NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA ĐỘI CẤN -
Về núi Phao, Đội Cấn chỉ còn có mười hai thuộc hạ trung thành, trong số đó có Đội Giá và Trần Lập Thành. Lúc đầu, họ phải ẩn náu trong rừng để tránh khỏi những con mắt dò xét của thám tử. Nhưng dần dần, nhờ ở tài tuyên truyền của Lập Thành, bọn Đội Cấn đã thu thập được vài trăm tân binh.
Ngoài ra lại có một ít làng chịu tiếp tế lương thực cho nghĩa quân, và sẵn sàng nổi lên đánh quân Pháp, nếu Đội Cấn khởi sự.
Rút kinh nghiệtn ở những trận đánh nhau vừa qua, Thành thay đổi phương pháp chiến đấu. Thành tổ chức từng toán quân nhỏ hai chục người với năm tay súng còn thì toàn dao găm và thiết lĩnh. Đứng đầu mỗi toán là một viên cai. Ba toán họp lại thành một đội dưới quyền điều khiển của một viên đội hay quản. Tất cả đều theo mệnh lệnh của Cấn vừa được suy tôn làm Tổng tư lệnh. Còn Thành tự xưng là Tham mưu Trưởng, và Đội Giá trông nom riêng một cơ binh chuyên về việc vỡ đất làm nương. Muốn có sẵn tiền, Thành cho đi tìm một bọn thợ vẽ khéo làm giấy bạc giả loại một đồng, và năm đồng mang về Hà Nội tiêu thụ. Ngoài ra Thành lại liên lạc với dân. Ngải ở Đông Triều để đổi chác thực phẩm. Công việc này Thành giao cho cô Hai Trà một nhân viên rất đắc lực của đảng. Cô Trà quê ở Dương Mông (thuộc huyện Tiên Du) vốn là con gái một viên Chánh tổng. Lúc Đội Cấn hoạt động ở Thái Nguyên, thì cô Trà đang buôn vải ở vùng Đình Bảng, Chợ Giầu. Ngày nào cũng vậy, mới tờ mờ sáng cô đã theo bạn hàng đi chợ bán vải, vai đeo một cái tay nải màu nâu non. Tuy là gái quê, cô Trà cũng võ vẽ chữ quốc ngữ, tính toán thông thạo lại thêm khuôn mặt xinh tươi, ăn nói dịu dàng nên ai cũng yêu mến. Trong vùng, nhiều thanh niên biết tiếng cô đem trầu cau đến hỏi, nhưng cô đều từ chối ngay đến cả những con nhà quyền quý cũng rắp gianh bắn sẻ, nào cậu cả con quan huyện, thầy thông, thầy ký... Đối với ai cô chỉ giả nhời một câu bất di bất dịch:
- Em còn ít tuổi chưa biết nghĩ đến gia đình.
Nhiều lúc cụ chánh thân sinh ra cô, đã phải tức minh gắt:
- Mày không lấy chồng liệu ở nhà với bố mẹ mãi được không?
Cô khóc đáp:
- Chồng con là cái nợ nần, con chỉ muốn ở nhà hầu hạ thầy u.
Cụ quắc mắt nói:
- Tao không cần mày phải hầu tao. Bước đi cho rảnh mắt.
- Ở đời kiếm được một người chồng vừa ý mình thật là khó. Cho nên con đành chịu ở vậy.
Cụ bà chiều con cố khuyên cụ ông:
- Thôi để tôi dỗ nó vậy.
Cụ càng tức:
- Thầy thông, thầy ký mà nó cũng chê thì không biết nó lấy người như thế nào?
Cô đáp lại:
- Những hạng người ấy chỉ là bọ cơm lấy làm gì cho khổ.
- Ái chà! Nó muốn lấy chồng quan chắc! Thôi con ơi! Bồ dục chẳng đến bàn thứ tám đâu con ạ.
Cô thản nhiên nói:
- Những hạng ấy, con càng không thèm nốt.
Cụ ông mỉa mai tiếp:
- Hay lấy vua vậy.
- Vua ở thời buổi này thì còn kém xa người dân.
- Thế này muốn lấy người như thế nào?
- Chồng con phải là người biết yêu nước.
Cụ ông ngạc nhiên hỏi cụ bà:
- Yêu nước là gì? Bà có yêu nước không?
Cụ bà lắc đầu:
- Nước thì thiếu gì mà yêu với ghét?
Cụ ông vớ lấy cái roi, toan đánh con gái, thì cụ bà gạt đi.
- Nó điên đấy, đánh nó làm gì cho đau tay.
Cô lại tiếp:
- Yêu nước, tức là biết thương xót giống nòi biết nhớ đến sự nghiệp của tiền nhân đã phí bao công mới kiến tạo được giang sơn đất nước. Người chồng của con phải là người có tinh thần bất khuất, có tư tưởng tự chủ, không chịu sống cuộc đời nô lệ không chịu để thân mình mai một trong chuỗi ngày tầm thường.
Cụ Chánh có lẽ cũng không hiểu cô nói gì, nên chỉ chép miệng phán:
- Mặc xác mày! Chỉ sợ sau này lại ễnh bụng như con nào, rồi mới biết thân.
Vì tính ngang ngạnh của cô, mà cuộc nhân duyên mấy lần sắp thành tựu, rồi lại hỏng. Cụ Chánh mắng mãi rút cục phải thôi, mặc cô ngày ngày đeo cái đẫy vải đi chợ.
Kịp đến khi Đội Cấn về hoạt động ở núi Phao (Phả Lại) cho Thành đi dụ người nhập đảng thì một buổi sớm kia, Thành đã may mắn gặp cô Hai Trà ở trong một cái quán nước, gần rừng Báng (thuộc huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh).
Trước còn chuyện buôn bán, sau đến chuyện thời cuộc rồi lân la đến chuyện khởi nghĩa Thái Nguyên. Giữa hai người, một sự thân mật kín đáo bỗng chớm nở và sau cuộc gặp gỡ đó, hai người hình như đã cảm thông với nhau và bắt đầu quyến luyến nhau. Buổi chiều hôm ấy, cô Hai Trà về nhà nét mặt tươi tỉnh, suốt đêm cô thấp đèn trong buồng khâu vá dọn dẹp cẩn thận. Sáng hôm sau, cô lại đeo cái đẫy đi chợ nhưng trong đẫy không xếp vải mà toàn quần áo cũ. Và cũng bắt đầu từ hôm ấy, cô đi biệt tích. Cả nhà xô nhau đi tìm luôn trong mấy hôm nhưng nào có thấy bóng dáng con người bí mật ấy? Nửa tháng sau, cụ Chánh được tin cô gia nhập đảng Đội Cấn ở núi Phao, thì tê tái cả cõi lòng nhưng không khỏi khâm phục tư tưởng cao cả của cô gái yêu đã biết chọn con đường chính nghĩa để theo trong khi hàng vạn các thiếu nữ khác đang chìm đắm vào trong vòng thị dục tầm thường.
Cách núi Phao chừng năm cây số, một thị trấn nho nhỏ được thiết lập trên sông Lục Đầu, dưới một rặng cây um tùm, mát mẻ. Từ thị trấn này, ta có thể về Đông Triều do một con đường lớn mới đắp xong, hay cứ thẳng bờ đê, thì về Bắc Ninh, sau khi đã vượt qua một khu rừng rậm. Giữa thị trấn, một đồn lính tập xây trên một trái đồn cao, bao quát cả một vùng hoang vu. Đứng trên đồn, ta có thể một mặt trông sang huyện Yên Dũng, một mặt trông về núi Phao, vì thế mà đồn binh này đã trở nên một vị trí quan trọng, có thể liên lạc với Bắc Ninh và Đông Triều do hai đường thủy bộ đều tiện lợi. Quân đội đóng ở đồn này gồm một trăm hai chục lính Lê Dương, hai trăm lính tập, võ trang đầy đủ. Ngoài ra lại thêm mấy khẩu súng liên thanh, và một cỗ đại bác 75 ly. Sĩ quan gồm có bốn thiếu úy, dưới quyền điều khiển của Đại úy Monille.
Chung quanh trại lính, nhà cửa làm rất nhiều, dân cư ở đông đúc, chợ búa sầm uất, xe ngựa đi lại rầm rập suốt ngày. Thôi thì đủ các trò giải trí, nào sòng bạc, nhà hát cô đầu, rạp tuồng. Các chú lính tập, đầu kỳ lương sẵn tiền tha hồ say sưa chè chén, rồi kéo nhau đến sòng bạc đánh đố chữ, có khi gây lộn đánh nhau ầm ĩ.
Ít lâu nay, trước cửa trại lại mới thêm một tiệm cao lâu, mà chủ nhân là một cô con gái chừng hai chục cái mùa xuân xanh đã đẹp lại ăn nói dịu dàng nên các chú say như phải bùa, đi lại ăn uống luôn luôn. Đối với khách ăn, nhất là các thầy quyên chủ nhân hết sức chiều chuộng, lúc trò chuyện bông đùa, khi nỉ non tâm sự, khiến cho anh nào cũng tưởng là mình đã chiếm được trái tìm của cô gái đáng yêu.
Thời gian trôi qua, hy vọng của các chú càng ngày càng mạnh, nhưng hình như chủ nhân tiệm cao lâu này vẫn chưa nhất định một ai, mà chỉ hời hợt đùa bỡn bên ngoài. Nhiều chú nóng ruột hỏi một cách trắng trợn:
- Thế nào, bằng lòng lấy tôi chứ?
Cô ả nũng nịu đáp:
- Thì lấy chứ sao!
- Còn đợi đến bao giờ mới cho cưới?
Cô ả nhoẻn miệng cười, ví von ngay:
- Đợi anh bàn với mẹ già,
Mua cau mua rượu lại nhà khắc xong.
Yêu nhau nên vợ nên chồng,
Quản chi kẻ Bắc người Đông mà ngờ.
Các chú cũng không hiểu tình ý ra sao, chỉ bàn mảnh với nhau, rồi lại thôi. Nhưng một ngày kia, người ta đã khám phá ra cái bí mật của cô ả. Theo sự điều tra của vài người thì cô này đã thực tâm gắn bó với Đội Châu, một gã trẻ tuổi đẹp trai vẫn được tiếng là đứng đắn nhất. Trong thời gian các chú lính đi lại tiệm cao lâu, Đội Châu đã cảnh cáo các bạn đồng ngũ:
- Các chú coi chừng, khéo bị mắc mưu đấy.
Một người hỏi:
- Mắc mưu gì?
- Các chú không biết là ở vùng này Đội Cấn đang hoạt động ráo riết ư? Biết đâu nó chẳng dùng mỹ nhân kế để rồi cho ta một liều thuốc độc.
Mọi người cười ồ lên nhao nhao nói:
- Thuốc độc cũng chẳng chết đâu mà sợ miễn là...
Đội Châu nghiêm nghị đáp:
- Sắc đẹp của người đàn bà có thể làm mất nước như chơi chứ cái đồn nhỏ xíu này thì thấm vào đâu. Các chú cứ tự do bỡn cợt với ái tình nhưng chớ để ái tinh xen vào quân sự.
Một người hỏi:
- Xen vào quân sự thì sao?
- Thì súng sẽ không nổ, hay có nổ thì chỉ lên trời.
Họ lại cười ồ lên pha trò:
- Nhưng thế đỡ chết người.
Thế rồi, họ lại tản mát đi chơi, rồi dừng bước lại tiệm cao lâu mà bông đùa, chè chén.
Cứ như thế, cho tới một ngày kia, bí mật đã bị khám phá. Đội Châu yêu cô ả, và hẹn hò ngày cưới.
Vậy cô gái đó là ai?
Không nói chắc độc giả cũng có thể đoán là cô Hai Trà một tay sai lợi hại của Đội Cấn. Nguyên Trần Lập Thành muốn đánh chiếm đồn Phao nhưng chưa biết rõ lực lượng của Pháp ra sao nên dùng cô Hai Trà làm kế mỹ nhân cốt sao lấy được hết tài liệu quân sự của địch.
Đội Châu đã mắc mưu và nguyện làm nội ứng cho nghĩa quân nếu Đội Cấn tấn công đồn Phao.
Buổi chiều hôm ấy cô Hai Trà đang ngồi đợi tin tức Đội Châu thì Thành ăn mặc như một chàng nho sĩ lững thững đi vào tiệm.
Khách ăn lác đác có dăm ba người ngồi đánh chén trên hai chiếc phản gỗ. Thành giả vờ gọi một ly rượu và đĩa lạc rang ngồi ở chiếc bàn con chiếu thẳng vào trại vừa uống rượu vừa ngắm địa thế. Lúc ấy có ba chú bếp mắt đỏ gay đầu ngả nghiêng chuyện trò như pháo ran. Một chú bếp gọi cô Hai Trà hỏi:
- Tên cô là gì nhỉ?
Cô Trà tủm tỉm cười hỏi lại:
- Ông cho em biết tên trước đã, rồi em sẽ nói tên em sau.
Một chú phưỡn ngực đáp:
- Tôi là Bếp Lực.
Một chú khác cũng nói:
- Tôi là Bếp Long.
Chú thứ ba nhanh nhẩu.
- Tôi Bếp Hồng.
Cô Hai Trà cười nghặt nghẽo một lúc rồi đáp:
- Tên em là Nồi:
Một chú tiếp:
- Người thì đẹp sao tên lại xấu xí thế? Sao không đặt là Nhài, Huệ hay Cúc có hơn không?
- Em thích cái tên ấy lắm.
Lúc ấy ở bàn bên kia, có một ông khách nói vọng sang:
- Cô ấy sỏ các thầy đấy.
Một chú dừng đũa hỏi:
- Sỏ thế nào?
- Các ông là Bếp, mà cô ấy là Nồi, thì rõ ràng là Nồi đặt lên đầu ba ông Bếp còn gì nữa?
- À con này láo thực.
Thế rồi ba chú hầm hầm đứng dậy, chạy đến nắm chặt lấy cô Hai Trà toan hành hung.
Thành trông thấy vội đến can:
- Đó là câu nói đùa, các thầy chớ nóng.
Một chú quắc mắt tát luôn cho Thành một cái.
- Mày là nhân tình của nó phỏng? Ai cho phép mày bênh vực nó?
- Tôi là khách ăn, thấy các ông quá chén thì phân giải qua loa, nghe hay không là tùy các ông.
- A mày bảo chúng ông say. Được coi đây. Cả ba người đó xô vào đánh Thành. Cô Hai Trà sợ quá kêu cứu ầm lên. Nhưng Thành đã thản nhiên đánh lại, chỉ có mấy phút mà ba chú bị đá ngã kêu hồng hộc như bò rống. Chợt có một đám lính tuần ở đâu đến bắt cả ba chú Bếp và Thành giải về trại.
Tám giờ tối, bỗng thấy Đội Châu đi vào, bấm cô Hai Trà ra đằng sau, sẽ nói:
- Nguy lắm!
Cô hai tái mặt hỏi:
- Sao nguy?
- Họ khám trong người Thành bắt được bản đồ đồn Phao. Hiện Thành bị giam trong xà lim rồi.
- Đã bị đánh chưa?
- Có nhưng mới qua loa thôi.
Cô Hai Trà mím chặt môi ngẫm nghĩ một lát rồi tiếp:
- Như vậy, phải khởi sự mới được. Tôi sẽ mật báo cho Đội Cấn biết, mang quân tiến đánh úp đồn. Độ mười hai giờ đêm, nếu anh nghe thấy tiếng súng thì mở cửa đồn cho nghĩa quân vào.
Đội Châu gật đầu:
- Hôm nay phiên tôi canh gác, may ra có thể thành công.
Đội Châu dặn dò cẩn thận rồi quay về. Cô Hai lập tức cho người đi tìm Đội Cấn báo cáo tình hình.
Đội Giá hưởng ứng.
- Đánh ngay cứu được Thành. Nếu chiếm được đồn thì càng hay.
Đội Cấn bất đắc dĩ phải nghe lời triệu tập nghĩa quân được hơn ba trăm người gồm một trăm tay súng chia ba đường tiến về đồn Phao.
Bấy giờ đã một giờ khuya. Đội Châu với năm tên lính canh gác cổng trại đợi mãi chưa thấy nổ súng hiệu ngỡ là có sự gì. Đến một giờ rưỡi bỗng thấy một tiếng súng nổ vang trời. Đội Châu cả mừng quay lại chĩa súng vào năm tên lính:
- Quân Đội Cấn đã vây trại các anh có bằng lòng theo tôi không?
Năm người bằng lòng. Đội Châu bắn một phát súng chỉ thiên, mở toang cổng trại để cho nghĩa quân ồ vào, đoạn vào xà lim thả Thành ra.
Vì đã biết rõ đường lối trong trại nên Thành và Đội Châu chiếm rất dễ kho đạn. Bị đánh bất ngờ, quân Lê Dương không kịp lấy súng, chạy tản mát cả. Nghĩa quân dùng toàn dao nhọn đâm chém loạn xạ. Một số lính tập giơ tay hàng, còn thì bị thương rất nhiều. Đến ba giờ sáng thì đồn hoàn toàn bị chiếm đóng, dân chúng không mấy người biết chuyện.
Đến sáng Đội Cấn cho nghĩa quân khuân hết đạn dược súng ống, rút vào rừng, đoạn phóng hỏa đốt trại.
Quả trưa một một toán lính tiếp viện từ Đông Triều lên tới nơi thì chỉ thấy đống tro đang cháy dở không còn một mái nhà nào sót lại.
Ở Hà Nội Trung tướng Lombard được tin vội phái Đại tá Moillard đem quân lên truy nã nghĩa quân ở núi Phao, đồng thời ra lệnh cho tiểu đoàn Lê Dương Đáp Cầu và Bắc Ninh phải cấp tốc về ứng chiến. Tất cả gồm hơn ba ngàn quân võ trang bằng súng trường và súng liên thanh, tiến đánh ba mặt vào núi Phao rất là mạnh mẽ.
Đội Giá bàn rằng:
- Địch lấy số đông uy hiếp ta, nếu ta ra mặt đánh tất bị thua, hay rút lui về Đông Triều.
Thành đáp:
- Mặt Đông Triều tất có quân Pháp án ngữ ta cầm cự ít lâu, rồi cho quân vượt sông qua huyện Yên Dũng rồi luồn rừng sang Tầu.
Suốt đêm hôm ấy, đại bác rót vào rừng không lúc nào ngớt. Đương độ mùa hanh, lá vàng rụng rất nhiều bắt lửa cháy đỏ rực. Những khu nhà của nghĩa quân cũng bị cháy. Tờ mờ sáng quân Pháp tiến vào. Đội Cấn cho lệnh ứng chiến. Đạn nổ rền khói bay khét lẹt. Bị đánh ba mặt, nghĩa quân chết rất nhiều. Đội Giá trúng đạn ngã chết gục trên khẩu súng. Đội Châu chỉ huy một toán quân lăn xả vào dùng dao đâm chết được mấy lính Lê Dương, rồi cũng bị bắn chết. Đội Cấn bị thương ở cánh tay, nhờ được Thành và cô Hai Trà cố dìu đi chạy thoát khỏi vòng vây về phía Chí Linh.