau trèo qua tường nhảy vào.

Một cái đồn trống không. Thành sai đốt đuốc khám xét một hồi, bắt được một người lính Lê Dương bị thương gẫy chân nằm trên một tấm phản.

Thành dùng tiếng Pháp hỏi:

- Chúng mày đi đâu cả?

- Rút hết rồi.

- Từ bao giờ?

- Đã được 2 tiếng đồng hồ?

Cai Trương toan đâm chết. Thành gạt đi:

- Để bắt làm tù binh.

Đoạn sai hai tên quân khênh tấm ván đi.

Khi ra tới cổng Thành thấy một xác người nằm chết ở chân tường, chiếc đèn vỡ tan từng mảnh.

Ngay tối hôm 31-8-1917, Hà Nội đã biết tin rối loạn ở Thái Nguyên do viên chủ sự người Nam điện về. Nửa giờ sau, Toàn quyền Albert Saraut triệu tập một hội nghị bất thường. Công sứ Darles hớt hơ hớt hải chạy đến chưa kịp hỏi đầu đuôi thì Sarraut đã mát mẻ nói:

- Ông đã biết trước sẽ xảy ra những sự không hay ở Thái Nguyên nên mới về đây.

- Dạ.

- Ông thật khôn ngoan vô cùng.

Darles tái mặt không nói được câu nào. Khi mọi người đến đông đủ, Sarraut báo cáo tình hình trong mấy giờ qua ở Thái Nguyên rồi kết luận:

- Tôi muốn có quân tiếp viện ngay trước khi bọn phiến loạn có đủ thì giờ bố trí.

De Monpezat lại không ngớt lời đả kích chính sách cai trị của thực dân, làm cho các sĩ quan cao cấp Pháp phải khó chịu.

Sarraut mỉm cười tiếp:

- Ông nói nhiều quá.

De Monpezat quắc mắt đáp:

- Ông bảo tôi im làm sao được, khi mà các ông cứ giữ mãi lập trường chính trị lỗi thời.

Vẫn nụ cười giễu cợt, Sarraut đáp:

- Xin cho biết lập trường của ông.

- Để cho cai trị lẫn nhau, thì sẽ không có những cuộc rối loạn nữa.

- Vâng tôi cũng quan niệm như vậy. Nhưng còn đồn điền của ông thì sao?

- Đấy là câu chuyện khác.

- Cũng vì những đồn điền của ông, mà chúng tôi chơi nốt ván bài dở dang này.

Đoạn Sarraut quay lại nói với cử tọa:

- Lại một phen nữa, chúng ta bắt buộc phải làm chảy một ít máu để bảo vệ những cánh đồng mênh mông bát ngát của ông De Monpezat. Sau này khi tôi về Pháp rồi, nếu ai có nhắc lại cuộc hội nghị ngày hôm nay, thì xin các ông chớ quên nhắc đến lập trường của ông De Monpezat.

Mọi người đều tủm tỉm cười, De Monpezat đứng dậy ra ngoài. Sarraut bắt đầu thảo luận với Trung tướng Lombard Tổng tư lệnh đạo quân Pháp ở Đông Dương.

Sau khi đã đồng ý với toàn quyền Sarraut về mọi phương diện, Trung tướng cử Đại tá Berger chỉ huy cuộc hành binh. Lập tức một tiểu đoàn bộ binh được huy động có pháo binh hỗ trợ. Ngoài ra, lại thêm lính khố xanh và lính dõng ở các tỉnh cũng phải về ứng chiến.

Trưa hôm sau tin tức quân sự đưa về cho biết Thái Nguyên đã hoàn toàn bị chiếm đóng, những toán lính khố xanh đến tiếp ứng đều bị đánh lui. Dân chúng ở Hà Nội xao xuyến. Những đảng viên cũ của phong trào Cần Vương, lợi dụng cơ hội reo rắc sự hoang mang trong dân chúng. Một ít truyền đơn được rải trong mấy phố ở ngoại ô, tiếp theo là những vụ bắt bớ kẻ tình nghi. Quyền Thống Sứ Bắc Kỳ Le Gallen một mặt tăng cường số cảnh binh trong thành phố để giữ trật tự, một mặt điện về các tỉnh cho các Công sứ biết mà đề phòng.

Hồi ấy Trịnh Văn Cấn, Đội Giá chưa biết cách lợi dụng những thắng lợi ban đầu để gây uy tín trong dân chúng.

Trừ một vài đoàn thể ái quốc lẻ tẻ hoạt động gián tiếp ủng hộ ít nhiều phong trào cách mạng Thái Nguyên, còn thì dân chúng hầu như vẫn giữ thái độ thụ động trước sự biến chuyển lớn lao đó.

Đứng về địa vị khách quan mà xét, thì sở dĩ dân chúng đâm ra thờ ơ, ngờ vực đối với cuộc tranh đấu của nghĩa quân Thái Nguyên, một phần lớn do ở sự tuyên truyền không được sâu rộng và sau nữa, sự chênh lệch quá rõ rệt giữa hai lực lượng đối lập.

Nguyên sau khi triều đình Huế đã ký hiệp ước (l887) công nhận cho nước Pháp đặt quyền bảo hộ ở nước Việt Nam, thì biết bao nhiêu đảng phái ái quốc bắt đầu hoạt động, mục đích giải phóng dân tộc chống lại chủ nghĩa đế quốc thực dân. Từ Tôn Thất Thuyết thất trận ở Mang Cá làm cho vua Hàm Người phải xuất bôn, đến Phan Đình Phùng phải mở đầu phong trào Văn Thân, hàng vạn thanh niên Việt Nam đã ngã gục trước miệng súng, hàng ngàn gia đình đã lâm vào cảnh đồ thán lưu vong. Rút cục vẫn thất bại và thất bại. Rồi đến Hoàng Hoa Thám vẫy vùng ở Yên Thế, Tán Thuật ở Bãi Sậy, Trương Công Định ở Gò Công, Thủ Khoa Huân ở Bến Tre, những cơ sở kháng chiến được thành lập dưới sự che chở của dân chúng. Nhưng trải qua một thời gian thử thách, nhiều cuộc chạm súng đã xảy ra.... tàn bạo và gay go, cuộc kháng chiến yếu ớt, lẻ tẻ, rã rời như bông hoa tàn trước trận cuồng phong. Kịp đến khi Việt Nam Quang Phục Hội ra đời liên minh các đảng phái, mở những cuộc tấn công đại quy mô ở Tà Lùng, Yên Bái, Lạng Sơn... cho đến năm 1916 tháng 5 dương lịch, sự thất bại đau đớn của Trần Cao Vân, Thái Phiên đã phủ thêm một màu tang trên lịch trình tranh đấu của dân Việt.

Dân chúng chán nản, tiêu cực đâm ra hoài nghi tất cả những cuộc khởi nghĩa. Triều đình không đủ uy quyền để lãnh đạo các phong trào, da dĩ nền kinh tế thương mại trong nước dần dần bị ngoại bang lũng đoạn, cuộc kháng chiến không có kết quả khả quan, trạng thái sinh hoạt của dân Việt một ngày một khó khăn, phức tạp. Đã chán nản vì những vụ khủng bố liên tiếp, lại thêm nông nghiệp không được phát triển nhịp nhàng để ứng phó với nhu cầu, dân chúng khao khát nền hòa bình và do dó gián tiếp giúp cho việc cai trị của người Pháp ở xứ này được thành tựu.

Về phần người Pháp, thì qua những vụ chạm súng, họ đã hiểu rõ lực lượng và kỹ thuật tác chiến của quân đội Việt Nam rồi.

Họ không cần dùng võ lực nữa mà chỉ chú trọng về phương diện chính trị. Họ khôn khéo biết chiều theo xu hướng của các giai cấp, nhất là giai cấp quan liêu đang nắm quyền thống trị. Sĩ phu nước ta bắt đầu từ Lê Mạt đã trở nên đồi bại, mất hết sinh khí, nguyên do cũng tại cái chính sách thối nát của các vua chúa hồi bấy giờ.

Đời Tây Sơn, vua Quang Trung đã cải thiện đôi chút giới quan trường, nhưng đến khi Quang Toản nối ngôi thì lại tệ hơn trước.

Kịp đến khi Nguyễn Ánh thống nhất giang sơn trọng dụng bọn cựu thần nhà Lê, khôi phục cho họ cái địa vị cũ, khác nào như gây thêm sự đổ vỡ cho đất nước.

Nhưng có lẽ tệ hại nhất là bọn quan lại dưới triều vua Tự Đức. Chính bọn chúng đã làm cho Tổ quốc bị trói buộc trong vòng nô lệ, vì bạc nhược, đê hèn cũng có nhưng đúng hơn hết là vì họ đã quá ích kỷ, chỉ nghĩ đến địa vị và tiền tài. Vua Tự Đức cũng thấy rõ cái tai hại lớn lao do bọn quan trường gây ra, nhưng cũng không tìm cách nào để cải tạo được.

Người Pháp khi đặt chân đến xứ này, đã bắt đầu mơn trớn bọn quan lại, dùng danh lợi để ràng buộc họ và hết sức mềm dẻo trong cách thâu dùng bọn trí thức để làm hậu thuẫn cho chính sách thực dân. Cách đây 30 năm, một người Pháp đã viết câu này trong một cuốn sách tả tập quán, phong tục của người Việt Nam: “Trong bụng mỗi người Việt Nam đều có một ông quan”. Thật đã đã hiểu rõ tâm lý, xu hướng của mình. Vì thế mà những tổ chức cách mạng dù kín đáo đến đâu cũng bị vỡ lở, các cơ cấu hành chính từ thôn xã đến tỉnh đều có tay sai của Pháp lọt vào. Đối với những nhà trí thức có óc cách mạng, người Pháp đưa ra những phần tử đối lập như: Phan Văn Trị với Tôn Thọ Tường, Nguyễn Thân với Phan Đình Phùng, Lê Hoan, Hoàng Cao Khải với Đề Thám. Chính sách “dĩ Việt trị Việt” quả đã có một hiệu quả lớn lao ở mảnh đất thuộc địa này.

Cho nên, những sự thất bại bất ngờ và sâu cay của đảng phái ái quốc không phải là một sự trạng lạ lùng khó hiểu. Một phần vì thái độ hoài nghi của dân chúng, một phần vì bọn tay sai của Pháp, hai yếu tố này đã gián tiếp hay trực tiếp cấu thành nền Bảo Hộ của Pháp đã kéo dài non một thế kỷ.

Cuộc cách mạng của Trịnh Văn Cấn đột khởi trong một trường hợp bất ngờ, không được chuẩn bị chu đáo, và do đó, không được ăn sâu vào quần chúng. Sự tuyên truyền rời rạc, quân đội ô hợp, các lãnh tụ không có tư tưởng thống nhất không biết tùy theo biến chuyển của thời gian mà xử sự. Cái mầm mống thất bại đã bắt rễ ngay từ khi nền tảng cách mạng mới được xây đắp. Nhưng dù sao trong quá trình tranh đấu của dân tộc Việt Nam, Đội Cấn đã ghi được một thành tích đáng kể và sau này khi ta giở lại trang sử cũ cũng không thể không cảm thông với nhà chiến sĩ đáng kính đó đã biết dùng giọt máu để rửa hận cho non sông.