Chương 15
Buổi sáng của năm mới 1969 - tôi mở đầu một năm với một điều vui. Frank Holt vừa tái cử vào Tòa án tối cao chỉ hai năm sau khi ông bị đánh bại trong cuộc đua vào chức thống đốc. Tôi lái xe về Little Rock tham dự buổi 11 tuyên thệ nhậm chức của ông. Đúng như dự đoán, ông khuyên chúng tôi đừng dành thời gian trong năm mới để tham gia buổi lễ khiêm nhường này, nhưng hơn 50 người ủng hộ viên trung thành chúng tôi đã đến. Nhật ký tôi viết: "Tôi bảo ông tôi sẽ không rút lui chỉ vì ông ấy trúng cử". Trớ trêu thay, với tư cách "tân" thẩm phán, ông được phân vào làm việc trong văn phòng cũ của Thẩm phán Jim Johnson.
Ngày 2 tháng 1, tôi và Joe Newman lái xe đưa mẹ đến Hope để thông báo cho họ hàng còn lại cùa bà về việc bà sẽ cưới Jeff vào ngày hôm sau. Khi về đến nhà, tôi và Joe gỡ tấm bảng đề "Gia đình Roger Clinton" xuống khỏi hộp thư. Joe cười to vẻ giễu cợt và nói: “Gỡ nó xuống dễ dàng thế này kể cũng buồn nhỉ". Bất kể dấu hiệu báo trước bất trắc của số phận thế nào, tôi vẫn thấy cuộc hôn nhân này sẽ ổn thỏa. Tôi đã viết trong nhật ký: "Nếu Jeff là một tên lừa bịp như mọi người vẫn nói thì cứ coi như tôi bị lừa đi".
Tốì hôm sau, lễ cưới diễn ra ngắn gọn và đơn giản. Bạn của chúng tôi, mục sư John Miles, hướng dẫn cô dâu chú rể thề nguyện. Roger đốt nến. Tôi là chú rể phụ. Sau đó có một bữa tiệc nhỏ, tôi và Carolyn Yeldell chơi nhạc và hát cho khách nghe. Một sô giới chức tôn giáo có thể từ chối làm phép cho đám cưới vì Jeff là người vừa mới li dị. Nhưng John Miles thì không. Ông là một tín đồ Giám lý hay cà khịa, cứng rắn, phóng khoáng, ông tin rằng Chúa Jesus được Đức Chúa Cha của mình phái xuống để cho tất cả chúng ta cơ hội thứ hai.
Ngày 4 tháng 1, nhờ bạn tôi, Sharon Evans, quen biết Thống đốc Rockefeller, tôi được mời ăn trưa cùng thông đốc tại trang trại của ông ở Petit Jean Mountain. Tỏi thấy Rockefeller thân thiện và có duyên ăn nói. Chúng tôi bàn về Oxford và về việc con trai ông là Winthrop Paul muốn học ở đó Thống đốc muốn tôi giữ liên lạc với Win Paul khi cậu ta bắt đầu theo học ở Pembroke College vào mùa thu. Cậu này ở châu Âu trong phần lớn thời thơ ấu.
Sau bữa trưa, tôi nói chuyện vui vẻ với Win Paul, sau đó chúng tôi đi xuống phía tây nam để hẹn gặp Tom Campbell, đã lái xe từ Mississippi đến Arkansas, nơi cậu ấy đang học khóa huấn luyện lái máy bay của thủy quân lục chiến. Ba chúng tôi lái xe đến dinh thự của Thống đốc theo lời mời của Win Paul. Tất cả chúng tôi đều rất ấn tượng, và tôi ra về chỉ nghĩ rằng mình vừa mới được thấy một phần quan trọng của lịch sử Arkansas, chứ không nghĩ đây là nơi mà một thập niên sau là nhà của tôi trong 12 năm.
Ngày 11 tháng 1, tôi về Anh cùng chuyến bay với Tom Williamson và được cậu ấy dạy cho tôi hiểu làm người da đen ở Mỹ là như thế nào; và với Frank Aller, cậu thuật lại cho chúng tôi nghe kỳ nghỉ khó khăn của mình vì ông bố bảo thủ của cậu ấy đã bắt cậu phải cắt tóc, nhưng không trình diện quân dịch, một điều kiện tiên quyết để ăn giáng sinh ở nhà. Quay về Univ, tôi thấy trong đống thư từ của mình có một lá thư quan trọng của người bạn cũ và người cùng được rửa tội - binh nhì thủy quân lục chiến Bert Jeffries. Tôi trích ra đây vài đoạn trong lời nhắn gửi bàng hoàng của cậu ấy:
...Bill, tớ đã nhìn thấy nhiều thứ và trải qua nhiều chuyện mà nhiều người có suy nghĩ chân chính không bao giờ muốn thấy hay trải qua. Ở đây, họ ăn thua đủ lắm. Hoặc thắng hoặc thua. Thật chẳng phải là cảnh hay ho khi phải chứng kiến người bạn sống cùng và thân thiết với cậu chết ngay bên cạnh mình và cậu biết rõ là vì lý do không tốt đẹp gì. Và cậu nhận ra rằng cũng có thể đó là cậu lắm chứ.
Tớ phục vụ cho một trung tá. Tớ là vệ sĩ của ông ây Ngày 21 tháng 11, bọn tớ đến một nơi gọi là Winchester. Trực thăng thả cả bọn xuống và ông trung tá, tớ cùng hai người nữa bắt đầu xem xét xung quanh... có hai lính Bắc Việt ở trong lô cốt bắn vào bọn tớ... Ông trung tá và hai người kia đều trúng đạn. Bill, hôm đó tớ đã cầu nguyện. May thay tớ đã hạ hai đối phương trước khi họ hạ tớ. Hôm đó tớ giết người lần đầu tiên. Bill ơi, thật là một cảm giác tồi tệ khi biết rằng cậu cướp đi sinh mạng của người khác. Một cảm giác bệnh hoạn. Và lúc đó cậu nhận thấy biết đâu chính cậu cũng có thể bị giết dễ dàng như vậy.
Hôm sau, ngày 13 tháng 1, tôi đi London để khám quân dịch. Ông bác sĩ tuyên bố, theo những dòng ghi chú điệu đà trong nhật ký của tôi, rằng tôi là "một trong những loại người khỏe mạnh nhất của thế giới phương Tây, có thể đem trưng bày trong các trường y khoa, triển lãm, sở thú, vũ hội hóa trang, và các trại huấn luyện tân binh". Ngày 15, tôi xem vở A Delicate Balance - Sự Cân bằng Tinh tế của Edward Albee và đó là "vụ việc kỳ dị thứ hai của tôi trong vài ngày". Các nhân vật của Albee buộc khán giả phải "tự hỏi liệu một ngày nào đó gần kết cục, họ không còn thức dậy nữa và thấy mình trống rỗng và hoảng sợ hay không". Tôi đã bắt đầu tự hỏi mình câu đó.
Tổng thống Nixon tuyên thệ nhậm chức ngày 20 tháng 1. Bài diễn văn của ông ta là một nỗ lực hòa giải, nhưng nó "làm tôi thấy hờ hững, những rao giảng tôn giáo và đạo đức của tầng lớp trung lưu tốt bụng kiểu xưa. Những thứ ấy được coi là sẽ giải quyết vấn đề của chúng ta với người châu Á vốn không có truyền thống Thiên chúa; với những người cộng sản không tin Chúa trời; với người da đen vốn bị những người da trắng kính Chúa chèn ép nhiều đến mức giữa họ hầu như không còn điểm gì là chung nữa; và với đám trẻ vốn được nghe đi nghe lại những bài thuyết giảng giả tạo nhiều lần đến mức họ thích thuốc phiện hơn là những ảo tưởng tự dối gạt mình một cách trơ trẽn của người lớn hơn". Thật trớ trêu, tôi cũng tin vào Thiên chúa và những giá trị đạo đức của tầng lớp trung lưu; chẳng qua những giá trị ấy không biến tôi thành những người như họ mà thôi. Tôi nghĩ sống theo những nguyên tắc tôn giáo và chính trị thực sự của mình đòi hỏi chúng tôi đi sâu và xa hơn Nixon.
Tôi quyết định quay lại cuộc sống của mình ở Anh trong quãng thời gian còn lại. Tôi tham dự buổi tranh luận đầu tiên ở Liên đoàn Oxford - Giải đáp: con người tạo ra Chúa trời bằng hình ảnh của chính mình, "một đề tài màu mỡ nhưng chưa được cày bừa đầy đủ". Tôi lên phía bắc, tới Manchester, và ngây ngất trước cảnh đẹp của vùng quê nước Anh "được bao quanh bởi những bức tường đá cổ mà không có cảnh bùn đất xi măng đạn cối". Có một buổi thảo luận về "Đa nguyên như một Khái niệm của Lý thuyết Dân chủ" mà tôi thấy hết sức buồn tẻ, chỉ là một nỗ lực nữa để "giải thích bằng những thuật ngữ rườm rà hơn (vì thế có ý nghĩa hơn, tất nhiên) về những gì đang diễn ra trước mắt chúng ta... Chỉ là đàn gảy tai trâu đối với tôi vì tôi chẳng phải gốc trí thức, cũng không phải là người hay khái niệm hóa sự thực, và tôi đoán là mình chỉ đơn giản là không đủ thông minh để tham gia vào đám đông lẹ làng này".
Ngày 27 tháng 1, sự thật phũ phàng lại lộ diện lần nữa khi vài đứa chúng tôi tổ chức bữa tiệc cho Frank Aller nhân ngày cậụ ấy chính thức trở thành người kháng lệnh quân dịch, "bước đi trên con đường rộng mở duy nhất". Dù có vodka, nâng ly chúc tụng, nỗ lực pha trò, bữa tiệc vẫn bị phá sản. Ngay cả Bob Reich vốn lẹ miệng nhất trong chúng tôi cũng không cứu vãn được. Chúng tôi không thể cất nổi gánh nặng khỏi vai Frank, "trong chuyện này, vào ngày cậu hành động theo đúng như lời cậu ấy đã hứa". Hôm sau, Strobe Talbott, lúc ấy tình trạng quân dịch đang là hạng 1-Y do một chấn thương cũ khi còn chơi bóng, đã thực sự không còn phù hợp với quân ngũ khi bị gậy đánh bóng của John Isaacson đập vào kính ở sân banh tại Univ. Bác sĩ đã mất hai tiếng để lấy mảnh kính vỡ ra khỏi võng mạc của cậu ấy. Talbott phục hồi và tiếp tục sống 35 năm tiếp theo, nhìn thấy những thứ hầu hết chúng tôi không thấy.
Trong một thời gian dài, tháng 2 là tháng khó khăn đối với tôi, vì phải chống chọi với những ngày u ám và mong mỏi chờ mùa xuân đến. Tháng 2 đầu tiên của tôi ở Oxford cũng hăng hái ra trò. Tôi chống chọi bằng cách lao vào đọc sách, một việc tôi làm rất nhiều ở Oxford, không theo một thứ tự đặc biệt nào ngoài những gì ngành học của tôi yêu cầu. Tôi đọc hàng trăm cuốn sách. Tháng đó tôi đọc North Toward Home - Lên phương Bắc về nhà của Willie Morris vì nó giúp tôi hiểu được gốc rễ của mình và "phần thiện của bản thân". Tôi đọc Soul on Ice - Tâm hồn trên băng giá của Eldridge Cleaver và nghiền ngẫm ý nghĩa của tâm hồn. "Tâm hồn là từ tôi xài đủ nhiều để là người da đen, nhưng tất nhiên, tôi thỉnh thoảng lại nghĩ rằng thật không may, tôi không phải là người da đen... Tâm hồn: tôi biết đó là gì - đó là nơi tôi cảm nhận sự vật; nó làm tôi xúc động; nó làm tôi thành người, và khi tôi cho nó tạm ngưng hoạt động thì tôi biết ngay rằng tôi sẽ chết nếu không lấy lại được nó". Lúc đó tôi lo sợ mình đang đánh mất tâm hồn.
Những trăn trở của tôi với lệnh quân dịch làm sống lại những nghi ngờ từ lâu rằng liệu tôi phải là, hay có thể trở thành, người thực sự tốt hay không. Có vẻ như nhiều người lớn lên trong hoàn cảnh ngặt ngoèo thường tự trách mình một cách vô thức và cảm thấy mình không xứng đáng được một số phận sáng sủa hơn. Tôi nghĩ đó là kết quả của việc sống hai cuộc đời song song, một cuộc sống bề ngoài tự nhiên bình thường, và một cuộc sống bên trong chất chứa những bí mật. Hồi nhỏ, cuộc sống bề ngoài của tôi đầy bạn bè và lúc nào cũng vui vẻ, chỉ biết học và làm việc. Cuộc sống bên trong lại ngập tràn những bất an, giận dữ, mối lo sợ về bạo lực lúc nào cũng thường trực. Không ai có thể sống hai cuộc sống song song một cách hoàn toàn thành công; hai cuộc sống đó rồi sẽ phải đụng nhau. Ở Georgetown, khi mối đe dọa về thói bạo lực của bô tan dần rồi biến mất, tôi đã có thể sống một cuộc đời nhất quán hơn. Bây giờ tình thế tiến thoái lưỡng nan trong chuyên quân dịch đã khơi lại cuộc sống bên trong của tôi. Bên dưới cuộc sống bề ngoài mới mẻ và sôi động của tôi, những bóng ma cũ về sự nghi ngờ bản thân và sự tàn phá đầy đe dọa đã ngóc đầu dậy.
Tôi phải tiếp tục vật vã để kết hợp hai cuộc đời song song, hợp nhất tâm trí, thân thể và tinh thần. Đồng thời, tôi cố gắng làm cho cuộc sống bề ngoài của mình càng sáng sủa càng tốt, và phải đứng vững trước những hiểm nguy và giảm bớt những đau đớn của cuộc sống bên trong. Điều này có thể giải thích lòng ngưỡng mộ vô bờ của tôi đối với lòng quả cảm của các binh sĩ và những người đã không ngại nguy hiểm sinh mạng mình cho những mục tiêu cao quý, và lòng căm thù theo bản năng của tôi trước bạo lực và thói cư xử tàn tệ; lòng đam mê được phục vụ công chúng của tôi và lòng cảm thông sâu sắc trước những vấn nạn của người khác; cảm giác khuây khỏa tôi tìm thấy khi có người ở bên cũng như việc phải khó khăn lắm tôi mới để cho ai đó chạm đến những điều sâu kín nhất trong cuộc sống nội tâm của mình. Ở đó là một khoảng đen tối.
Trước đây tôi đã từng tuyệt vọng, nhưng chưa bao giờ như lần này. Như đã nói, lần đầu tiên tôi biết tự ý thức những tình cảm này luôn lùng bùng bên trong tâm tính vui vẻ và bề ngoài lạc quan của mình từ khi tôi còn học ở trung học, hơn năm năm trước khi tôi đến Oxford. Đó là khi tôi viết bài luận tự bạch trong giờ Anh văn của cô VVarneke, nói về "những sự ghê tởm" đang "nổi lên như bão trong trí óc tôi".
Vào tháng 2 năm 1969, những cơn bão ấy đang gào thét, và tôi cố gắng chế ngự chúng bằng cách đọc sách, đi chơi và dành nhiều thời gian đi với những con người thú vị. Tôi thường gặp nhiều người như vậy tại số 9 Bolton Gardens ở London, một căn hộ rộng rãi đã trở thành nhà thứ hai của tôi ngoài Oxford trong nhiều dịp cuối tuần. Sinh sống ở đó là David Edwards, người một đêm nọ xuất hiện ở Helen's Court cùng với Dru Bachman, một người cùng nhà thời ở Georgetown của Ann Markusen, trong bộ quần áo zoot (một loại y phục áo dài, quần thụng túm gấu, thường thấy ở người Mỹ gốc Phi, Mexico và Philippines thập niên 30 và 40 - ND), áo dài đến đầu gối, áo khoác dài thượt có rất nhiều túi và nút, quần loe. Trước đó, tôi mới chỉ thấy bộ quần áo zoot trong phim. Nơi ở của David ở Bolton Gardens trở thành căn nhà mở cho một tập hợp lỏng lẻo thanh niên Mỹ, Anh và những người khác đến và đi khỏi London. Ở đây rất hay tổ chức ăn uống và tiệc tùng, thường do David bao vì anh này có nhiều tiền hơn lũ còn lại chúng tôi và hết sức hào phóng.
Tôi còn dành rất nhiều thời gian một mình ở Oxford. Tôi thích đọc sách một mình và đặc biệt xúc động về đoạn trích The People, Yes - Con ngiiời, Vâng của Carl Sandburg:
Nói anh ấy hãy thường xuyên ở một mình và tự suy xét Và trên hết là đừng bao giờ nói dối anh ấy về chính anh ây
Nói với anh ấy rằng cô độc là sáng tạo nếu anh mạnh mẽ và những quyết định cuối cùng được đưa ra trong những căn phòng yên lặng.
Anh sẽ cô đơn
đủ để có thời gian
làm việc mà anh biết là việc của mình.
Sandburg làm tôi nghĩ có một điều gì đó tốt đẹp sẽ đến sau bao băn khoăn và lo lắng. Tôi luôn luôn ở một mình, và là đứa bé cô đơn cho đến tận năm lên 10, trong khi cả bố mẹ đều đi làm. Khi tôi bước vào cuộc sống chính trị, một trong những huyền thoại thú vị được lưu truyền bởi những người không biết gì về tôi rằng tôi rất ghét phải ở một mình, có thể vì tôi thích được ở bên cạnh người khác, từ đám đông cho đến những bữa ăn tối ít người và đánh bài với bạn bè. Khi là tổng thống, tôi gắng thu xếp thời gian biểu sao cho mình có vài giờ trong ngày một mình để suy nghĩ, hồi tưởng, lên kế hoạch hay không làm gì hết. Tôi thường ngủ ít đi để có thêm thời gian ở một mình. Ở Oxford, tôi ở một mình rất nhiều và tôi dành thời gian làm cái việc suy ngẫm mà Sandburg cho rằng muốn có cuộc sống tốt đẹp thì cần phải có.
Vào tháng 3 khi mùa xuân đến, tinh thần tôi cũng phấn chấn theo thời tiết. Trong kỳ nghỉ năm tuần, tôi đến lục địa châu Âu lần đầu tiên, đáp tàu hỏa đến Dover để ngắm những ghềnh đá trắng, đến Bỉ bằng phà, từ đó qua Cologne, Đức. Lúc 9 giờ 30 tối, tôi bước ra khỏi nhà ga dưới bóng mát của nhà thờ trung cổ hoành tráng nằm ngay trên đồi, và hiểu vì sao các phi công Đồng minh trong Thế chiến hai đã liều mạng tránh phá hủy nó bằng cách cô gắng hết sức bay thâp khi ném bom cây cầu đường sắt bắc qua sông Rhine, ở nhà thờ này tôi thấy mình gần với Chúa trời, và sau này mỗi khi quay lại tôi đều cảm thấy thế. Sáng hôm sau, tôi hẹn Rick Stearns, Ann Markusen và người bạn Đức Rudy Lowe tôi quen năm 1967 trong hội nghị CONTAC ở Washington, D.C. để cùng đi tham quan Bavaria. Ở Bamberg, quê hương có hàng ngàn năm tuổi của Rudy, anh ấy đưa tôi đến thăm biên giới với Đông Đức gần đó, nơi có một người lính Đông Đức đứng gác trên chòi cao sau hàng rào thép gai ở bìa rừng Bavaria.
Khi tôi đang đi du lịch thì Tổng thống Eisenhower, "một trong những mảnh còn sót lại cuối cùng của Giấc mơ Mỹ", qua đời. Và mối quan hệ của tôi với Ann Markusen cũng thế, một tổn thất do thời đại và do tôi chưa thể cam kết gắn bó. Phải rất lâu sau chúng tôi mới nối lại quan hệ bạn bè với nhau.
Quay về Oxford, George Kennan đến diễn thuyết. Kennan có nhiều điều chất chứa về chính sách Việt Nam của nước Mỹ, tôi và các bạn hăm hở đến nghe. Thật không may, lần này ông tránh xa chuyện chính sách đối ngoại, mà sa vào công kích kịch liệt các buổi biểu tình của sinh viên và toàn bộ trào lưu "phản văn hóa" chống đối chiến tranh. Sau khi một số bạn tôi, đặc biệt là Tom Williamson, lên tranh luận với ông ta thì buổi diễn thuyết kết thúc. Phản ứng đồng lòng của chúng tôi gần như có thể tóm tắt bằng lời bình luận khôi hài của Alan Bersin: "Sách hay hơn phim".
Vài ngày sau, tôi có một bữa ăn tối và tranh luận thật lý thú với Rick Stearns, người có lẽ trưởng thành và hiểu biết nhất về chính trị trong chúng tôi. Trong nhật ký tôi đã ghi rằng Rick "đã đập tan việc chống đối quân dịch của tôi", và lập luận rằng việc chấm dứt chế độ quân dịch sẽ buộc người nghèo càng phải chịu gánh nặng lớn hơn. Thay vì như vậy, "Stearns muốn có chế độ quân dịch toàn quốc với nhiều cách thức để thực hiện nghĩa vụ quân sự, nhưng phải định ra thời gian đi quân dịch ngắn hơn và lương cao hơn để giữ lực lượng quân sự ở mức có thể chấp nhận được. Cậu ấy tin rằng tất cả mọi người, chứ không chỉ riêng người nghèo, phải có nghĩa vụ cộng đồng". Đó chính là những hạt giống để hơn 20 năm sau, trong chiến dịch tranh cử đầu tiên của tôi, kết trái thành đề nghị của tôi về chương trình phục vụ cộng đồng toàn quốc dành cho thanh niên.
Vào mùa xuân năm 1969, nghĩa vụ toàn quốc duy nhất lúc đó chỉ có nghĩa vụ quân sự, và phạm vi của nó được đo bằng một thuật ngữ nhẫn tâm "đếm xác". Đến giữa tháng 4, việc đếm xác đó đã đếm luôn cả người bạn thời niên thiếu của tôi là Bert Jeffries Đa đớn trước biến cố đó, vợ anh đã sinh non, và đứa trẻ, cũng như tôi lớn lên mà chỉ được nghe kể kỷ niệm về cha mình. Khi Bert chết an đang phục vụ trong thủy quân lục chiến với hai người bạn thân Hot Springs là Ira Stone và Duke Watts. Gia đình anh được chọn một người đưa xác anh về nhà, một lựa chọn mang tính sinh tử vì theo quy định của quân đội thì người đó không phải quay lại chiến trường. Họ đã chọn Ira vì anh đã bị thương ba lần, và một phần vì Duke di từng thoát chết trong đường tơ kẽ tóc khi ấy chỉ còn hơn một tháng nữa sẽ hết hạn phục vụ. Tôi khóc cho bạn mình, và lại tự hỏi rằnị quyết định đi học ở Oxford của tôi là do tham sống hay do phản đối chiến tranh. Tôi ghi vào nhật ký rằng "đặc quyền được sống về hoãn dịch... là không thể biện minh, nhưng có lẽ rủi thay, sống với đặc quyền này thật khó khăn".
Ở quê nhà Mỹ, phong trào phản chiến tiếp tục không ngừng. Năm 1969, 448 trường đại học đã bãi khóa hoặc bắt buộc phải đóng cửa. Ngày 22 tháng 4, tôi rất ngạc nhiên khi đọc trên tờ The Guardian rằng Ed Whitfield ở Little Rock đã dẫn một nhóm người da đen có vũ trang xông vào chiếm một tòa nhà trong trường Đại học Cornell ở Ithaca, New York. Chỉ mới mùa hè trước, Ed còn bị nhóm da đen vũ trang ở Little Rock chỉ trích khi chúng tôi cùng làm việc giúp Fulbright tái đắc cử.
Một tuần sau, ngày 30 tháng 4, chiến tranh đã gõ cửa nhà tôi bằng một cách kỳ quặc điển hình cho thời kỳ lạ lùng ấy. Tôi nhận được thông báo quân dịch: tôi phải trình diện vào ngày 21 tháng 4. Rõ ràng là giấy được gửi đi từ ngày 1 tháng 4, nhưng cũng như phiếu bầu cử tri vắng mặt vài tháng trước, nó được gửi đi bằng đường bộ. Tôi gọi về nhà để chắc chắn ban tuyển quân đã biết tôi vắng mặt chín ngày và hỏi xem tôi phải làm gì. Họ nói gửi thư bằng đường bộ là lỗi của họ, và bên cạnh đó, theo luật tôi được kết thúc nôt khóa học, vì thế tôi được hướng dẫn là khi học xong thì về nhà đê được giao nhiệm vụ.
Tôi quyết định tận hưởng nốt thời gian còn lại của mình ở Oxford, nhấm nháp từng khoảnh khắc trong những ngày dài của mùa xuân nước Anh. Tôi đến ngôi làng nhỏ có tên Stoke Poges để tham quan sân nhà thờ tuyệt đẹp nơi chôn Thomas Gray và đọc những dòng thơ "Khúc bi thảm viết ở sân nhà thờ quê" của ông, sau đó đến London coi hòa nhạc và thăm Nghĩa trang Highgate nơi Karl Marx được chôn dưới bức tượng bán thân đầy quyền năng giống như ông. Tôi cố dành thời gian nhiều nhất có thể ở bên những bạn học bổng Rhodes khác, đặc biệt là Strobe Talbott và Rick Stearns mà tôi vẫn đang học hỏi. Trong khi ăn sáng tại quán George, một quán cà phê kiểu cũ trên lầu hai của chợ Oxford có mái che, tôi và Paul Parish bàn với nhau về đơn xin từ chốì quân dịch có ý thức của cậu ấy, và tôi ủng hộ bằng cách viết thư gửi cho ban tuyển quân.
Cuối tháng 5, tôi cùng với Paul Parish và bạn gái cậu ấy, Sara Maitland, một phụ nữ Scotland sắc sảo và tuyệt vời sau này trở thành nhà văn khá, đến Royal Albert Hall ở London để nghe ca sĩ nhà thờ lừng danh Mahalia Jackson hát. Cô ấy thật tuyệt vời với chất giọng âm vang và một niềm tin mãnh liệt và trong sáng. Cuối buổi hòa nhạc, các khán giả trẻ vây quanh sân khấu và la hét kêu gọi ca sĩ tiếp tục biểu diễn. Họ vẫn khao khát tin vào những gì lớn lao hơn chính họ. Và tôi cũng thế.
Ngày 28 tôi tổ chức tiệc chia tay các bạn ở Univ: bạn học ở trường tôi từng cùng chơi bóng bầu dục và ăn nhậu; Douglas và các lao công khác trong trường; Archie; thầy giám thị và cô Williams; George Cawkwell; và một nhóm hổ lốn những sinh viên Mỹ, Ân, Caribê và Nam Phi mà tôi quen biết. Tôi chỉ muôn cảm ơn họ vì đã là một phần lớn trong thời gian tôi ở Oxford. Bạn bè tặng tôi nhiều món quà chia tay: một cây gậy, một cái nón len kiểu Anh, cuốn Madama Bovary - Bà Bovary bìa mềm của Flaubert, tôi vẫn còn giữ.
Tôi dành phần đầu tháng 6 để thăm thú Paris. Tôi không muốn về nhà mà chưa kịp thăm Paris. Tôi lấy một phòng ở khu Latinh, đọc nốt cuốn Down and Out in Paris and London - Bần cùng ở London và Paris của George Orwell, và thăm hết các thắng cảnh, kể cả đài kỷ niệm Holocaust (tưởng niệm những người Do Thái bị Đức Quốc xã giết trong Thế chiến hai - ND) ngay sau lưng nhà thờ Đức Bà. Rất dễ bỏ qua nơi này nhưng bỏ công tìm kiếm thì quả là xứng đáng. Cứ đi xuống thang ở cuối đảo sẽ đến một khoảng không gian nhỏ, quay lại, và bạn sẽ thấy mình đang đứng trước một phòng hơi ngạt nhỏ.
Người hướng dẫn và đi cùng tôi trong chuyến này là Alice Chamberlin, người tôi quen qua đám bạn ở London. Chúng tôi đi ngang qua khu Tuileries, dừng lại ở bên hồ ngắm trẻ con chơi thuyền buồm nhỏ của chúng; ăn các món rẻ mà thú vị của Việt Nam Algerie, Ethiopie, và Tây Ân; ngắm nhìn đồi Montmartre; và thăm nhà thờ Sacré Coeur - nơi tôi vừa tôn kính vừa khôi hài đốt một ngọn nến cho bạn tôi, tiến sĩ Victor Bennett vừa mới chết mấy ngày trước và dù là người tài giỏi nhưng lại chống Công giáo một cách mù quáng. Tôi cố gắng bao biện cho anh. Tôi chỉ có thể làm được như thế so với những gì anh ấy đã làm cho mẹ, bố và tôi.
Khi tôi quay về Oxford đúng vào mùa mà trời hầu như lúc nào cũng sáng. Một lần vào sáng sớm, các bạn người Anh dẫn tôi lên mái nhà của một tòa nhà của Univ để ngắm mặt trời mọc trên quang cảnh Oxford. Chúng tôi phấn khích đến mức xông cả vào nhà bếp của Univ lấy bánh mì, cà chua và phô mai rồi quay về phòng tôi ăn sáng.
Ngày 24 tháng 6, tôi đến chào tạm biệt Bill Williams. Ông chúc tôi may mắn và nói ông chờ đợi tôi trở thành "một tay cựu sinh viên vênh váo và nhiệt tình đến phát ớn". Đêm đó tôi ăn bữa tối cuối cùng ở Oxford tại quán rượu với Tom Williams và các bạn của cậu ấy. Ngày 25, tôi từ biệt Oxford - lúc ấy tôi tưởng đây là lần vĩnh biệt luôn. Tôi đến London gặp Frank, Mary và Lyda Holt. Sau khi chúng tôi đến dự phiên họp tối của nghị viện, rồi ông thẩm phán và bà Holt về nhà thì tôi đưa Lyda đến gặp một số người bạn cùng ăn bữa tối cuối cùng ở Anh, ngủ vài tiếng ở chỗ David Edwards, sau đó dậy sớm và ra sân bay cùng sáu người bạn tiễn tôi. Không biết đến bao giờ và liệu chúng tôi có gặp lại nhau hay không. Tôi ôm từ biệt họ và chạy về phía máy bay.