Chương 16
Tôi đến New York lúc 9 giờ 45 tối, trễ chín tiếng vì máy bay cả hai đầu đều đến trễ. Về đến Manhattan đã quá nửa đêm nên tôi quyết định thức luôn tới sáng chờ chuyến bay sớm nhất. Tôi đánh thức Martha Saxton dậy và chúng tôi nói chuyện suốt hai giờ đồng hồ ở bậc thềm trước cửa nơi cô ở tại Upper West Side, sau đó tôi đến một cửa tiệm và ăn chiếc bánh hamburger ngon đầu tiên trong nhiều tháng qua, nói chuyện với hai ông tài xế taxi, đọc What is History? - Lịch sử là gì? của E.H.Carr, và suy nghĩ về năm khác thường mà tôi vừa trải qua và những gì chờ đợi ở phía trước. Và tôi ngắm nghía món quà chia tay dễ thương nhất: hai tấm thiệp nhỏ cổ hàng chữ tiếng Pháp "L'Amitie" và "Sympathie". Đó là quà tặng của Anik Alexis, một phụ nữ da đen rất đẹp người vùng Caribe sống ở Paris và đang hẹn hò với Tom Williams. Nikki đã để dành những tấm thiệp này được tám năm, từ hồi còn học trung học. Tôi rất quý chúng vì chúng thể hiện những món quà mà tôi đã trao đi, chia sẻ và nhận được từ người khác. Tôi đã lồng kiếng những tấm thiệp này và trong suốt 35 năm qua, mỗi lần sống ở đâu tôi đều treo chúng lên.
Tôi rời quán ăn đêm với gần 20 đôla trong túi để về Arkansas, nhưng tôi viết ở trang cuối cùng trong nhật ký rằng tôi cảm thấy mình như "một người giàu có thực sự, đầy may mắn, nhiều bạn bè, và hy vọng và niềm tin cụ thể hơn chút ít và suy nghĩ rõ ràng hơn con người đã bắt đầu viết những dòng này hồi tháng 11 năm ngoái". Vào thời kỳ điên rồ ấy, tâm trạng của tòi lên xuống như thang máy Và không biết là hay hay dở nữa, Denise Hyland đã gửi cho tôi thêm quyển nhật ký thứ hai hồi mùa xuân để ghi lại theo thứ tự thời gian bất cứ việc gì xảy ra tiếp theo.
Khi về đến nhà vào cuối tháng 6, tôi còn một tháng trước khi ra trình diện và được tự do thu xếp và chọn quân binh chủng nhập ngũ. Không còn chỗ trong Vệ binh quốc gia hay quân dự bị. Tôi quay sang không quân, nhưng được biết tôi không thể trở thành phi công lái máy bay vì thị lực kém. Mắt trái tôi nhìn yếu và lệch ra ngoài từ khi còn nhỏ. Nó đã tự điều chỉnh rất nhiều nhưng tôi vẫn không thể tập trung hết thị lực vào một điểm, và cứ như thế mà lên máy bay thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Tôi cũng đi khám sức khỏe để vào chựơng trình sĩ quan hải quân nhưng cũng không đậu, lần này vì nghe kém, một vấn đề tôi đã không chú ý và phải đến một thập kỷ sau khi theo chính trị tôi mới biết vì thường không thể nghe hay hiểu người ta nói gì với tôi trong đám đông. Lựa chọn khả dĩ còn lại có vẻ là đăng ký nhập học vào trường luật và gia nhập binh chủng huấn luyện sĩ quan dự bị (ROTC) của lục quân ở Đại học Arkansas.
Ngày 17 tháng 7, tôi đến Fayetteville và sau hai tiếng tôi được cả hai nơi chấp nhận. Sĩ quan phụ trách chương trình - đại tá Eugene Holmes bảo tôi rằng ông ta nhận tôi vì khi làm sĩ quan tôi có thể phục vụ đất nước tốt hơn là lính quân dịch. Chỉ huy phó của ông là trung tá Clint Jones có vẻ bảo thủ hơn và còn hơi nghi ngờ về tôi nhưng chúng tôi đã nói chuyện vui vẻ về con gái ông ấy mà tôi từng biết và quý mến ở Washington. Gia nhập ROTC có nghĩa là tôi có thể phục vụ ngay sau khi học xong trường luật. Rõ ràng, đến mùa hè sau họ mới chính thức gọi tôi vì tôi phải nghỉ hè trước khi vào khóa ROTC, nhưng chỉ cần ký thư đăng ký là đủ cho ban tuyển dụng hoãn thời gian đi lính của tôi và xếp loại tôi là 1-D dự bị. Lòng tôi vui buồn lẫn lộn. Tôi biết mình có cơ hội né Việt Nam, nhưng rồi vẫn có một ai đó sẽ bước lên chiếc xe buýt (chở binh sĩ đi huân luyện và ra chiến trường - ND) trong 10 ngày nữa và có thể tôi cũng nên như vậy".
Nhưng 10 ngày sau tôi không lên xe buýt. Thay vào đó tôi ngồi trên xe mình lái xuông Texas để gặp gỡ những bạn học Georgetown đang trong quân ngũ, Tom Campbell, Jim Moore và Kit Ashby. Trên đường đến và rời khỏi nơi ấy, tôi suy nghĩ về những điều làm suy nghĩ tôi quay về với nước Mỹ. Houston và Dallas đầy rẫy những tổ hợp căn hộ mới, lộn xộn không theo mẫu chuẩn nào. Tôi tưởng tượng đó là những làn sóng của tương lai và tôi chưa chắc chắn mình có thích đến đấy hay không. Tôi nhận ra ý nghĩa văn hóa đáng kể trong những tấm dán trên cản xe và bảng số xe cá nhân mà tôi đã nhìn thây. Tấm dán tôi thích nhất có dòng chữ: "Đừng đổ lỗi cho Chúa Jesus nếu bạn phải xuống địa ngục". Và bảng số xe hay nhất, thật không thể tin được, lại gắn vào một chiếc xe tang: "Hộp tiêu tùng". Rõ ràng những ai đọc những dòng này được mong đợi là phải sợ địa ngục nhưng biết cười ngạo trước cái chết.
Tôi thì chưa đến giai đoạn cười cợt ấy, nhưng tôi luôn luôn có ý thức và tất nhiên không hề thấy thoải mái chút nào về kiếp phù du của chính mình. Có thể vì cha tôi đã chết trước khi tôi ra đời nên tôi bắt đầu nghĩ đến cái chết từ khi còn nhỏ. Tôi luôn luôn thấy nghĩa địa có gì đó hấp dẫn và rất thích vào đó. Trên đường về nhà từ Texas, tôi ghé thăm Hope, thăm ông Buddy và bà Ollie, và viếng mộ cha và ông bà tôi. Khi đang nhổ cỏ quanh mộ của họ, tôi chợt thảng thốt nghĩ rằng họ sống ở trên đời thật ngắn ngủi: cha tôi được 28 năm, ông tôi được 58 năm, bà 66 năm (và ở Hot Springs, bố dượng tôi được 57 năm). Tôi biết có thể tôi sẽ không sống lâu và tôi muốn tận hưởng cho hết cuộc sông. Thái độ của tôi đối với cái chết giống như chuyện cười về sơ Jones, một phụ nữ ngoan đạo nhất trong nhà thờ. Một chủ nhật nọ, vị mục sư tẻ ngắt trong hội thánh của bà giảng đạo về cuộc đời ông. Cuối cùng ông ta hét lên: "Tôi muốn tất cả những ai muốn lên thiên đàng đứng dậy". Các con chiên bật dậy khỏi ghê ngồi, trừ sơ Jones. Mục sư của sơ xám mặt lại, nói: "Sơ Jones, sơ không muốn lên thiên đàng khi đã chết hay sao?". Người phụ nữ ngoan đạo nhanh nhẹn đứng dậy và nói: "Thưa cha, có chứ ạ. Con xin lỗi. Con cứ nghĩ là cha đang gọi mọi người đi ngay bây giờ".
Sáu tuần kế tiếp ở Hot Springs thú vị hơn tôi tưởng. Tôi dành một tuần để giúp một người đàn ông 67 tuổi dựng một trong những ngôi nhà tiền chế của Jeff ở khu Story, phía tây của Hot Springs Ngày nào ông già cũng cùng tôi làm việc đến mệt phờ và chia sẻ với tôi sự thông thái giản dị và thói nghi ngờ nhà quê của ông. Mới tháng trước, hai phi hành gia Buzz Aldrin và Neil Armstrong của tàu Apollo 11, bỏ lại đồng nghiệp của mình là Michael Collins trên tàu Columbia và đặt chân lên mặt trăng, vượt thời hạn năm tháng so với mục tiêu của Tổng thống Kennedy là sẽ đưa người lên mặt trăng trước khi thập niên kết thúc. Ông thợ mộc già hỏi tôi có tin việc này là thực hay không. Tôi nói tôi tin chứ, tôi xem trên tivi mà. Ông già không đồng ý, ông nói ông không tin chút nào, rằng "mấy bố truyền hình" có thể làm cho những sự việc không có thật trông như thật. Lúc đó, tôi nghĩ ông già thật kỳ quặc. Trong tám năm ở Washington tôi đã thấy nhiều thứ trên tivi làm cho tôi băn khoăn liệu có phải ông ấy đã vượt trước thời đại mình.
Tôi dành nhiều buổi tôi và nhiều ngày ở bên Betsey Reader, người học trên tôi một năm ở trường trung học và đang làm việc ở Hot Springs. Khôn ngoan, thông thái và tốt bụng, cô là liều thuốc tuyệt vời cho những nỗi lo lắng không dứt của tôi. Chúng tôi được mời đến YMCA (Liên đoàn nam thanh niên Cơ đốc, một tổ chức tình nguyện thực hiện các dịch vụ cộng đồng, y tế - ND) với tư cách người sắp trưởng thành đến tham dự một sô sự kiện dành cho học sinh trung học và đã kết nghĩa với ba người trong số đó. Jeff Rosensweig, con trai bác sĩ nhi khoa của tôi và rất hiểu biết về chính trị; Jan Dierks, một cô gái thông minh, lặng lẽ rất quan tâm đến dân quyền; và Glenn Mahone, một chàng da đen thời trang và có duyên ăn nói, để tóc Afro (kiểu tóc xù, dày và bồng to thành hình tròn quanh đầu - ND) và thích mặc dashiki châu Phi, áo sơmi dài, nhiều màu mặc trùm ra ngoài quần tây. Chúng tôi cùng đi khắp nơi và rất vui vẻ bên nhau.
Mùa hè đó ở Hot Springs có một số sự kiện phân biệt chủng tộc và bầu không khí rất căng thẳng. Tôi và Glenn nghĩ rằng chúng tôi có thể giải tỏa sự căng thẳng đó bằng cách thành lập ban nhạc rock đa chủng tộc và tổ chức một buổi khiêu vũ miễn phí ở bãi đậu xe Siêu thị Kmart. Cậu ấy sẽ hát còn tôi thổi saxophone. Vào ngày đã định mọi người tụ tập khá đông. Chúng tôi chơi trên một chiếc xe tải không mui và mọi người nhảy múa và trò chuyện dưới đường. Mọi việc suôn sẻ trong khoảng một giờ đồng hồ. Sau đó một anh da đen trẻ, đẹp trai mời một cô gái tóc vàng rất đẹp nhảy. Họ nhảy rất đẹp, chắc là quá đẹp, quá sức chịu đựng của một số tay miền Nam vênh váo. Một trận ẩu đả nổ ra, rồi trận nữa, rồi trận nữa. Chưa kịp phản ứng gì thì chúng tôi đã thấy trước mắt là một trận chiến hỗn loạn và xe cảnh sát đã đến đầy khu đậu xe. Sáng kiến đầu tiên của tôi nhằm hòa giải chủng tộc kết thúc như vậy đó.
Một hôm, Mack McLarty, người được bầu vào quốc hội bang ngay khi học xong, đến Hot Springs để dự một cuộc họp của các đại lý bán xe Ford. Anh ấy đã lập gia đình và dấn thân vào kinh doanh và chính trị. Tôi muốn gặp và quyết định trêu chọc bạn mình trước mặt các đồng nghiệp đáng kính của anh ấy. Tôi thu xếp gặp Mack tại một tòa nhà ngay bên ngoài trung tâm hội nghị. Anh ấy không biết tôi đã để râu và tóc dài. Như thế đã là tệ lắm rồi, nhưng tôi rủ thêm ba người nữa: hai cô bạn gái người Anh vừa dừng ở Hot Springs chơi trong chuyến đi xuyên quốc gia bằng xe buýt và nếu bạn ròng rã trên xe buýt hai ba ngày thì trông cũng chỉ như họ mà thôi; và Glenn Mahone trong bộ đồ dashiki với dáng vẻ chầu Phi. Trông chúng tôi như những kẻ tị nạn từ liên hoan Woodstock (liên hoan nhạc rock tại Mỹ với nhiều thanh niên hippy ăn mặc tơi tả - ND) về. Khi Mack cùng hai người bạn bước ra, chúng tôi chắc hẳn đã làm cho anh ấy lên ruột. Nhưng Mack không hề biến sắc chút nào, anh chào hỏi và giới thiệu chúng tôi làm quen. Dưới tấm áo thẳng thớm và bộ tóc cắt ngắn của anh là một trái tim và khối óc cảm thông với hòa bình và phong trào dân quyền. Mack vẫn gắn bó với tôi qua những thăng trầm suốt cuộc đời, nhưng tôi không bao giờ làm khó anh ấy như vậy nữa.
Mùa hè trôi dần qua, và tôi càng lúc càng cảm thấy bối rối về quyết định gia nhập ROTC và đi học trường luật Arkansas. Tôi bắt đầu mất ngủ và trải qua nhiều đêm trăn trở trên chiếc ghế dài màu trắng trong phòng - chiếc ghế tôi đã ngồi theo dõi bài phát biểu "Tôi có một giấc mơ" của Martin Luther King Jr. sáu năm trước. Tôi đọc cho đến khi ngủ thiếp đi được vài tiếng. Vì tôi gia nhập ROTC trễ nên mùa hè năm sau tôi mới có thể tham dự khóa huấn luyện mùa hè, vì thế đại tá Holmes đồng ý cho tôi quay lại Oxford học năm thứ hai, điều này có nghĩa là phải đến bốn thay vì ba năm nữa tôi mới có thể bắt đầu nghĩa vụ quân sự sau khi học xong trường luật. Tôi vẫn không áy náy với quyết định của mình.
Cuộc trò chuyện với anh trai của mục sư John Miles làm tôi băn khoăn hơn nữa. Warren Miles bỏ học năm 18 tuổi để đăng lính thủy quân và đến Triều Tiên, ở đó anh bị thương trong chiến đấu. Anh về nhà và đi học ở trường Hendrix và trúng học bổng Rhodes. Anh khuyến khích tôi bỏ sự an toàn hiện nay đi, gia nhập thủy quân và đến Việt Nam để ít ra còn học được một cái gì đó. Anh gạt ngay ý kiến chống chiến tranh của tôi và nói rằng tôi không thể làm được gì về chiến tranh cả, và chừng nào chiến tranh còn thì những người đứng đắn còn phải phải ra trận, trải nghiệm, học hỏi và ghi nhớ. Đúng là một lập luận đanh thép. Nhưng ngay lúc này tôi đã ghi nhớ. Tôi nhớ những gì đã được biết ở ủy ban Đối ngoại, kể cả chứng cớ rõ ràng rằng người Mỹ đang bị lừa dối về cuộc chiến tranh này. Và tôi nhớ lá thư của Bert Jeffries bảo tôi nên tránh xa chiến tranh. Tôi thực sự bị giằng xé. Là con của một cựu chiến binh Thế chiến hai và như tất cả mọi người lớn lên theo phim của John Wayne, tôi luôn luôn ngưỡng mộ những người trong quân ngũ. Bây giờ tôi tìm lại trong tâm khảm mình, cô gắng xác định việc tôi không muốn ra trận là vì niềm tin hay vì nhút nhát. Xét theo kết cục mọi việc tiến triển, bây giờ tôi vẫn không chắc mình đã từng trả lời được những câu hỏi đó.
Gần cuối tháng 9, trong khi đang cố gắng quay lại Oxford, tôi bay đến Vườn nho Martha để tham dự buổi họp mặt những người hoạt động phản chiến từng làm việc cho Gene McCarthy. Tất nhiên, tôi chưa từng làm cho ông ấy. Rick Stearns mời tôi, tôi nghĩ anh ấy biết tôi muốn đến và họ muốn có thêm một người miền Nam. Người miền Nam duy nhất ở cuộc họp này là Taylor Branch, vừa tốt nghiệp đại học Bắc Carolina và mới về Georgia đăng ký bầu cử cho người da đen. Taylor sau này có một sự nghiệp làm báo thành công, giúp John Dean nổi tiếng trong vụ Watergate và giúp cầu thủ bóng rổ danh tiếng Bill Russell viết hồi ký, sau đó viết cuốn sách xuất sắc lãnh giải Pulitzer, Parting the Waters - Chia đôi làn nước, cuốn sách đầu tiên trong bộ ba về Martin Luther King Jr. và phong trào dân quyền. Tình bạn giữa tôi và Taylor đưa chúng tôi đến cuộc vận động tranh cử cho McGovern năm 1972, và sau đó, năm 1993, chúng tôi gặp gỡ nhau hàng tháng để bàn bạc nhiệm kỳ tổng thống của tôi, nếu không ký ức của tôi về những năm tháng đó sẽ mãi mãi phai mờ.
Bên cạnh Rick và Taylor, còn có bốn người khác ở cuộc tái ngộ đó mà tôi vẫn giữ liên lạc trong nhiều năm sau này: Sam Brown, một trong những lãnh tụ nổi bật của phong trào sinh viên phản chiến, sau này tham gia chính trường Colorado và, khi tôi là tổng thống, Sam Brown phục vụ nước Mỹ trong Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu; David Mixner, người đã bắt đầu tổ chức các công nhân nhập cư lúc 14 tuổi, đã thăm tôi vài lần ở Anh và sau này chuyển đến California, tích cực chống AIDS và đấu tranh cho quyền của giới đồng tính, và ủng hộ tôi năm 1992; Mike Driver trở thành một trong những người bạn thân thiết nhất của tôi trong 30 năm tiếp theo; và Eli Segal, người tôi đã gặp ở cuộc vận động tranh cử của McGovern, sau này là chánh văn phòng của liên minh tranh cử Clinton-Gore.
Tất cả chúng tôi tụ tập vào kỳ cuối tuần đó sau này đã sông những cuộc đời mà vào đầu mùa thu năm 1969 ây chúng tôi không thể mường tượng trước được. Chúng tôi chỉ muốn giúp chấm dứt chiến tranh. Cả nhóm đã lên kế hoạch phản kháng quy mô lớn, có tên Vietnam Moratorium, và tôi góp phần nhỏ nhoi theo khả năng của mình cho những dự tính ấy. Nhưng hầu như lúc nào tôi cũng nghĩ về chuyện đi quân dịch, và càng ngày càng cảm thấy khó chịu trước cách tôi xử lý việc này. Ngay trước khi rời Arkansas đến Vườn nho Martha, tôi viết một bức thư cho Bill Armstrong, chủ tịch ủy ban tuyển quân địa phương, nói rằng tôi thực sự không muôn theo chương trình ROTC và yêu cầu ông ấy rút tình trạng 1- D của tôi lại và cho tôi quay về chế độ quân dịch. Strobe Talbott đến Arkansas thăm tôi và cùng bàn thảo xem tôi có nên gửi thư đi hay không. Tôi đã không gửi.
Ngày tôi bay đi, báo chí địa phương loan tin trên trang nhất rằng trung úy lục quân Mike Thomas, người đã đánh bại tôi để giành chức chủ tịch sinh viên ở trường trung học, đã hy sinh ở Việt Nam. Đơn vị của Mike bị tấn công và phải ẩn nấp. Anh ấy chết khi quay lại vào làn đạn để cứu một người cùng nhóm bị kẹt trong xe; một quả đạn cối đã giết cả hai người. Sau khi Mike chết, lục quân tặng anh huân chương Sao Bạc, Sao Đồng và Trái tim Màu Tím. Đến lúc đó đã có gần 39.000 người Mỹ chết ở Việt Nam, và rồi sẽ còn thêm 19.000 người nữa thiệt mạng.
Ngày 25 và 26 tháng 9, tôi viết vào nhật ký: "Đang đọc The Unfinished Odyssey of Robert Kennedy - Tấn thảm kịch dang dở của Robert Kennedy [của David Halberstam] tôi bỗng nhớ là tôi không tin vào chế độ hoãn dịch... Tôi không thể đăng ký vào ROTC được". Trong vài ngày kế tiếp, tôi gọi Jeff Dwire nói rằng tôi muốn được đưa lại vào danh sách quân dịch, và yêu cầu ông ấy nói lại với Bill Armstrong. Ngày 30 tháng 10, ban tuyển quân lại đưa tên tôi vào danh sách và xếp ở tình trạng 1-A. Ngày 1 tháng 11, Tổng thống Nixon đã ra lệnh thay đổi chính sách Hệ thống phục vụ tuyển chọn để cho phép các sinh viên cao học kết thúc toàn bộ năm học họ đang theo chứ không chỉ học kỳ, vì thế đến tháng 7 tôi mới được gọi. Tôi không nhớ, và nhật ký của tôi cũng không ghi rõ rằng tôi đã nhờ Jeff đến nói chuyện với ban tuyển quân địa phương trước hay sau khi tôi biết về lệnh miễn trừ cho sinh viên cao học được gia hạn hết năm học. Tôi chỉ nhớ cảm giác nhẹ nhõm vì có thêm thời gian ở Oxford và điều kiện tuyển quân đã thay đổi: tôi chấp nhận sự thật rằng tôi có thể bị gọi vào cuối năm học ở Oxford.
Tôi cũng nhờ Jeff nói chuyện với đại tá Holmes. Tôi vẫn cảm thấy có nghĩa vụ đối với ông ấy: ông ấy đã giúp tôi hoãn điều động vào ngày 28 tháng 7. Mặc dù tôi lại được xếp loại 1-A, nếu ông ấy giữ yêu cầu đăng ký tôi vào chương trình ROTC bắt đầu vào mùa hè tới, tôi nghĩ tôi vẫn phải làm thế. Jeff nhắc tôi rằng đại tá chấp nhận quyết định của tôi nhưng ông ấy nghĩ tôi đã sai lầm.
Ngày 1 tháng 12, theo một đạo luật do Tổng thống Nixon ký năm ngày trước, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ áp dụng luật gọi quân dịch bốc thăm, trong đó tất cả các ngày trong năm sẽ được rút thăm. Thứ tự ngày sinh nhật của bạn sẽ quyết định thứ tự bạn được gọi. Nsày 19 tháng 6 là số 311. Ngay cả với số rút thăm lớn, trong nhiều tháng sau đó, tôi vẫn nghĩ tôi có nhiều khả năng bị động viên. Ngày 21 tháng 3 năm 1970, tôi nhận được thư của Lee Williams cho biết ông ấy đã nói chuyện với đại tá Lefty Hawkins, người đứng đầu Hệ thống phục vụ tuyển chọn của Arkansas và ông ta cho biết tất cả chúng tôi rồi sẽ bị động viên.
Khi tôi có số quân dịch lớn tôi gọi cho Jeff và nhờ Jeff nói với đại tá Holmes rằng khi tôi quay lại đi dự bị thì tôi chưa biết việc này có thể xảy ra và tôi hiểu ông vẫn có thể gọi tôi vào ROTC. Tôi cảm ơn ông đã bảo vệ tôi mùa hè trước, nói với ông ấy tôi rất ngưỡng mộ ông ấy, và tôi nghi ngờ rằng biết đâu ông ấy lại ngưỡng mộ tôi nếu ông biết thêm về niềm tin và các hoạt động chính trị của tôi: "ít ra ông cũng có thể nghĩ tôi phù hợp với quân dịch hơn là ROTC". Tôi mô tả công việc làm cho ủy ban Đối ngoại, "một quãng thời gian mà ít người có đủ thông tin về Việt Nam như tôi". Tôi nói với ông ấy sau khi rời Arkansas mùa hè trước, tôi làm một số việc cho Vietnam Moratorium ở Washington và ở Anh. Tôi cũng nói cho ông biết việc tôi đã nghiên cứu về quân dịch ở Georgetown và đã kết luận rằng chế độ quân dịch chỉ có lý khi quốc gia và cuộc sông của chúng ta bị lâm nguy như thời Thế chiến hai chẳng hạn. Tôi bày tỏ lòng thông cảm với những người từ chối đi quân dịch vì lý do lương tâm. Tôi nói với ông rằng Frank Aller, bạn cùng phòng của tôi, là "một trong những người dũng cảm nhất, tốt nhất mà tôi biết. Đất nước anh cần những người như anh nhiều hơn họ vẫn tưởng. Việc anh bị coi là tội phạm đúng là một sự phi lý ghê tởm". Rồi tôi thú nhận chính mình cũng đã nghĩ đến việc đăng ký và chấp nhận quân dịch "bất chấp niềm tin của mình vì một lý do: duy trì khả năng chính trị của tôi trong hệ thống". Tôi cũng thú nhận mình đã yêu cầu được nhận vào chương trình ROTC bởi vì đó là cách duy nhất tôi "có thể, nhưng không chắc chắn tránh được cả Việt Nam lẫn việc phải phản kháng quân dịch". Tôi thú nhận với đại tá rằng "sau khi ký thư xin gia nhập ROTC tôi bắt đầu băn khoăn liệu sự thỏa hiệp của tôi với chính mình có đáng bị chê trách hơn là đi quân dịch hay không, bởi tôi không hề thích thú gì với chính chương trình ROTC, và tất cả những việc tôi làm đều có vẻ như nhằm tránh cho bản thân khỏi nguy hại đến thân thể... sau khi chúng ta đã thỏa thuận và khi ông gửi giấy hoãn dịch 1-D của tôi cho ban tuyển quân trong tôi bắt đầu xuất hiện nỗi day dứt rằng tôi đã đánh mất lòng tự trọng và tự tin". Sau đó tôi còn nói là tôi đã viết thư cho ban tuyển quân vào ngày 12 tháng 12 để yêu cầu được quay lại diện đi quân dịch nhưng đã không gửi thư đi. Tôi không nhắc gì đến việc nhờ Jeff Dvvire thu xếp cho tôi được xếp trở lại loại 1-A cũng như chuyên ban tuyển quân địa phương đã làm như vậy trong lần nhóm họp hồi tháng 10, bởi vì tôi biết Jeff đã cho đại tá biết. Tôi hy vọng "việc kể lại câu chuyện của tôi sẽ giúp ông hiểu rõ hơn rằng đã có biết bao nhiêu người tốt vẫn yêu mến đất nước nhưng không ưa cái quân đội mà ông và những người tốt khác đã dành nhiều năm, và đôi khi là trọn đời, để phụng sự". Lúc ấy tôi suy nghĩ như vậy, tâm trạng của một thanh niên đang thực sự băn khoăn và giằng xé về chiến tranh. Dù gì đi nữa, tôi cũng coi mình có nghĩa vụ tham gia ROTC như đã hứa nếu đại tá Holmes gọi đến tôi. Vì ông ấy không trả lời thư của tôi nên trong một vài tháng tôi không biết ông ấy đã làm gì.
Tháng 3 năm 1970, cùng lúc được tin của Lee Williams đang chờ số quân dịch được rút thăm, tôi nhận được hai cuộn băng của gia đình tôi thực hiện khi David Edwards thăm họ ở Hot Springs. Cuộn băng đầu tiên toàn những cảnh vui vẻ quanh bàn bida nhà tôi, kết thúc bằng cảnh Roger chơi saxophone trong khi King, con chó chăn cừu của gia đình, tru tréo bên cạnh. Cuộn băng thứ hai là lời nhắn của mẹ và Jeff. Mẹ nói rất yêu tôi và khuyên tôi phải nghỉ ngơi hơn nữa. Jeff thông tin thêm về chuyện trong gia đình và nói tiếp:
"Cha đã gọi cho đại tá mấy hôm trước và đã ghé thăm ông ấy. Ông ấy chúc con khỏe mạnh và hy vọng con sẽ thu xếp thời gian ghé thăm và chào ông ấy nếu con về nhà. Theo ông ấy thì cha không cần phải lo lắng gì thêm về chương trình ROTC, bởi ông ấy hiểu về tình hình chung của những người trẻ tuổi rõ hơn người ta nghĩ."
Thế là đến tuần thứ hai của tháng 3 năm 1970, tôi đã biết mình không còn nghĩa vụ với chương trình ROTC, nhưng quân dịch thì vẫn còn.
Hóa ra Lee Williams đã sai. Chiến tranh xuống thang đã làm nhu cầu tân binh đến mức độ số rút thăm của tôi không bao giơ bị gọi. Tôi luôn cảm thấy không phải về việc trốn chạy khỏi những nguy cơ đã cướp đi sinh mạng của nhiều người thuộc thế hệ của tôi - những người cũng có quyền có tương lai như tôi. Qua thời gian, khi là thống đốc, khi đứng đầu lực lượng Vệ binh quốc gia Arkansas, và đặc biệt khi là tổng thống, càng thấy quân đội Mỹ nhiều hơn, tôi càng ao ước hồi trẻ mình được là một phần của nó, mặc dù tình cảm của tôi về chiến tranh Việt Nam thì vẫn thế.
Nếu trước đây tôi không đến Georgetown và làm việc cho ủy ban Đối ngoại, có thể tôi đã quyết định khác đi về việc quân dịch. Trong thời chiến tranh Việt Nam, đã có 16 triệu người né quân dịch theo nhiều cách hợp pháp; 8,7 triệu người tự nguyện đăng lính; 2,2 triệu người bị gọi quân dịch; chỉ có 209.000 người bị coi là trốn hoặc chống đối quân dịch, và 8.750 người trong số đó bị kết tội.
Những người trong chúng tôi đáng lẽ có thể đi Việt Nam nhưng không đi dù sao vẫn bị ảnh hưởng, đặc biệt nếu chúng tôi có bạn bị tử trận. Tôi luôn quan tâm xem những người từng tránh quân dịch rồi sau đó tham gia chính trị xử lý các vấn đề liên qủan đến quân ngũ và bất đồng quan điểm chính trị như thế nào. Một số người trở nên diều hâu quá cỡ hoặc ái quốc cực đoan, tuyên bố việc họ không đi lính vì lý do cá nhân là chính đáng trong khi vẫn lên án những ai chông đối lại cuộc chiến mà chính họ lẩn tránh. Đến năm 2002, chuyện Việt Nam rõ ràng đã lùi sâu vào góc khuất tâm lý người Mỹ đến mức ở Georgia, nghị sĩ Cộng hòa Saxby Chambliss, người được miễn quân dịch thời chiến tranh Việt Nam, đã có thể đánh bại Thượng nghị sĩ Max Cleland, người mất chân tay ở Việt Nam, bằng cách chất vấn lòng yêu nước cũng như cam kết của ông này đối với an ninh của nước Mỹ.
Trái hẳn với hành động của những tay diều hâu không ra trận, nỗ lực của nước Mỹ nhằm hoà giải và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam được dẫn dắt bởi những cựu chiến binh Việt Nam đầy công trạng trong quốc hội như Chuck Robb, John McCain, John Kerry, Bob Kerry, Chuck Hagel, và Pete Peterson, những người đã cống hiến hơn mức yêu cầu và không có gì để giấu giếm hay chứng tỏ gì với ai.
Khi tôi quay lại Oxford vào đầu tháng 10 cho năm học thứ hai tưởng chừng không thể có, hoàn cảnh cuộc đời tôi cũng phức tạp y như ở Arkansas. Tôi không có nơi ở vì cuối mùa hè trước tôi không nghĩ mình sẽ quay lại, và chúng tôi chỉ được bảo đảm chỗ ở trong năm thứ nhất mà thôi. Tôi ở chỗ Rick Steams vài tuần. Trong thời gian này, chúng tôi chuẩn bị và tham gia vận động cho Vietnam Moratorium tại Đại sứ quán Mỹ ở London ngày 15 tháng 10, hưởng ứng sự kiện tương tự được tổ chức tại Mỹ. Tôi cũng giúp tổ chức một buổi thảo luận chính trị tại trường Kinh tế London.
Cuối cùng tôi tìm được nơi ở cho đến hết thời gian ở Oxford cùng với Strobe Talbott và Frank Aller tại số 46 đường Leckford. Người sống chung với họ đã chuyển đi, và họ muốn tôi cùng đến ở để chia bớt tiền thuê nhà. Chúng tôi trả khoảng 36 bảng Anh một tháng - tức là 86,40 đôla theo tỷ giá 2,4 đôla ăn một bảng. Nơi này đã hơi xuống cấp nhưng với chúng tôi thế là tốt lắm rồi. Ở lầu một có một phòng khách nhỏ và một phòng cho tôi, có kèm bếp và phòng tắm mà bước vào nhà là thấy ngay. Cửa phòng tắm có tấm kính trên có tấm giấy mỏng vẽ chân dung một phụ nữ thời tiền Raphael, làm cho nó trông như loại kính màu có vẽ hình nếu nhìn từ xa. Đó là phần thanh lịch nhất của căn nhà. Phòng ngủ và nơi làm việc của Strobe và Frank ở trên lầu hai và ba. Chúng tôi có một cái sân sau nhỏ có tường bao quanh.
Không giống tôi, Strobe và Frank đang làm những việc rất nghiêm túc. Frank đang viết luận án tốt nghiệp về cuộc Vạn lỷ Trường chinh trong Nội chiến ở Trung Quốc. Anh ấy đã đến Thụy Sĩ để gặp Edgar Snow, người có cuốn sách nổi tiếng Red Star Over China - Sao đỏ trên Trung Quốc ghi lại những lần gặp Mao và các chiến sĩ cách mạng ở Diên An. Snow đã cho Frank một số ghi chép chưa xuât bản, và rõ ràng là Frank sẽ tạo ra một sản phẩm học thuật rất có giá trị.
Strobe còn có một dự án to lớn hơn nữa: tự truyện của Nikita Khrushchev. Ở Mỹ, Khrushchev nổi tiếng vì đối đầu với Nixon và Kennedy, nhưng khi Chiến tranh Lạnh tiếp diễn, ông ta trở thành nhà cải cách và là người có cá tính thú vị. Ông ta đã xây dựng hệ thống xe điện ngầm đẹp đẽ của Moscow và vạch trần tội giết người hàng loạt của Stalin. Sau khi các lực lượng bảo thủ chính thống hơn tước bỏ quyền lực của ông và thay bằng Brezhnev và Kosygin, Khrushchev đã bí mật ghi âm hồi ức của mình vào băng, và dàn xếp, theo tôi là qua những người bạn ông ta ở KGB, cho chúng lọt vào tay của Jerry Schecter, lúc đó là trưởng chi nhánh thời báo Time tại Moscow. Strobe nói tiếng Nga lưu loát và mùa hè trước đã làm việc cho báo Time ở Moscow. Anh đã bay đi Copenhagen để gặp Schecter và lấy những cuốn băng. Khi quay về Oxford, anh bắt đầu ghi lại lời của Khrushchev bằng tiếng Nga, dịch lại và biên tập cho rõ ràng.
Nhiều buổi sáng tôi chuẩn bị đồ ăn cho Strobe và Frank khi hai người bắt đầu làm việc. Tôi là một đầu bếp hơi kém tài. Tôi mang cho họ sản phẩm của "phong cách nấu nướng gia đình Clinton" và theo dõi công việc của họ. Tôi đặc biệt thích nghe Strobe kể lại những câu chuyện của Khrushchev về điện Kremlin. Cuốn sách độc đáo của Strobe, Khrushchev Remembers - Khrushchev nhớ lại đã góp phần đáng kể cho phương Tây hiểu biết thêm về nội vụ và sự căng thẳng của Liên bang Xô Viết, và đem lại hy vọng một ngày nào đó cải tổ nội bộ có thể đem lại nhiều tự do và cởi mở hơn.
Ngày 15 tháng 11, buổi vận động Moratorium thứ hai, lớn hơn đã được tổ chức, với hơn 500 người tuần hành quanh Quảng trường Grosvenor trước cửa Đại sứ quán Mỹ. Tham gia cùng chúng tôi có cha Richard McSorley, một người Công giáo Dòng Tên ở Georgetown và từ lâu đã rất tích cực trong các phong trào hòa bình. Từng là linh mục tuyên úy trong Thế chiến hai, McSorley đã sống sót qua cuộc hành quân tử thần ở Bataan, và về sau ông rất thân thiết với gia đình Robert Kennedy. Sau buổi biểu tình, chúng tôi đến dự lễ cầu nguyện tại nhà thờ St. Mark gần đại sứ quán. Cha McSorley đọc lời cầu nguyện hòa bình của Thánh Francis xứ Assisi, còn Rick Stearns đọc thơ của John Donne có những dòng cuối nổi tiếng như sau: "Đừng bao giờ thử đi tìm xem chuông nguyện hồn ai; chuông nguyện hồn anh đấy".
Sau lễ Tạ ơn, tôi và Tom Williamson bay đến Dublin để gặp Hillary Hart và Martha Saxton mà tôi vẫn thường gặp gỡ trong mấy tháng qua. Hơn ba mươi năm sau, Martha nhắc tôi nhớ lại trong chuyến đi đó tôi đã nói rằng cô ấy quá buồn bã không hợp với tôi. Thực ra, lúc đấy, trong lòng tôi đang băn khoăn về Việt Nam nên tôi buồn tẻ quá mức, không hợp với cô ầy cũng như với bất cứ người nào khác. Nhưng mặc dù buồn bã, tôi vẫn yêu mến Ireland và cảm thấy thoải mái khi ở đó. Chỉ vài ngày cuối tuần nhưng tôi đã không thích rời khỏi Ireland.
Thứ bảy, ngày 6 tháng 12, ba ngày sau khi viết thư cho đại tá Holmes, tôi ở nhà của David Edwards ở London để theo dõi một sự kiện lớn, trận bóng giữa Arkansas và Texas. Cả hai đội đều chưa từng thất bại. Texas đứng đầu, còn Arkansas đứng nhì trong cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc. Họ thi đấu để giành ngôi vô địch quốc gia trong trận cuối cùng của mùa giải thường lệ trong năm thứ 100 của bóng bầu dục đại học. Tôi thuê một radio sóng ngắn không đắt lắm nhưng phải đặt cọc 50 bảng, số tiền khá lớn đối với tôi. David chuẩn bị một nồi tương lớn. Chúng tôi mời thêm một vài người bạn, họ nghĩ chúng tôi đã mất trí khi cứ gào thét và la rống theo trận cầu được quảng cáo là trận cầu thế kỷ. Trong vài tiếng đồng hồ, chúng tôi vô tư trở lại, đắm chìm hoàn toàn vào trận đấu.
Trận cầu và bối cảnh văn hóa và chính trị của nó được Terry Frei ghi lại đầy đủ trong cuốn sách Horns, Hogs and Nixon Coming. Frei ghi chú cuốn sách của mình là Texas đấu với Arkansas ở thành lũy cuối cùng của miền Nam, bởi vì đó là sự kiện thể thao cuối cùng có chỉ toàn các cầu thủ da trắng.
Vài ngày trước, Nhà Trắng tuyên bố Tổng thống Nixon, một fan cuồng nhiệt của bóng bầu dục, sẽ dự khán trận đấu và trao cúp vô địch quốc gia cho đội chiến thắng. Chín thành viên quốc hội sẽ tháp tùng ông, trong đó có cả địch thủ của ông về vấn đề Việt Nam - Thượng nghị sĩ Fulbright, người chơi cho đội Razorback hơn 40 năm trước, và nghị sĩ trẻ người Texas George H.W.Bush. Ngoài ra dự kiến còn có các phụ tá ở Nhà Trắng Henry Kissinger và H.R.Haldeman, cùng Ron Ziegler, thư ký báo chí.
Arkansas giao bóng trước Texas, vừa giữ bóng vừa gây nhiều nhiêu loạn cho đối phương và ghi điểm sau chưa đầy một phút rưỡi của trận đâu. Vào giờ nghỉ giải lao, lúc Arkansas dẫn 7-0, Tổng thống Nixon trả lời phỏng vấn. Ông ta nói: "Tôi mong được thấy cả hai đội ghi bàn trong hiệp hai. vấn đề là Texas với nhân lực mạnh, và ý tôi là có dàn cầu thủ dự bị mạnh hơn, liệu có thể chiến thắng trong hiệp cuối hay không. Tôi thấy như vậy đó". Trong lần giao bóng đầu tiên của hiệp bốn, khi Arkansas đang dẫn 14-0, thủ quân James Street của Texas làm một cú nước rút 42 bộ đưa bóng qua lằn gôn đối phương ghi điểm chạm bóng cuối sân. Texas được hai điểm hoán chuyển và chỉ bị dẫn 14-8. Trong lần giữ bóng kế tiếp, Arkansas ngay lập tức dẫn bóng xuống khu vực lằn ranh 7 trên phần sân Texas. Với chân sút bóng giỏi nhất nước, lẽ ra Arkansas đã có thể sút bóng ghi bàn đạt điểm 17-8 và buộc Texas phải ghi thêm hãi bàn nữa mới thắng được họ. Nhưng trọng tài yêu cầu chơi chuyền bóng. Bóng chuyền hơi ngắn và bị chặn lại. Khi chỉ còn năm phút, Texas còn thua bốn điểm và còn ba bộ thì đến đường vạch 42 bộ trên sân Arkansas. Thủ quân của Texas chuyền một cú đẹp mắt vào tay đồng đội được bao bọc đang đứng ở vạch 13 bộ của Arkansas. Sau thêm hai lần giao bóng, Texas ghi bàn và vượt lên dẫn điểm, 15-14. Trong lần giao cuối, Arkansas ép bóng xuống cuối sân bằng các đường chuyền ngắn, chủ yếu là nhắm đến tay Bill Burnett, tiền đạo lùi tài năng của họ, anh này chạy rất nhanh trong trận đó. Bill sau này trở thành con rể của đại tá Eugene Holmes. Sau lần giao bóng nghẹt thở, Texas chặn được đường chuyền của Arkansas, giữ được trong 1 phút 20 giây cuối cùng của trận đấu và thắng 15-14.
Một trận đấu tuyệt vời. Ngay cả mấy cầu thủ Texas cũng nói lẽ ra không có đội nào phải thua. Miệng tôi đắng chát chỉ vì nghe Tổng thống Nixon dự đoán lúc giữa trận rằng Texas có thể thắng ở hiệp thứ tư. Nhiều năm sau, tôi nghĩ tôi vẫn ác cảm với ông ấy về chuyện này cũng y như trong vụ Watergate vậy.
Sự kiện tôi và David Edwards bỏ công mướn radio sóng ngắn để nghe tường thuật trận đấu không gây ngạc nhiên cho bất cứ ai lớn lên trong không khí cuồng thể thao ở Mỹ cả. ủng hộ cho đội Razorback là lẽ dĩ nhiên của cư dân Arkansas. Trước khi gia đình tôi có tivi, tôi nghe đài tường thuật tất cả các trận đấu. Ở trường trung học, tôi khuân vác dụng cụ cho ban nhạc của đội chỉ để được vào xem các trận đấu. Ở Georgetown, tôi xem tất cả các trận đấu của Razorback phát trên tivi. Khi chuyển về quê nhà làm giáo sư luật, Bộ trưởng tư pháp và thống đốc, tôi xem gần như tất cả các trận đấu trên sân nhà. Khi Eddie Sutton trở thành huấn luyện viên bóng rổ còn vợ anh là Pasty tham gia tích cực vào cuộc vận động năm 1980 của tôi, thì tôi cũng bắt đầu xem tất cả các trận bóng rổ mà tôi có thể xem. Khi đội Arkansas của huấn luyện viên Nolan Richarson giành chức vô địch NCAA trước Duke năm 1994, tôi có mặt trên khán đài.