Phần V Chuyến bay hôn phối-I
Bây giờ chúng ta sẽ xem cách thức thực hiện việc thụ tinh của con ong chúa. Chúng ta lại được thấy ở đây những biện pháp lạ thường được thiên nhiên sử dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc hôn phối của những con đực và những con cái bay ra khỏi các tổ ong khác nhau. Dường như không có cái gì thôi thúc thiên nhiên phải ấn định trước một biện pháp kì lạ cho việc thực hiện cuộc hôn phối, mà chúng ta sẽ được thấy chi tiết ở dưới đây. Có vẻ như đây là kết quả của sự thất thường hay sai lầm thoạt kì thủy của thiên nhiên; để sửa chữa nó thiên nhiên dùng đến mọi sức mạnh huyền diệu nhất của mình.
Nếu như để kiện toàn sự sống, giảm thiểu đau khổ, làm cái chết trở nên nhẹ nhàng hơn và loại bỏ những sự ngẫu nhiên nguy hại, thiên nhiên chỉ dùng một nửa cái quyền năng, mà nó thể hiện trong các hiện tượng thụ tinh chéo và trong một số sự thất thường khác của nó thôi, thì có lẽ, vũ trụ đã ít bí ẩn hơn, bớt mịt mờ hơn và đỡ nhẫn tâm hơn. Song vấn đề không phải ở chuyện giá như, mà ở việc nhận thức của chúng ta phải hiểu rõ cái đang hiện hữu là gì, và đối với chúng ta mối quan tâm tới tất cả những gì đang tồn tại là ở việc nhận thức đó.
Xung quanh con ong chúa trinh nguyên đang xao động hàng trăm con ong đực sống trong cùng một tổ với nó. Chúng ngày ngày say sưa mật ngọt, và cuộc sống của chúng có một ý nghĩa duy nhất là được một lần làm tình trong đời. Nhưng bất chấp sự đụng chạm thường xuyên với nhau giữa những con khác giới cùng giống loài, tức là cái hoàn cảnh, mà ở bất cứ đâu có nó thì mọi sự cản trở đều bị vứt bỏ để thỏa mãn dục tình, trong tổ ong không bao giờ có hành động giao phối, và mọi mưu toan với việc thụ tinh ngoài ý muốn của con ong chúa đều không có kết quả. Những con đực vây quanh ong chúa ở trong tổ không để ý đến giới tính của nó cho đến khi nó chung sống với chúng. Chúng đâu ngờ được rằng, chúng vừa mới rời bỏ một con cái, chúng đã ngủ với nó trên cùng một tầng tổ, có thể, đã tiếp xúc với nó khi cố bay ra khỏi tổ, các con đực bay đi tìm nó trong khung trời biếc xanh, ở những nơi quạnh hiu nhất của bầu trời. Có thể nghĩ rằng, cặp mắt đầy kinh ngạc của các con đực, trông như cái mũ trụ sáng choang, phủ gần hết cái đầu của chúng, nhận ra con cái và bừng cháy lên ngọn lửa tình với nó chỉ khi nó bay lượn giữa trời xanh. Ngày nào trong khoảng từ mười một giờ đến ba giờ, tức là lúc ánh sáng rực rỡ nhất, đặc biệt là vào thời điểm khi buổi ban trưa đang vỗ đôi cánh thiên thanh của mình lên tới tận thiên đỉnh và cái nắng nóng càng thêm thiêu đốt - cả một đoàn ong đực ăn diện túa ra khỏi tổ đi tìm vợ. Cô vợ này uy phong hơn và khó với tới hơn những nàng công chúa kiêu kì nhất trong các truyền thuyết, bởi khi nó xuất hiện, những anh chàng ái mộ, từ hai mươi-ba mươi trại ong hàng xóm, đang nháo nhào xúm lại gần nó, tạo thành một đám rước có tới hơn mười ngàn bạn tình.
Nhưng trong số mười ngàn ứng viên có cao vọng này chỉ có một con được ong chúa lựa chọn, nhưng với một cái giá mới đắt làm sao! Một cái hôn duy nhất, thoáng qua kết duyên cho kẻ được chọn, đồng thời đi kèm với niềm hạnh phúc và với cái chết…Dẫu có thế nào những con đực còn lại vẫn cứ uổng công lượn lờ quanh cặp tình nhân đang ôm lấy nhau và chúng chẳng bao lâu sau sẽ chết, mà không được nhìn thấy ảo ảnh trang trọng nhưng đồng thời cũng thật bất hạnh.
IITôi không quá ngoa ngôn về sự phung phí lạ lùng và phi lí của tự nhiên. Trong những tổ ong tốt nhất thường có bốn đến năm trăm con ong đực. Trong những tổ yếu kém hơn hay đang suy đốn có khoảng từ bốn đến năm ngàn con, bởi một tổ ong càng gần đến lúc tan rã, càng sinh ra nhiều con đực hơn. Có thể nói rằng, từ một trại ong có mười tổ vào thời điểm được miêu tả ở trên, trung bình có tới mười ngàn con đực bay ra, trong số đó chỉ có mười, nhiều nhất là mười lăm con có một lần duy nhất được làm tình - cái hành động mà vì thế chúng được sinh ra trên đời. Đồng thời những con đực tiêu hao một cách khủng khiếp lượng thức ăn dự trữ của tổ, bởi mỗi một con trong số những kẻ ăn bám này chỉ biết làm việc bằng đôi hàm thôi; nó đòi hỏi sự lao động không biết mệt mỏi của ít nhất là năm hay sáu con ong thợ để duy trì sự tồn tại vô công rồi nghề và tai hại của mình. Nhưng tự nhiên luôn xa xỉ trong những gì liên quan đến các chức năng và đặc quyền của tình yêu. Nó chỉ hà tiện về dụng cụ và công cụ lao động thôi. Nó đối xử cực kì nghiệt ngã với cái được con người gọi là đức hạnh, và trái lại, hoang phí thừa mứa các tặng vật và lòng khoan dung của mình cho những gã tình nhân, có thể nói, là đáng ghét nhất. Ở đâu nó cũng chỉ quả quyết một điều: “Hãy kết giao đi, sinh sôi nảy nở nhiều lên, chẳng có một luật lệ nào khác, chẳng có một mục đích nào khác trong cuộc đời này, ngoài tình yêu đâu”, nhưng liền đấy lại thầm nói thêm: “Còn chuyện gì sau này sẽ đến, các ngươi hãy tự mình thấy, điều ấy đâu có mắc mớ gì đến ta”. Cứ tìm đi, cứ mong muốn một điều khác đi, nhưng trong tự nhiên bạn chỉ tìm thấy thứ luân lí khác biệt biết bao với luân lí của chúng ta. Một mặt, bạn hãy để ý đến sự hà tiện và bất công; mặt khác, là sự xa xỉ khủng khiếp, mà tự nhiên bộc lộ ra trong cái thế giới nhỏ bé đang được chúng ta xem xét đến.
Từ ngày ra đời cho đến tận lúc chết đi cô ong đức hạnh cần lao phải bay rõ xa, đến những cánh rừng rậm rạp nhất, để tìm kiếm những bông hoa ẩn mình ở đó. Nó phải tìm cho được thứ mật ngọt và phấn thơm được giấu kín giữa những mê cung mật hoa và trong các lối đi ngang dọc của bao phấn. Ấy thế mà các cơ quan thị giác và khứu giác của nó nếu so với các cơ quan tương ứng của ong đực sẽ giống như so cặp mắt của người bệnh với cặp mắt của người khỏe mạnh. Dù những con ong đực gần như hoàn toàn mù và mất hẳn khứu giác, chúng chẳng vì thế mà mất gì và thậm chí hãn hữu lắm chúng mới nhận ra được những khiếm khuyết này. Chúng chả có gì để làm, kiếm mồi ăn cũng không. Nó được bưng đến cho một bữa ăn thịnh soạn, và sự tồn tại của chúng giữa bóng tối của tổ trôi đi trong việc chén cho đẫy bụng mật từ các tầng tổ. Nhưng đây là những phái viên của tình yêu, và vì thế những món quà phong phú và vô ích nhất được cánh tay hào phóng của tự nhiên ném cho hố sâu vô tận của tương lai. Một trong số một ngàn con đực chỉ một lần trong đời được chạm tới những tầm cao xanh thắm với nàng trinh nữ uy phong. Một trong số một ngàn con được cận kề trong chớp mắt với một con cái không tránh né sự âu yếm của nó. Và thế là đủ, để cái sức mạnh thiên vị của tự nhiên vung vãi thừa thãi cho những con ong đực các món quà xa xỉ chưa từng thấy của mình. Mỗi một con trong đám tình nhân có vấn đề ấy - chín trăm chín mươi chín con sẽ bị giết chết sau lễ kết hôn định mệnh của con thứ một nghìn có vài ngày, thiên nhiên ban cho một con đực ba mươi nghìn con mắt ở hai bên đầu của nó, trong khi đó con cái chỉ có sáu nghìn. Thiên nhiên cung cấp thêm cho nó những chiếc râu, mà theo tính toán của Cheshire, chúng có tới ba mươi bảy nghìn tám trăm khoang khứu giác, trong khi đó ở con ong cái số khoang như thế có không quá năm nghìn. Đó là ví dụ cho sự bất cân xứng có thể nhận thấy hầu như ở khắp mọi nơi - với sự bất cân xứng này thiên nhiên ban phát những món quà của mình cho những kẻ truyền tải tình yêu và những đại diện cần lao.
Thiên nhiên phóng tay vung vãi những tặng vật với kẻ được nó dành cho cái khoái lạc phát đi xung động của sự sống, và đối xử hết sức lạnh nhạt với những người nhẫn nhịn trả giá bằng sự lao động nhọc nhằn cho sự tồn tại của mình. Nếu như có một ai, dựa vào những phẩm chất được chỉ ra ở đây, nghĩ đến việc vẽ một bức chân dung đích thực của tự nhiên, thì anh ta sẽ nhận được một cái gì đó thật khác thường, chẳng có điểm gì chung với lí tưởng của chúng ta, nhưng nó cũng xuất phát từ chính nguồn gốc đó. Song con người không thấy được quá nhiều điều, để bắt tay vào việc thể hiện bức chân dung của tự nhiên. Anh ta đành phải phác qua vỏn vẹn được đôi-ba nét ngập ngừng trên một cái nền đen khổng lồ.
IIITôi nghĩ là có rất ít người tìm hiểu sâu về sự bí ẩn trong cuộc hôn phối của con ong chúa được thực hiện trong không gian của bầu trời sáng chói lòa. Dõi theo chuyến bay ngập ngừng ra khỏi tổ của cô dâu ong - đó là một việc dễ dàng hơn rất nhiều - và khi bay trở về nó đã trở thành một tân nương bỏ lại sau mình cái xác của người tình.
Bất chấp sự nôn nóng đang chiếm toàn bộ tâm trí nó, con ong cái vẫn tự mình chọn ngày và giờ cho chuyến bay, chờ đợi bên cửa tổ cái khoảnh khắc, khi buổi sớm mai kì diệu đang tan hòa vào không gian của cuộc hôn phối từ bầu trời xanh thăm thẳm. Nó thích bay ra khỏi tổ vào thời điểm, khi giọt sương mai còn chưa từ biệt những chiếc lá và những bông hoa, khi hơi mát cuối cùng của buổi rạng đông dần tan đang tranh đấu với cái nóng bức của ban ngày đang đến, như cô trinh nữ không còn xiêm y chống cự lại với gã chiến binh thô lỗ, khi sự tĩnh lặng của một ngày đang tới còn chưa bị phá vỡ ở đây đó bởi những âm thanh đang tràn ngập bầu không khí của buổi sớm mai, còn hương vị của buổi ban trưa đang hòa với hương thơm ngào ngạt của những bông hoa vi-ô-lét. Khi đó nó xuất hiện trên ngưỡng cửa tổ giữa một đám đông bao gồm hoặc là bầy ong thợ dửng dưng, đang bận tâm làm công việc của mình, hoặc là những con đang tràn ngập một nỗi lo sợ cho nữ hoàng của mình. Thái độ như thế của đám ong thợ phụ thuộc vào việc, có còn ở trong tổ những người chị em của nữ hoàng - những cô nàng mạnh mẽ, để trong trường hợp cần thiết có thể thay thế được cho nó, hay không. Nó bay ra khỏi tổ, ngoảnh đầu lại, hai hay ba lần quay trở lại cửa tổ và chỉ sau khi đã nhớ kĩ hình dáng bên ngoài và vị trí chính xác của vương quốc mà trước đó nó chưa một lần nào thấy rõ từ bên ngoài, nó lao vút lên như một mũi tên hướng đến đỉnh trời xanh. Khi nó lên tới tầng không vòi vọi xanh thắm, nơi mà những con ong khác không được biết đến trong suốt cả cuộc đời mình. Nhưng kìa ở đâu đó xa xa bầy ong đực không đậu trên những bông hoa, đã đánh hơi thấy mùi hương đặc biệt cuốn hút chúng đang tới gần và lan tỏa khắp tất cả các trại ong bên cạnh. Ngay lập tức những đám ong đực nhất loạt lao bổ vào vùng biển sáng rực rỡ, bờ biển ấy ngày càng lùi xa và xa hơn nữa. Còn con ong chúa, say mê bởi chuyến bay, ngoan ngoãn tuân theo cái quy luật kì diệu của giống loài - quy luật này không phụ thuộc vào ong chúa sẽ chọn cho nó một người tình và đòi hỏi để làm sao chỉ một con đực khỏe mạnh nhất chiếm được nó ở nơi tầng không thanh vắng - ong chúa cứ thế bay lên cao, cao mãi; bầu không khí trong xanh của buổi sớm mai ập vào đường thở của nó và rạo rực, như tinh huyết của trời cao, trong vô vàn đường mạch đang hòa nhập với hai cái bao nhỏ chiếm một nửa phần thân sau của nó. Ong chúa vẫn bay lên cao nữa. Nó cần lên tới miền thanh vắng, mà thậm chí những con chim cũng không bay lên tới đó, để có thể phá vỡ sự ẩn mật. Nó tiếp tục lao lên mỗi lúc một cao và cao hơn nữa. Đoàn hộ giá của nó thưa thớt, giảm bớt dần. Những con èo uột, yếu ớt, già nua, đói ăn bay ra từ những trại ong nghèo xác và suy tàn, bỏ cuộc và biến mất trong không trung. Giữa vùng biển trời nắng nóng như thiêu đốt chỉ có một nhóm nhỏ những kẻ can đảm vẫn kiên trì theo đuổi mục tiêu của mình. Ong chúa gắng sức một lần cuối bay tiếp trong cô đơn, nhưng kẻ được lựa chọn của một thế lực tối cao không thể hiểu nổi đã đuổi, bắt kịp nó và đường bay xoắn lượn của cặp ong vụt tăng tốc vút lên nhờ niềm hưng phấn trào dâng được nhân đôi chao đảo trong giây lát bởi cái xung động thù nghịch với sức quyến rũ mê hoặc của tình yêu.
IVPhần lớn các sinh vật sống đều mơ hồ cảm thấy còn có một cái gì đó hết sức không chắc chắn, một cái gì đó tựa như một lớp màng mong manh trong suốt ngăn cách miền chết với miền yêu và có một quy luật sâu xa của tự nhiên đòi hỏi cái chết của bất kể một sinh vật sống nào vào chính thời điểm nhờ nó một sự sống mới nảy sinh. Hoàn toàn có thể là, nỗi sợ truyền kiếp này đem đến một ý nghĩa quan trọng cho tình yêu. Nhưng trong trường hợp được mô tả đã hiện thực hóa với toàn bộ sự đơn giản nguyên thủy của mình chính cái hiện tượng định mệnh, mà hồi ức về nó vẫn còn lưu lại cho đến tận bây giờ ở nụ hôn của con người. Hành động giao hoan vừa mới kết thúc, cái bụng của con đực hé mở, khối chất sền sệt bên trong nó sẽ nằm lại trong con cái, còn bản thân nó với đôi cánh rũ xuống, cái bụng trống rỗng, như thể tan nát cõi lòng bởi lạc thú của hôn cuộc hôn phối, vụt rơi vào cõi miền vô tận. Chính cái ý niệm, mà vì nó cùng với sự trinh sản tương lai của tổ ong bị đem làm vật hi sinh cho sự sinh sản quá đáng các con đực, đã diễn ra trong chuyến bay hôn phối; chỉ có điều ở đây vì tương lai của tổ con đực bị đem ra làm vật hi sinh.
Hiện tượng này không ngừng khiến chúng ta kinh ngạc, và càng đi sâu vào tìm hiểu nó, thì nó càng trở nên ít xác đáng hơn. Như Darwin, người đã nghiên cứu nó với sự nhiệt thành vô cùng và có phương pháp, nhưng hầu như không hiểu nổi nó, lạc lối trên mỗi bước đi; những hiện tượng bất ngờ và chưa trở thành luận thuyết đã khiến ông rối trí. Nếu bạn muốn có mặt trong cảnh tượng cùng lúc vừa cao thượng vừa xúc phạm trong cuộc tranh đấu giữa sự thiên tài của con người với sự hùng mạnh vô cùng của tự nhiên, thì hãy dõi theo Darwin trong những ý đồ của ông nhằm phát hiện ra các quy luật lạ thường, bị bao phủ bởi sự bí ẩn không thấu tận nổi và chưa trở thành bất cứ một công thức nào - đó là các quy luật của mức sinh sản quá đáng và sự tuyệt sinh của các giống lai hay các quy luật của tính biến dị trong các dấu hiệu của giống, loài. Ông vừa kịp nhận định về một nguyên lí nào đó, thì vô số sự ngoại lệ đã bủa vây lấy ông, còn cái nguyên lí may mắn, nếu ông có kịp, thì nó đã chiếm chỗ trong một xó góc ở đâu đó, bảo vệ sự tồn tại của riêng mình dưới dạng thức “ngoại lệ”.
Trong các hiện tượng của sự lai giống, trong những sự lẩn tránh của một loài khỏi một hình thái nhất định, trong các biểu hiện của bản năng, trong cuộc đấu tranh vì sự sống còn, trong sự chọn lọc tự nhiên, trong tính nhất quán về mặt địa chất của những sinh vật sống, và sự phân bố về mặt địa lí và ái lực qua lại của chúng - khắp mọi nơi, đâu đâu ta cũng nhận thấy một điều sau đây: Trong cùng một trường hợp, vào cùng một thời gian, thiên nhiên luôn tai quái với nào là những vặt vãnh, nào là khinh thị, với tính hà tiện sóng đôi cùng thói hoang phí, tính lơ đễnh đi kèm sự thận trọng, sự bất thường đi liền tính kiên định, sự thống nhất không rời sự đa dạng đến vô cùng, thói nhỏ mọn ở bên đức cao cả. Khi trước thiên nhiên trải rộng một cánh đồng trinh nguyên bao la vô tận để tạo ra những sự vật giản đơn, thì nó lại lấp đầy cánh đồng bằng những sai lầm tầm thường, bằng những quy luật vô giá trị và mâu thuẫn, những vấn đề khó giải quyết - chúng lang thang giữa sự tồn tại, như những bầy đàn mù lòa. Tất nhiên, điều này là đúng chỉ khi xét theo quan điểm chủ quan của chúng ta, phản ánh hiện thực chỉ theo cách thức phỏng đoán, trong thực tế không có gì cho phép ta nghĩ, khi hành động bằng cách thức như thế, thiên nhiên không hề biết đến những dự định của mình và những hậu quả xa xôi của chúng. Bất luận thế nào, thiên nhiên cũng rất hiếm khi cho phép mình đi theo con đường sai lầm hay bước vào vùng hiểm nguy. Nó luôn luôn dự trữ hai sức mạnh, mà bằng việc có quyền sử dụng chúng, nó sẽ sửa chữa những sai lầm. Hai sức mạnh là sự sống và sự chết. Khi có một hiện tượng nào đó vượt quá những giới hạn nhất định, nó sẽ báo hiệu cho sự sống hoặc sự chết, và khi xuất hiện theo tiếng gọi của tự nhiên, chúng sẽ xác lập trật tự và khai thông con đường cho các hiện tượng mới với một sự dửng dưng vô cùng. Các hành động của thiên nhiên lảng tránh chúng ta theo đủ mọi hướng. Nó phủ nhận phần lớn các luật lệ của chúng ta, phá hủy các phạm vi của chúng ta. Một mặt, nó thấp kém hơn tư duy của chúng ta, mặt khác - nó cao lớn hơn, nó tựa như một hình khối khổng lồ nào đó. Chúng ta có cảm tưởng, có vẻ là nó sai lầm trên từng bước đi, như ở các giai đoạn đầu trọng sự phát triển của toàn bộ thực tại, cũng như trong những lĩnh vực sau cùng của sự sáng tạo, do đó tôi nhận thức được thế giới của con người. Ở đây nó trừng phạt những bản năng của đám đông tăm tối, sự bất công vô thức của quần chúng, những khuyết tật của lí trí và cái đức hạnh còn hoàn toàn chưa phải là đạo đức cao cả, chỉ đạo cho những ước mong bảo vệ giống loài. Thế nhưng đạo đức này, rõ ràng là thấp kém hơn thứ đạo đức mà tinh thần của con người có thể nắm bắt được và mong muốn; tinh thần này đang hợp nhất dòng nước trong sạch hơn của mình với dòng sông vẩn đục của thứ đạo đức như thế. Tuy nhiên, trí tuệ có lỗi hay không trong việc nó đưa ra cho mình một câu hỏi đại loại như thể; nó có cần tìm hay không mọi sự thật, và vậy là cả những sự thật về mặt đạo đức, mà nói đúng ra, chúng đang ở trong sự hỗn loạn, hơn là ở trong chính bản thân mình, nơi chúng hiện lên khá rõ nét và phân minh hơn?
Vấn đề ở đây không phải là về sự phủ nhận ý nghĩa và các phẩm chất trong lí tưởng của thứ lí trí được soi sáng bằng những hành động của các bậc hiền minh và anh hùng, mà về việc làm thế nào để giải đáp được câu hỏi: lí tưởng này, - nó được tạo ra quá đỗi độc lập với đại bộ phận những con người tỏ rõ sự tán đồng, dẫu rằng họ đã bị hòa tan trong các đám đông - có cần phải đại diện cho các phẩm chất của đại bộ phận ấy hay không? Con người cho đến nay vẫn có lí do để lo sợ, dường như mưu toan phối hợp đạo đức của mình với đạo đức của thiên nhiên đã không diệt trừ được cái mà anh ta có cảm tưởng là kiệt tác của chính thiên nhiên; nhưng giờ đây khi đã phần nào hiểu rõ thiên nhiên hơn và khi những câu trả lời của nó cho một số câu hỏi đã làm lộ ra, dẫu chưa được hoàn toàn sáng tỏ, sự toàn vẹn không ngờ đến thế đối với con người, cho con người thấy tính quy luật và trí tuệ, mà con người dám mơ tưởng đến, bởi tự tách biệt bản thân mình - con người bắt đầu đỡ lo sợ hơn; anh ta đã không còn cảm thấy nhu cầu bị sai khiến trước đây là phải trốn tránh thiên nhiên dưới cái bóng lí trí và đức hạnh của riêng mình. Con người lập luận thế này: tất thảy những gì là cao cả không thể nào lại đi dạy cho mình một điều gì bất chính, và anh ta nghĩ: đã đến hay chưa thời điểm để kiểm tra lại một cách có cơ sở các nguyên lí, các tín niệm, các mộng tưởng của riêng mình?
Tôi xin nhắc lại, vấn đề không phải ở chỗ, làm thế nào để gạt bỏ cái lí tưởng của con người. Trái lại, thậm chí trước tiên là khiến anh ta sao lãng với lí tưởng, để rồi dạy anh ta quay trở lại với nó. Thiên nhiên không thể nào lại đưa ra những lời khuyên tồi tệ cho một trí tuệ từ chối tiếp nhận bất cứ một chân lí nào vì cái chân lí tuyệt đối và xứng đáng của một dự định vĩ đại, được trí tuệ dành để thi hành, nếu chân lí ấy sẽ không, ít nhất, cao cả được như những mong ước chủ quan về chính đối tượng. Không có một cái gì có thể thay đổi được vị trí của mình trong đời sống của nó, ngoại trừ một cách là làm sao để tiếp bước xa hơn cùng với nó; và nó sẽ nói rõ lâu rằng, nó đang tiến lên phía trước, trong khi trên thực tế nó chỉ đang tiến lại gần với những khái niệm của của mình về hạnh phúc. Nhưng trong lĩnh vực tư duy mọi việc không thay đổi quá dễ dàng. Con người trong sự suy niệm thiên lệch của mình về các sự việc đang tự buông thả mình xuống, mà không bị trừng phạt, đến sự mê đắm ngang bằng với các phẩm hạnh của những sự đối nghịch khủng khiếp nhất và vô luân nhất trên thế gian, bởi con người nhìn thấy trước được rằng, qua cả một dải các vùng miền trũng thấp sẽ tới một ngọn núi anh ta chưa từng biết đến. Sự suy niệm này và sự mê đắm này không cản trở con người trong các cuộc tìm kiếm chân lí, thậm chí khi các cuộc tìm kiếm đó có đưa anh ta vào những lĩnh vực hoàn toàn đối lập với cái mà anh ta đã có thiện cảm - anh ta đã biết lấy những chân lí có nhân tính tuyệt vời nhất làm nền tảng cho tư cách của mình và biết giữ mình ở tầm mức cao nhất trong tình trạng tạm thời này. Tất thảy những gì làm tăng lên hạnh phúc và đức hạnh, đều trực tiếp đi vào đời sống của anh ta. Tất thảy những gì làm giảm bớt đi các phẩm chất này, nằm trong trạng thái trơ lì, giống như những hạt muối không chịu hòa tan, chỉ thay đổi các tính chất của mình trong những điều kiện đặc biệt.
Nói tóm lại, con người tách biệt trật tự thế giới tinh thần với trật tự thế giới trí tuệ và trong lĩnh vực thứ nhất anh ta cho phép có những sự thay đổi chỉ theo hướng cao cả hơn và tốt đẹp hơn. Nếu sự phân tách hai trật tự thế giới này có đáng bị chê trách, thì chỉ trong một trường hợp thường xuyên xảy ra trong cuộc sống là: khi vì nó người ta hành động tồi tệ hơn mức người ta có thể hành động theo những sự chỉ đạo của một tư tưởng, chứ không phải là ngược lại. Thấy được những hậu quả tệ hại với bản thân mình mà vẫn cứ hành động theo những sự chỉ đạo của đạo đức, đặt sự đánh giá về mặt đạo lí trong tư cách của mình cao hơn sự đánh giá về mặt luận lí - đây là công việc luôn mang tính trí tuệ và tốt lành, vì kinh nghiệm của con người buộc chúng ta từng ngày càng thêm tin tưởng hơn rằng, những tư tưởng thiên tài nhất sẽ còn rất lâu nữa ở tầm thấp hơn cái chân lí bí ẩn, mà chúng ta thèm khát. Vả lại, nếu như toàn bộ cái quan niệm trong quá khứ về thiên nhiên hóa ra là sai lầm, thì khi đó vẫn còn lại cho con người một lí lẽ giản đơn và tự nhiên là: đừng vứt bỏ đi lí tưởng có nhân tính. Con người càng gán thêm nhiều giá trị hơn cho những quy luật, mà chúng, rõ ràng, đang phơi bày trước anh ta tính ích kỉ, sự bất công và tàn bạo trong phẩm chất của những hình mẫu để noi theo, thì trước mắt anh ta càng hiện ra đậm nét hơn những quy luật khác chỉ ra sự cần thiết của lòng khoan dung, tính công minh và tinh thần đồng cảm. Và có điều này là bởi, vào thời điểm, khi con người bắt đầu tách biệt một cách chính xác hơn những phẩm chất vốn có của thiên nhiên với những phẩm chất vốn có của cá nhân anh ta, thì anh ta lập tức nhận thấy rằng, những phẩm chất sau [những phẩm chất của con người] cũng mang tính tự nhiên và cũng được vận dụng một cách sâu sắc như thế trong bản thân anh ta, như những phẩm chất thứ nhất [những phẩm chất của thiên nhiên].
VTuy nhiên chúng ta hãy quay trở lại với cuộc hôn phối bi kịch của con ong chúa. Trong ví dụ được chúng ta xem xét, tự nhiên đòi hỏi vì những lợi ích của việc thụ tinh chéo, để sự liên kết của con đực và con cái chỉ diễn ra ở ngoài trời. Nhưng những dự định của tự nhiên đan bện vào nhau giống như một mạng lưới, và những quy luật quan trọng nhất của nó không ngừng va chạm với các quy luật khác, về phần mình, sẽ thay đổi dưới ảnh hưởng của những quy luật thứ nhất.Vì để con ong chúa trong cuộc hành trình của nó giữa trời cao với vô vàn mối nguy hiểm, như những cơn gió lạnh giá, bão giông và những con mưa tuân theo các quy luật bất biến, những cơn choáng đầu có thể xảy ra, gặp phải những con chim và những con côn trùng thù địch - tự nhiên phải quan tâm để làm sao hành động giao hoan kéo dài nhanh hơn ở mức có thể. Và quả thật, hành động này ngắn ngủi một cách đáng sợ do cái chết trong chớp mắt của con đực. Một sự cản trở thôi là đủ, còn mọi việc còn lại sẽ được thực hiện ở bên trong con cái.
Từ vòm trời xanh cao xa ong chúa trở về với tổ của mình, kéo theo sau mình những phần ở bên trong ổ hụng của người tình, chúng bay phấp phới như một lá cờ. Có một số người nuôi ong khẳng định rằng, những con ong thợ rất vui mừng khi thấy ong chúa quay trở về từ cuộc hành trình với những bằng chứng cho niềm kỳ vọng vào tương lai. Buchner, cũng như một số nhà tự nhiên học khác, miêu tả cảnh tượng này còn chi tiết hơn, nhưng về phần tôi, thì khi đã nhiều lần quan sát cảnh tượng quay trở về của ong chúa từ chuyến hành trình hôn phối, tôi chưa từng nhận thấy bất cứ một cảm xúc nào khác thường trong các con ong thợ; có những trường hợp ngoại lệ, khi chuyến bay ấy là của một con ong chúa trẻ, đứng đầu một tổ, là niềm hi vọng duy nhất của ngôi nhà mới được dựng lên và còn chưa đông đúc. Khi đó cả đàn ong thực sự là hết sức phấn khích và bay vội ra đón ong chúa. Thông thường thì, bất chấp mối nguy hiểm rất nghiêm trọng cho tổ ong với việc bay đi của con ong chúa, những con ong thợ có vẻ như quên mất sự tồn tại của nó. Ở đàn ong mọi việc đã được lường tính trước một cách tuyệt vời trước thời điểm chúng cho phép giết con ong chúa kình địch, nhưng ở đây bản năng của chúng đã phản bội chúng; trong sự thận trọng của chúng dường như xuất hiện một thiếu sót nào đó. Bởi vậy, nói chung thì chúng có thái độ khá thờ ơ đối với sự hôn phối của con ong chúa. Chúng quay những cái đầu nhỏ về hướng con ong chúa trở về từ chuyến hành trình, có thể, chúng nhận đã thấy những dấu hiệu đáng giá cho cuộc đời của con ong đực, của việc thụ tinh đã được thực hiện, nhưng chưa đủ độ tin tưởng hoàn toàn, chúng không bộc lộ ra sự vui mừng, mà trí tưởng tượng của bạn chỉ chực nhận thấy đâu. Những dấu hiệu khả quan đấy nhưng không hấp dẫn, chúng, có lẽ, trước khi hoan hỉ, còn chờ những bằng chứng khác cho thấy sự thụ tinh đã được hoàn thành.
Hoàn toàn sai lầm khi lấy cái thước đo hợp lí của con người và đưa nó đến mức độ thái quá để đo những cảm xúc của các sinh vật nhỏ bé và khác biệt với chúng ta biết bao này. Khi nghiên cứu đời sống của loài ong và các sinh vật khác đem trong mình một tia lửa nhỏ của trí khôn của chúng ta, thì chúng ta rất hiếm khi đạt được những kết quả như trong các cuốn sách nói đến. Có quá nhiều hoàn cảnh, như trước đây, vẫn còn vô cùng bí ẩn với điều này. Mô tả những sinh vật này hoàn thiện hơn là chúng ở trong thực tế bằng cách nói về cái điều không có thực để làm gì? Nếu một nhà nghiên cứu đời sống của các sinh vật này cho rằng, chúng sẽ trở nên thú vị hơn do sự giống nhau rất nhiều với chúng ta, thì anh ta chỉ bằng điều này thôi đã chứng tỏ sự thiếu vắng ở anh ta một tinh thần nghiên cứu thực sự mang tính khoa học.
Mục đích cần thiết của một người nghiên cứu không phải là làm [cho người ta] kinh ngạc, mà là hiểu rõ được điều gì đang diễn ra trước mắt anh ta; xét theo quan điểm này thì mọi khiếm khuyết của trí tuệ, và đặc biệt là những quá trình tâm lí của chúng khác biệt với các quá trình diễn ra trong bản thân chúng ta và những hiện tượng sẽ không kém phần thú vị hơn việc phát hiện ra ở chúng cái yếu tố kì diệu đâu. Vả lại, không phải tất cả các con ong đều nhất loạt không tham dự vào việc thực hiện cuộc hôn phối của con ong chúa. Khi con ong chúa thở hổn hển, trở về đến ngưỡng cửa tổ, thì xung quanh nó hình thành một vài nhóm ong thợ hộ tống nữ chúa của mình dưới mái vòm thân thương, nơi mặt trời, người anh hùng của mọi nỗi niềm hân hoan của đàn ong, rọi những tia nắng rụt rè và tưới khắp ánh sáng cùng bóng tối cho những bức vách sáp của các tầng tổ được trang hoàng bằng những bức mành mật vàng óng của chúng. Vả lại chính vị tân nương cũng xúc động không hơn các thần dân của mình. Trong bộ óc nhỏ của con ong chúa tàn nhẫn và thực dụng boàn toàn không có chỗ cho những hoạt động đa dạng của tinh thần. Nó chỉ bận tâm một điều là, làm sao mau chóng thoát khỏi cái đồ xú-vơ-nia do anh chồng nó để lại - cái đồ của nợ của tội cản trở nó thoải mái đi lại trong tổ. Nó đậu xuống ngưỡng cửa tổ và cẩn thận rứt bỏ những bộ phận không cần thiết. Đồng thời những con ong thợ nhặt lấy chúng và ném ra xa khỏi tổ. Vấn đề là ở chỗ, anh chồng của ong chúa trao cho nó tất tật những gì nó có, và thậm chí còn nhiều hơn cả những gì nó cần. Nó bảo quản trong buồng tinh của mình chỉ mỗi thứ tinh dịch, mà ở trong đó bơi lội hàng ngàn phôi thai; những phôi thai này sẽ lần lượt xuất hiện đến tận lúc con ong chúa chết, khi đẻ trứng, trong bóng tối của cơ thể ong chúa diễn ra một sự hợp nhất bí ẩn giữa hai yếu tố đực và cái, mà từ đó những con ong thợ ra đời. Bằng cách lảng tránh cái nguyên lí chung, ở đây con cái đem lại cái bản nguyên giống đực cho thai nhi, còn con đực đem đến bản nguyên giống cái. Hai ngày sau khi thụ thai ong chúa đẻ những quả trứng đầu tiên của mình, và từ thời khắc này nó trở thành đối tượng của sự quan tâm chăm sóc từ các thần dân của nó. Khi nắm giữ một cặp giới tính, khi mang trong mình một nguồn dự trữ không thể cạn kiệt của cái bản nguyên giống đực, con ong chúa bắt đầu sống cuộc sống đã được ấn định cho mình: nó không rời tổ nữa và không còn nhìn thấy ánh sáng nữa, ngoại trừ một trường hợp duy nhất có thể có là khi vỡ tổ. Khả năng sinh nở của nó chỉ chấm dứt trước khi nó chết ít lâu.
VIMột lễ hôn phối kì diệu thế chứ, một trong những buổi hôn lễ huyền ảo nhất chỉ có thể có trong trí tưởng tưởng mà thôi: tràn ngập một màu thiên thanh và đầy bi kịch, bị cuốn hút bởi ngọn lửa tình chợt bùng cháy vượt ra khỏi giới hạn của quan niệm về việc bảo vệ sự sống, nó cùng lúc vừa chớp nhoáng vừa vĩnh cửu, duy nhất và rực rỡ, ẩn tránh những ánh mắt nhòm ngó và bất tuyệt. Một mức khoái cảm tột độ lạ thường đến thế, trong đó cái chết hiện ra giữa bầu không khí rạng rỡ nhất và tuyệt vời nhất, những tưởng chỉ có thể tồn tại trong thế giới của chúng ta; giữa không gian trinh nguyên vô tận và khung trời trong sáng đến mê hồn nó khắc ghi khoảnh khắc hạnh phúc, giữa thanh thiên bạch nhật nó thanh tẩy một yếu tố phàm tục nào đấy cho khoảnh khắc này - cái khoảnh khắc luôn được hòa trộn trong một cuộc tình; nó đời đời lưu giữ một nụ hôn, và lần này hài lòng với tặng vật trong thoáng chốc, nó nhận về mình với sự dịu dàng hầu như chỉ mang tình mẫu tử mối quan tâm về sự hợp nhất trong cùng một cơ thể, cho một tương lai dài lâu, của hai cuộc đời bé nhỏ mong manh.
Sự thật đích thực không có được cái chất thơ như thế đâu, song nó lại có một chất thơ khác, mà hiện giờ còn khó hiểu hơn đối với chúng ta, nhưng có thể, chúng ta sau này sẽ hiểu và sẽ yêu. Thiên nhiên đâu có bận tâm đến việc tổ chức cho hai “nguyên tử tinh giản”, theo cách nói của Pascal, một hôn lễ hoành tráng hay một khoảnh khắc lí tưởng của tình yêu. Nó chỉ chú trọng, như chúng ta đã nói, đến sự hoàn thiện một giống loài. Và vì mục đích này cơ quan sinh dục của con đực được thiên nhiên tạo ra theo cách, nó có thể hoạt động chỉ ở trên tầng cao vô tận của không gian. Sự càng phồng lên của đường thở chỉ có thể đạt được trong một chuyến bay thật lâu, là điều kiện ban đầu cho khả năng thực hiện giao phối của con đực. Những cái khoang đầy không khí khi đó sẽ đẩy phần dưới của bụng về phía sau và nhờ thế mở ra cho con đực khả năng giao phối. Toàn bộ sự bí ẩn về sinh lí trong buổi hôn lễ của con ong là nằm ở đó — một sự bí ẩn khá tầm thường với những người này, thiếu chút nữa thì làm cho những người khác tức giận, bởi nó làm mất đi cái hình ảnh tuyệt mĩ nên thơ trong chuyến bay của đôi tình nhân và của cuộc hành trình mê li trong thời gian diễn ra buổi hôn lễ huy hoàng này.
VII“Nhưng mà chúng ta, - nhà thơ căn vặn, - chúng ta có nên luôn luôn tìm chất thơ chỉ ở phía bên kia của sự thật hay không?”
Vâng, mọi lúc và cùng khắp mọi nơi chúng ta sẽ đi tìm chất thơ không phải chỉ ở mặt bên kia của sự thật, bởi điều này là bất khả, vì rằng chúng ta đâu biết đích xác nó ở đâu, còn mặt này của những sự thật thường nhật nhỏ bé đang thấp thoáng trước mắt chúng ta. Nếu do bất kể một nguyên nhân nào đó, - cứ cho đó là một cơ may, một sự hồi tưởng, một ảo giác, một sự đam mê đi chăng nữa, thì đây dẫu sao cũng vẫn là một đối tượng nào đó hiện ra trước mắt chúng ta tuyệt vời hơn cái mà những người khác cảm tưởng về nó, thì chính nguyên nhân đó đối với chúng ta phải quý giá hơn tất thảy mọi thứ. Có thể là chúng ta sai lầm; thế thì sao nào? Sai lầm đâu cản trở việc vào thời điểm đó chúng ta cảm thấy đối tượng này là tuyệt vời nhất, và cũng chính nhờ thời điểm đó mà chúng ta có nhiều khả năng nhất đánh giá phẩm chất đích thực của nó. Vẻ đẹp, mà chúng ta ban cho nó, sẽ dạy chúng ta biết nhận ra được vẻ đẹp thực sự của nó và sự cao cả không dễ phát hiện ra, bởi chúng nằm trong những mối quan hệ nhất định với các quy luật chung, các sức mạnh vĩnh cửu của tự nhiên. Cái hiện ra, cũng có thể là ảo tưởng, sự khâm phục đâu có bị uổng phí và sớm muộn gì sẽ dẫn [chúng ta] tới sự thật. Nhờ vào những lời nói, những cảm xúc và sự nhiệt tâm được lan tỏa bởi các lí tưởng giả hiệu xa xưa, ngày nay nhân loại đã tập hợp được những chân lí có lẻ hoàn toàn không thể xuất hiện hay không thể tìm được một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của mình, nếu như những ảo tưởng thiêng liêng ấy không dạy cho chúng ta hiểu được bản thân mình, không sưởi ấm con tim chúng ta, không chuẩn bị cho trí óc chúng ta biết tiếp nhận các chân lí. Người hạnh phúc có phải là người không cần đến các ảo tưởng, để không có chúng vẫn thấy được toàn bộ sự hùng vĩ của cảnh tượng diễn ra? Còn những người khác thì chỉ có ảo tưởng mới dạy cho họ biết nhận ra, ngắm nhìn và vui sướng. Nhưng dẫu họ có nhìn cao xa đến đâu đi chăng nữa, thì họ cũng chẳng bao giờ nhìn được quá cao xa. Tùy theo mức độ tiếp cận chân lí - nó sẽ mỗi lúc một vươn lên và vươn cao hơn nữa; ta càng khâm phục nó nhiều hơn, thì ta càng tiến tới gần nó hơn. Và dẫu tinh thần họ có bay lượn cao đến đâu đi nữa, niềm say mê của họ sẽ chẳng bao giờ gặp phải sự hư không, sẽ chẳng ở cao hơn cái chân lí vĩnh cửu và bất khả tri đang còn ở khắp mọi nơi, giống như một vẻ đẹp thụ động.
VIIIĐiều này có nghĩa là chúng ta đã bị gắn chặt với sự giả dối, với cái chất thơ có tính võ đoán và hư ảo và vì không có cái tốt hơn, chúng ta có thể cảm nhận được sự say mê chỉ ở trong một chân lí giả hiệu hay không? Điều này có nghĩa là trong ví dụ được chúng ta xem xét, - một ví dụ tự thân không mấy quan trọng, nhưng là đại diện cho một ngàn ví dụ tương tự và là bằng chứng cho thái độ của chúng ta với những thuộc tính khác nhau của các chân lí - điều này có nghĩa là trong ví dụ này chúng ta cần phải nhắm mắt làm ngơ với sự giải thích về mặt sinh lí của hiện tượng, để không mất đi sự thích thú trước cảnh tượng chuyến bay hôn phối của loài ong, - dù nguyên nhân của nó là gì đi chăng nữa - thì nó vẫn là một trong những biểu hiện trữ tình nhất của một sức mạnh vô vị lợi, không cưỡng lại nổi và bắt toàn bộ thực tại tuân theo bản thân mình - một sức mạnh có tên là tình yêu hay không? Không, việc này sẽ là quá ư ấu trĩ, quá đỗi bất khả khi có những kĩ năng tuyệt vời mà ngày nay mọi bộ óc biết tư duy đều đã nắm vững. Hiện tượng được nêu ra có lí do cho cấu trúc đặc biệt của các cơ quan sinh dục ở con ong đực. Chúng ta nên chấp nhận sự giải thích này, bởi nó quá hiển nhiên. Nhưng nếu chúng ta lấy làm thỏa mãn chỉ với một sự giải thích này thôi; nếu ở đây chúng ta không thấy được điều gì, ngoài cái hành động có tính sinh lí, nếu từ đây chúng ta rút ra kết luận rằng, bất kể một suy nghĩ nào, - do nó bay lượn cao hơn nhiều sự giải thích không thơ mộng về các hiện tượng, - cũng không phù hợp với chân lí, và rằng, chân lí luôn luôn nằm ở một sự kiện nào đó trong một thuộc tính của vật chất; nếu chúng ta không cố gắng tìm kiếm lời giải thích cho một hiện tượng trong những giả thuyết rộng hơn rất nhiều những giả thuyết, mà lời giải thích về mặt sinh lí cho các hiện tượng buộc phải đánh đổ chúng, trong sự bí ẩn khó hiểu, ví dụ như sự thụ tinh chéo, trong tính vĩnh cửu ở sự sống của một giống loài, trong ý đồ của tự nhiên; nếu chúng ta không làm được tất cả những điều này, không cố gắng rút ra từ những sự kiện được nghiên cứu những kết luận về vẻ đẹp vĩnh cửu và sự vĩ đại đang nằm yên trong cái bất khả tri, thì tôi hầu như đã sẵn sàng nhận về mình sự dũng cảm để khẳng định rằng, với tất cả những sự hiểu biết của chúng ta về mặt sinh lí, chúng ta sẽ cách xa chân lí hơn cả những người nhắm mắt lại mà đòi thấy cho được trong lễ hôn phối kì diệu của loài ong chỉ cái khía cạnh nên thơ của chúng mà thôi.
IX“Chúng ta vẫn chưa có được chân lí, - một nhà sinh lí học vĩ đại thời nay có lần đã nói với tôi khi đi dạo cùng tôi trên cánh đồng, - chúng ta vẫn chưa có được chân lí, nhưng chúng ta có ba cái tương tự như chân lí. Mỗi người có lựa chọn của mình hay, nói đúng hơn là, mỗi người tuân theo sự lựa chọn của mình. Sự lựa chọn, mà anh ta tuân theo hay vin vào một cách vô thức, và tự xác định hình thức và chiều hướng của tất cả những gì thâm nhập vào nhận thức của anh ta. Một người bạn đi ngược chiều lại với chúng ta, một người phụ nữ đang tiến lại gần chúng ta với nụ cười trên môi, thổ lộ tình yêu với con tim của chúng ta và khép lại nỗi buồn và chấm dứt cái chết của nó, bầu trời tháng Chín, một khu vườn xanh tươi và lộng lẫy, mà ở đó chúng ta tìm thấy, như trong vở Psyche của Corneille, những chiếc nôi nhỏ màu xanh lá cây đang nằm yên trên các giá đỡ màu vàng, một đàn gia súc nằm phủ phục, một mục phu đang ngủ, những ngôi nhà thôn quê và mặt biển trải rộng sau những cánh rừng, - toàn bộ cảnh tượng này biến đổi, lớn lên hay thu nhỏ lại, được trang hoàng hay bị biến dạng đi trước khi được chúng ta tiếp nhận theo một tín hiệu rất nhỏ do sự lựa chọn của chúng ta phát ra. Ở đây chúng ta cần phải biết nhận định. Khi ở sườn dốc của của cuộc đời, - một cuộc đời trôi đi trong những cuộc kiếm tìm các chân lí cục bộ và những nguyên do mang tính vật lí của các hiện tượng - giờ đây tôi mới bắt đầu coi trọng không phải sự cự tuyệt những nguyên do ấy, không hề, mà là một cái gì đó xảy ra trước chúng, và đặc biệt là cái có đôi chút ưu việt của chúng”.
Chúng tôi đã lên tới đỉnh của cao nguyên ở vùng Caux của xứ Normandie - một cao nguyên không chỉ xanh tươi như một công viên của nước Anh, mà còn tuyệt đẹp hơn về độ tự nhiên và mênh mông vô tận của mình. Đây là một trong những chốn hiếm quý trên trái đất, nơi không gian bao la của miền quê với toàn bộ sự tươi sáng thanh khiết và lành mạnh của mình. Thêm một chút lên phía Bắc là miền đất bị sự bạc màu đe dọa, một chút về phía Nam thì bị mặt trời thiêu đốt và làm khô hạn. Ở vùng tận cùng xuôi xuống đến khu đồng bằng tới tận bờ biển những người nông dân đã đánh xong những đống cỏ khô. “Anh hãy nhìn xem, - một ông lão nói với tôi, - từ đây nhìn chúng mới đẹp là sao. Những người nông dân đã dựng nên một thứ giản dị, nhưng quan trọng biết bao trên thế giới này, hơn tất thảy những thứ khác nó có quyền được gọi tượng đài hạnh phúc và bất di bất dịch trong đời sống đang hồi sinh của con người. Đó là một đống cỏ khô. Tiếng hò reo của những người nông dân trong bầu không khí về chiều từ xa vọng tới, nghe như những bài ca không lời, phụ họa theo bài ca cao thượng của vòm lá đang đung đưa trên đầu anh. Bầu trời lồng lộng huyền diệu biết bao, đến mức ta có thể nghĩ, dường như có những vị phúc thần cầm những cành cọ đỏ một màu lửa vun toàn bộ ánh sáng vào trong đống cỏ, để chiếu sáng được lâu hơn cho công việc của những con người cần lao. Và có cảm giác như dấu vết của những cành cọ này vẫn còn trên bầu trời cho đến tận bây giờ. Anh hãy nhìn sang một ngôi nhà thờ khiêm nhường nằm giữa những cây gia có hình mái vòm, trên thảm cỏ mềm mại của một khu nghĩa trang, ngôi nhà thờ vươn cao và như muốn bảo vệ cho những con người cần lao ấy. Họ đã dựng một cách hài hòa tượng đài cho cuộc sống của mình vươn cao trên những đài tưởng niệm những người đã qua đời của mình - những người cũng đã từng làm như thế với những người ruột thịt của mình đã không còn tồn tại trên đời. Anh cứ thử lấy một bức tranh tổng thể [của vùng đất này] mà xem: nó sẽ không có được những nét đặc trưng, mà chúng ta thấy ở Anh, Provence và Hà Lan. Bức tranh rất lớn, nhưng nó không có gì đặc sắc để làm biểu tượng cho một cuộc sống tự nhiên và hạnh phúc. Bạn hãy xem đời sống của một con người qua những chuyển động của nó chỉ nhằm hướng tới có ích lợi mà thôi đã trở nên có nhịp điệu thế nào. Bạn hãy nhìn một người nông dân đang dắt ngựa, cả thân hình của một người đang dùng cây đinh ba chuyển các bó cỏ khô, những người phụ nữ cặm cụi trên cánh đồng, đám trẻ đang chơi đùa… Để làm tăng lên vẻ đẹp của thiên nhiên, họ không chuyển dịch bất cứ viên đá nào, không một nhúm đất nào, không làm một hành động thừa, không trồng thừa một cái cây, không gieo thừa một bông hoa. Tất thảy những gì chúng ta thấy là kết quả gián tiếp của một mục đích duy nhất: khát vọng của con người giành lại ở tự nhiên cuộc sống vụt qua như bóng câu. Tuy nhiên những ai trong chúng ta đặt ra chỉ một mục tiêu là tưởng tượng ra và vẽ nên một bức tranh về thế giới, về những suy nghĩ sâu sắc và vẻ đẹp của thiên nhiên, thì những người ấy sẽ không tìm được gì hoàn mĩ hơn quang cảnh đó. Và họ luôn luôn thể hiện nó mỗi khi muốn đem đến cho chúng ta một biểu tượng về cái đẹp và hạnh phúc. Đó là cái tương tự đầu tiên dành cho anh đấy — cái được một số người gọi là chân lí.
Chúng ta lại gần hơn nữa nhé! Anh có nghe thấy âm thanh của bài ca hòa điệu du dương đến thế với tiếng xào xạc của những tán lá trên các cây đại thụ kia không? Bản thân bài ca toàn là những câu những lời nói thô tục nhất. Mỗi một tràng cười phá lên ở nơi đây đều do sự bất nhã của một người đàn ông hay một người đàn bà hay bởi tiếng cười nhạo nhằm vào những kẻ yếu: một người gù kiệt sức bởi cái khối dị tật không thể chịu nổi của mình đè nặng trên lưng bị người ta đẩy ngã, hay một gã khờ luôn là mục tiêu cho sự chế nhạo. Tôi đã quan sát những con người này trong nhiều năm trời. Chúng tôi ở Normandie nơi đồng đất màu mỡ đến mức chẳng đòi hỏi nhiều công sức. Bên đống cỏ khô đó tụ tập những người khá giả hơn những người nông dân khác, mà hình ảnh của họ đã khiến chúng ta liên tưởng đến một cảnh tượng tương tự. Kết quả là phần lớn những người đàn ông và đàn bà ở đây đều nghiện rượu. Một thứ chất độc khác, mà tôi chưa tìm được ở đây cái tên gọi thích hợp cho nó, còn tàn phá cơ thể họ nhiều hơn nữa. Những đứa trẻ, mà anh thấy đây, phải chịu ơn thứ chất độc ấy và tệ nghiện rượu về thể hình của mình. Đây một đứa còi cọc bé choắt, đây nữa một đứa bị tràng nhạc, đứa này thì chân què, đứa kia thì sứt môi, và kia nữa, cuối cùng là một đứa não úng thủy. Ở đây từ đàn ông đến đàn bà, từ người già đến người trẻ cùng có các thói tật xấu của nông dân. Họ dã man, giả dối, lừa lọc, tham lam, miệng lưỡi cay độc, hay ghen tị, có thiên hướng buôn gian bán lận, đồn thổi nhảm nhí và xu nịnh một cách thớ lợ trước những kẻ mạnh. Cảnh nghèo túng bấn liên kết họ lại và buộc phải cần đến sự giúp đỡ lẫn nhau, nhưng cái mong ước ngấm ngầm ở tất cả mọi người thì chỉ có một: làm hại nhau mỗi khi có dịp, mà không kéo theo mình mối nguy hiểm. Bất hạnh của người láng giềng là niềm vui sướng duy nhất thật lòng của cả làng. Đau khổ xảy đến với một người trong số họ, đó sẽ là đề tài ưa thích nhất trong một thời gian dài cho cuộc tán gẫu tám chuyện ở những người khác. Người nào cũng theo dõi từng bước chân của người khác và ganh ghét anh ta, bỉ bác anh ta và căm thù anh ta. Nếu như họ nghèo, thì họ chất chứa trong lòng một sự căm thù ghê gớm và ngấm ngầm với các ông chủ của mình vì sự tàn ác và keo kiệt; nhưng nếu họ, đến lượt mình, có được người hầu kẻ hạ cho mình, thì họ noi theo ngay tấm gương của các ông chủ của mình và còn vượt hơn những người đó về độ tàn ác và tham lam.
Tôi có thể nêu ra cho anh một hình ảnh chi tiết của sự thấp hèn, lừa đảo, bất công, bạo ngược - chúng ẩn trốn sau bức tranh nên thơ của cảnh lao động yên bình đó. Anh đừng hình dung đến nào là phong cảnh bầu trời huyền diệu này, nào là biển khơi này trải rộng sau ngôi nhà thờ và hòa nhập với một khung trời khác, xa xa, bao phủ lấy trái đất, như một tấm gương khổng lồ của nhận thức và sự thông tuệ - thậm chí anh đừng nghĩ là tất cả những phong cảnh ấy nâng cao và phát triển tầm nhìn của họ. Họ chẳng thèm để mắt đến tất cả những điều đó đâu. Chẳng có gì khiến họ rung động, chẳng có gì chỉ đạo họ, ngoài ba hay bốn cảm xúc nhỏ mọn: đó là nỗi sợ trước cái đói, sức mạnh, lề thói cổ hủ và luật pháp; lúc lâm chung thì nỗi khiếp sợ địa ngục xâm chiếm lấy con người họ. Để thấy được họ là những người như thế nào, phải xem xét riêng từng người một. Anh hãy nhìn cái gã khổng lồ có bộ mặt hiền lành và đang khéo léo ném những bó cỏ khô kia. Hè năm ngoái đồng bọn của gã trong một cuộc rượu say cãi lộn đã đánh gẫy một cánh tay gã. Thương tích nguy hiểm và phức tạp, nhưng tôi đã chữa lành cho gã. Tôi đã phải vất vả với gã rõ lâu, cho đến khi gã có thể làm việc trở lại được. Ngày nào gã cũng đến nhà tôi. Rồi sau đó gã bắt đầu đi kể rằng, gã đã bắt gặp tôi đang ở trong vòng ôm của cô em gái của vợ tôi và rằng, bà mẹ tôi uống rượu như hũ chìm. Gã không phải là con người độc ác và muốn điều ác cho tôi, trái lại, anh hãy nhìn xem, nụ cười mới chân thật biết bao tỏa sáng trên khuôn mặt gã khi thấy tôi. Và anh hãy nhớ cho, không phải sự căm thù có tính giai cấp đã thúc đẩy gã có những lời độc địa đâu nhé: một người nông dân không thể căm ghét một người giàu có - anh ta vô cùng tôn thờ sự giàu có. Nhưng tôi nghĩ rằng, chuyện đó xảy ra là do, người nông dân ngây thơ của tôi không thể hiểu nổi, tại sao tôi lại vất vả với anh ta mà chẳng kiếm chút đỉnh lợi lộc cho bản thân. Anh ta ngờ rằng, trong chuyện này có một mục đích ngầm nào đó, và không muốn là vật hi sinh của tôi. Và không phải chỉ một mình anh ta hành động như thế đâu; mà trước cả anh ta, người nghèo lẫn kẻ giàu - kẻ giàu còn tồi tệ hơn cơ. Trong đầu anh ta không thể có được ý nghĩ rằng, anh ta đang lừa dối, khi đem rêu rao những tin đồn giả dối này; anh ta đơn giản là tuân theo một cách mơ hồ một lề thói có chủ ý nào đó, nó đã sai khiến anh ta bằng một thứ luân thường. Anh ta một cách vô thức và dường như phục tùng một mệnh lệnh toàn năng, một thứ cảm xúc chung thù địch chống lại ý chí.
X“Chúng ta ngồi xuống những bó cỏ khô này đi, - nhà sinh lí học nói tiếp, - và cùng xem xét thêm nữa nào. Chúng ta sẽ không cố ý gạt bỏ các sự việc, thậm chí là các sự việc nhỏ bé nhất đã đan dệt nên hiện thực. Cứ cho là tự chúng sẽ biến mất trong không gian đi. Chúng sẽ dựng lên một bức tường cao trước chúng ta và che lấp mọi thứ khỏi ánh mắt của chúng ta đi chăng nữa; thế nhưng chúng ta biết rằng, đằng sau chúng có một sức mạnh khổng lồ và vô cùng kì thú đang duy trì cái tổng thể. Nhưng phải chăng nó chỉ duy trì, chứ không nâng tầm cho cái tổng thể đó? Những con người chúng ta đang quan sát ở đây hoàn toàn không phải là những con thú hoang, mà Labruyère nói đến: “Chúng có một ngôn ngữ rành mạch, chúng đang lẩn vào hang ổ của mình trong bóng đêm, ăn thứ bánh mì đen, rễ cây và uống nước…” Anh sẽ nói với tôi rằng, giống nòi này không mạnh mẽ và dẻo dai như thế đâu, - tôi tin. Rượu và những hiểm họa khác tạo nên các trở ngại, mà con người phải vượt qua; có lẽ, đây là những sự thử thách, mà từ đó một số cơ quan của chúng ta, chẳng hạn như, hệ thần kinh của chúng ta, có thể rút ra được thứ gì đó bổ ích, bởi chúng ta thường thấy, nó đã rút ra được điều bổ ích từ những tai họa mà cuộc đời đã vượt qua. Hơn nữa một phát kiến nhỏ nào đó cũng có thể vô hiệu được các tai họa này. Nhưng hoàn cảnh này không nên buộc chúng ta phải hạn chế tầm nhìn của mình. Những con người ấy khi đó cũng suy nghĩ và có cảm xúc, như những kẻ được Labruyère kể đến, đã không có khả năng làm việc đó”. “Nhưng khi ấy - tôi khẽ lẩm bẩm - tôi thích một con vật ngây thơ và có hình dạng hoàn toàn nguyên thủy hơn là một loại bán thú và đáng ghê tởm”. “Anh nói như thế là dựa trên sự tương tự thứ nhất với sự thật - sự thật của các nhà thơ thôi; nhưng chúng ta sẽ không trộn lẫn nó với sự tương tự chân lí, mà bây giờ chúng ta sẽ bàn đến. Những suy nghĩ và tình cảm ở những người nông dân của chúng ta có thể nhỏ nhen và thấp hèn, nhưng tất cả những gì nhỏ nhen và thấp hèn còn tốt hơn là chẳng có gì. Họ chỉ sử dụng những suy nghĩ có thể gây hại cho họ và trợ giúp cho cái bóng tối bủa vây họ, nhưng đây là điều thường xuyên xảy ra trong tự nhiên. Những món quà tặng của tự nhiên trước hết là gây hại, chúng làm tệ hại đi cái mà chúng, rõ ràng, là muốn làm cho nó tốt đẹp hơn. Nhưng rốt cuộc từ toàn bộ cái ác hại đó ta vẫn nhận lại được một phần cái tốt lành. Vả lại, tôi hoàn toàn không cố gắng chứng minh cho việc tồn tại của sự tiến bộ - điều này phụ thuộc vào quan điểm mà chúng ta sẽ dùng để xem xét nó, có thể nó hoặc là rất to lớn, hoặc là vô cùng nhỏ bé. Làm cho vị thế của con người bớt phụ thuộc đi, bớt gian khổ đi là một vấn đề rất lớn lao, có lẽ, đó là cứu cánh lí tưởng nhất của chúng ta, nhưng sau khi tạm rời xa trong thoáng chốc khỏi những hậu quả về mặt vật chất, - chúng vốn là kết quả của mức độ giác ngộ của con người, - chúng ta sẽ thấy rằng, khoảng cách giữa những người đi đầu trong sự tiến bộ, và những người mù lòa lê bước theo sau, là hoàn toàn không đáng kể. Trong số những chàng trai, mà trong đầu họ hiện giờ chỉ vẩn vơ những ý nghĩ mông lung, ta có thể gặp được những người mang trong mình khả năng qua một thời gian ngắn đạt tới mức độ nhận thức, mà tôi và anh đang có. Người ta thường kinh ngạc không mấy đáng kể trước khoảng cách phân biệt giữa cái bị gọi là sự dốt dặc của những con người đó với cái được gọi là mức độ cao nhất trong nhận thức của chúng ta”.
Thêm vào đó, nhận thức của chúng ta - thứ mà chúng ta tự hào về nó đến thế - được tạo nên từ cái gì? Từ một lượng tối đen nhiều hơn ánh sáng rất nhiều, từ sự dốt nát tự mình thu nhận được nhiều hơn tri thức rất nhiều, từ một khối lượng những sự vật, mà chúng ta phải từ bỏ việc tìm hiểu chúng, lớn