← Quay lại trang sách

Chương 35

Sau khi ngân sách được thông qua, quốc hội tạm nghỉ trong tháng 8 và tôi nóng lòng muốn đưa gia đình đi nghỉ trong hai tuần cực kỳ cần thiết ở Vườn nho Martha. Vernon và Ann Jordan đã thu xếp cho chúng tôi được nghỉ ở bên đầm Oyster trong một căn lều của Robert McNamara.

Nhưng trước khi đi tôi có cả một tuần đầy ắp công việc. Ngày 11, tôi chỉ định tướng Lục quân John Shalikashvili thay Colin Powell làm Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Liên quân khi Colin kết thúc nhiệm kỳ vào cuối tháng 9. Shali, như mọi người thường gọi, gia nhập quân đội theo quy định quân dịch và thăng tiến qua các cấp bậc đến vị trí hiện tại của anh hiện nay là tư lệnh khối NATO và các lực lượng Mỹ ở châu Âu. Anh ấy sinh ra ở Ba Lan, trong một gia đình người Georgia. Trước Cách mạng Nga, ông của anh đã là tướng trong quân đội của Sa hoàng và cha của anh cũng là sĩ quan. Khi Shali mười sáu tuổi, gia đình anh chuyển đến Peoria, Illinois, và anh tự học tiếng Anh bằng cách xem phim của John Wayne. Tôi nghĩ anh ấy đúng là mẫu người dẫn dắt lực lượng của chúng ta trong thế giới hậu Chiến tranh Lạnh, đặc biệt là CO; bao chuyện rắc rối ở Bosnia.

Giữa tháng, Hillary và tôi bay đến St. Louis, nơi tôi ký thông qua luật cứu trợ lũ lụt sông Mississippi, sau khi một trận lụt lớn đã làm cho thượng nguồn sông Mississippi tràn bờ từ Minnesota đến tận Dar; kota và Missouri. Lễ ký kết đã đánh dâu chuyến viếng thăm thứ ba của tôi đến những vùng ngập lụt. Các trang trại và nhiều cơ sở sản xuất bị phá hủy, và một số thị trấn nhỏ nằm trong lòng thảo nguyên ngập lụt hàng trăm năm nay đã hoàn toàn bị cuốn trôi. Trong mỗi chuyến đi, tôi đều ngạc nhiên và khâm phục trước số lượng rất đông công dân từ khắp nước Mỹ đến để chung tay góp sức.

Sau đó chúng tôi bay đến Denver, nơi chúng tôi chào đón Giáo hoàng John Paul II đến thăm Mỹ. Tôi đã từng có cuộc gặp tốt đẹp với Đức Ngài, người ủng hộ nhiệm vụ của chúng tôi ở Somalia và ước vọng của tôi làm nhiều hơn nữa ở Bosnia. Sau cuộc gặp giữa chúng tôi, ngài đã nhân từ chào đón tất cả các con chiên Thiên Chúa trong số các nhân viên của Nhà Trắng và các nhân viên Mật vụ cùng tôi đến Denver. Ngày kế tiếp, tôi ký Đạo luật Hoang dã Colorado, luật về môi trường quan trọng đầu tiên của tôi, bảo vệ hơn 600.000 mẫu rừng quốc gia và đất công trong Hệ thống Bảo tồn Hoang dã Quốc gia.

Sau đó tôi đến Tulsa, Oklahoma để nói chuyện với các đồng nghiệp cũ của tôi ở Hiệp hội Thống đốc Quốc gia về y tế. Mặc dù kế hoạch ngân sách còn chưa ráo mực, nhưng tôi đã muốn bắt tay ngay vào y tế và các thống đốc có thể giúp bởi vì chi phí ngày càng tăng của chương trình Medicaid, bảo hiểm y tế cho nhân viên tiểu bang, còn chi phí chăm sóc sức khỏe cho những người không được bảo hiểm ngày càng đè nặng trên ngân sách các tiểu bang.

Ngày 19, sinh nhật lần thứ 47 của tôi, tôi tuyên bố Bill Daley của Chicago sẽ là chủ tịch của đội đặc nhiệm về Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Sáu ngày trước, cùng với Canada và Mexico, chúng tôi đã đạt được các thỏa thuận bên lề của NAFTA về quyền lao động và môi trường mà tôi đã hứa trong khi vận động tranh cử, cũng như đàm phán bảo vệ các thị trường của chúng tôi trước những tăng đột biên" của việc nhập khẩu. Bây giờ khi tất cả mọi thứ đã đâu vào đấy, tôi đã sẵn sàng để đưa NAFTA ra trước quốc hội. Tôi nghĩ Bill Daley là người lãnh đạo lý tưởng để vận động sao cho quốc hội thông qua NAFTA. Anh là luật sư Dân chủ xuất thân từ gia đình chính trị nổi tiếng nhất ở Chicago; anh trai của anh là thị trưởng thành phố, cũng cha của anh làm thị trưởng trước đó, và anh có những mối quan hệ tốt đẹp với một số lãnh đạo nghiệp đoàn. NAFTA sẽ là một cuộc chiến khác hẳn so với ngân sách. Rất nhiều người phe Cộng hòa có thể ủng hộ nó, và chúng tôi phải tìm đủ số người theo phe Dân chủ để vượt qua sự phản đối của AFL-CIO.

Sau khi công bố Bill Daley vào nhiệm vụ mới, cuối cùng chúng tôi cũng bay đến Vườn nho Martha. Đêm đó, gia đình Jordan tổ chức bữa tiệc sinh nhật cho tôi, cùng với nhiều bạn cũ và niột số bạn mới. Jackie Kennedy Onassis và bạn đồng hành của bà là Maurice Tempelsman đã đến cùng với Bill và Rose Styron, và Katharine Graham, chủ bút tờ Washington Post và là một trong những người ở Washington mà tôi ngưỡng mộ nhất. Ngày kế tiếp, chúng tôi đi du thuyền và bơi cùng Jackie và Maurice, Ann và Vernon, Ted và Vicki Kennedy, và Ed và Caroline Kennedy Schlossberg. Caroline và Chelsea trèo lên boong chiếc du thuyền của Maurice và nhảy xuống nước. Họ thách Hillary làm theo, Ted và tôi reo hò động viên cô ấy. Chỉ có Jackie khuyến khích Hillary chọn cách xuống nước an toàn hơn. Với óc phán đoán khôn ngoan thường thấy của mình, Hillary đã nghe theo lời Jackie.

Tôi dành 10 ngày tiếp theo nghỉ ngơi ở đầm Oyster, đi bắt cua cùng Hillary và Chelsea, đi đạo trên bờ cát ngăn cách đầm với Đại Tây Dương, làm quen với một số người sống ở đây quanh năm và đọc sách.

Kỳ nghỉ kết thúc thật nhanh chóng, và chúng tôi quay về Washington với khai giảng năm học đầu tiên của Chelsea ở trường trung học, cuộc vận động của Hillary cho cải tổ y tế, đệ trình đầu tiên của Al Gore về tiết kiệm thông qua bản Báo cáo Quốc gia của anh ấy, và về với Phòng Bầu dục được trang trí mới hoàn toàn. Tôi rất thích làm việc ở đây. Căn phòng luôn sáng sủa và thoáng mát ngay cả trong những ngày nhiều mây nhờ những cửa sổ cao và cửa ra vào bằng kính hướng ra phía nam và đông. Ban đêm, ánh sáng gián tiếp phản chiếu những bức tường cong đã tạo thêm độ sáng và làm cho căn phòng tiện nghi như ở nhà. Căn phòng rất trang trọng, nhưng cũng rất mời gọi, và tôi luôn cảm thấy thoải mái khi ở đó, dù là một mình hay cùng với những người khác. Kaki Hockersmith, một người bạn trang trí nội thât ở Arkansas đã giúp chúng tôi đem lại bộ mặt mới và sáng sủa hơn: những tấm rèm màu vàng đồng có viền màu xanh dương, những cái ghê lưng cao màu vàng, ghê sofa bọc vải sọc vàng đỏ, và một tấm thảm tuyệt đẹp màu xanh đậm có dấu của tổng thông ở chính giữa, phản chiếu lại một cái khác trên trần. Bây giờ tôi còn thây thích hơn nữa.

Tháng 9 cũng là tháng chính sách ngoại giao lớn nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của tôi. Ngày 8 tháng 9, Tổng thống Izetbegovic của Bosnia đến Nhà Trắng. Mối đe dọa bị NATO không kích đã kìm chân được người Serbia và khiến các cuộc đàm phán hòa bình có thể tiếp tục. Izetbegovic đảm bảo với tôi rằng ông ấy hoàn toàn ủng hộ một giải pháp hòa bình miễn là công bằng đối với người Hồi giáo Bosnia. Nếu đạt được hòa bình, ông ấy muôn tôi cam kết gửi quân NATO, kể cả các lực lượng Mỹ, đến Bosnia để gìn giữ hòa bình. Tôi tái khẳng định dự tính sẽ làm việc đó của tôi.

Ngày 9 tháng 9, Yitzhak Rabin gọi cho tôi nói rằng Israel và Tổ chức giải phóng Palestine (PLO) đã đạt được thỏa thuận hòa bình. Đó là thỏa thuận đạt được thông qua các cuộc đàm phán bí mật mà hai bên đã tổ chức ở Oslo, mà chúng tôi được thông báo không lâu trước khi tôi nhận nhiệm sở. Trong một vài dịp, khi các cuộc đàm phán bên bờ vực tan vỡ, Warren Christopher đã làm rất tốt để giữ cho chúng vẫn theo đúng lịch trình. Các cuộc đàm phán này được giữ bí mật, cho phép các bên thương lượng thỏa thuận thẳng thắn về hầu hết các vấn đề nhạy cảm trên một số nguyên tắc mà hai bên có thể chấp nhận. Hầu hết phần việc nặng nề còn ở phía trước, thí dụ như phải giúp thực hiện một công việc đặc biệt khó khăn là giải quyết những vấn đề gai góc, phác thảo ra các điều kiện thi hành, và gây quỹ để trang trải các chi phí của bản thỏa thuận, từ việc tăng cường an ninh cho Israel đến phát triển kinh tế và lập các trại tị nạn và bồi thường cho người Palestine. Tôi đã nhận được dấu hiệu khuyến khích ủng hộ tài chính từ các nước khác, trong đó có Ảrập Xêút, nơi Quốc vương Fahd, mặc dù còn giận dữ vì Yasser Arafat đã ủng hộ Iraq trong cuộc chiến vùng Vịnh, vẫn ủng hộ tiến trình hòa bình.

Chúng tôi vẫn còn phải đi xa hơn nữa mới đạt được giải pháp cuối cùng, nhưng Tuyên bố Nguyên tắc đã là một bước tiến lớn. Ngày 10 tháng 9, tôi tuyên bố các lãnh đạo của Israel và Palestine sẽ ký thỏa thuận ở Bãi cỏ phía Nam của Nhà Trắng vào thứ hai, ngày 13, và rằng bởi vì PLO đã chấm dứt bạo động và công nhận quyền tồn tại của Israel, nên nước Mỹ có thể nối lại quan hệ với họ. Vài ngày trước khi ký kết, báo chí hỏi tôi Arafat có được chào đón ở Nhà Trắng hay không. Tôi nói việc đó còn phụ thuộc vào các bên trực tiếp liên quan quyết định ai sẽ đại diện cho họ trong buổi lễ. Thực ra, tôi hết sức mong muốn Rabin và Arafat tham dự và thúc giục họ làm như vậy; nếu không, không ai trong khu vực có thể tin rằng họ thực sự cam kết sẽ áp dụng những nguyên tắc này, và nếu họ tham gia, thì hàng tỷ người trên toàn cầu sẽ thấy họ trên tivi và họ sẽ rời Nhà Trắng mà thấy mình cam kết với hòa bình còn hơn cả khi mới đến. Khi Arafat nói có thể tham dự, tôi lại yêu cầu Rabin đến. Ông ấy chấp nhận mặc dù vẫn còn hơi lo lắng.

Hồi tưởng lại, quyết định có mặt của các lãnh đạo nhìn thì có vẻ rất dễ dàng. Nhưng ở thời điểm bấy giờ, điều đó là cả một sự đánh cược đối với cả Rabin và Arafat, vì cả hai đều không chắc chắn nhân dân mình sẽ phản ứng như thế nào. Kể cả khi hầu hết các cử tri ủng hộ cho họ thì những phần tử cực đoan của cả hai bên đều có thể bùng nổ bởi những thỏa hiệp về những vấn đề căn bản đề ra trong Bản tuyên bố nguyên tắc. Rabin và Arafat đã tỏ rõ quan điểm và cảm giác của mình khi đồng ý tham dự và phát biểu. Tốt nhất thỏa thuận nên được ký bởi Bộ trưởng Ngoại giao Shimon Peres và Mahmoud Abbas, được biết đến với tên Abu Mazen, cả hai đều theo sát tiến trình thương lượng ở Oslo. Bộ trưởng Christopher và Bộ trưởng Ngoại giao Nga Andrei Kozyrev sẽ chứng kiến buổi lễ ký kết.

Sáng ngày 13, bầu không khí quanh Nhà Trắng đầy khích động và căng thẳng. Chúng tôi mời hơn 2.500 người đến tham dự. George Stephanopoulos và Rahm Emanuel lo việc này. Tôi đặc biệt vui mừng khi Rahm lo liệu công việc vì anh đã từng phục vụ trong quân đội Israel. Tổng thống Carter, người đã thương lượng Thỏa thuận Trại David giữa Ai Cập và Israel, cũng có mặt. Tổng thống Bush, cũng đến - ông từng cùng Gorbachev ủng hộ các cuộc gặp ở Madrid năm 1991 về Israel, người Palestine và các quốc gia Arab. Tổng thống Ford được mời nhưng chỉ có thể đến Washington trước bữa tiệc tối mừng buổi lễ. Tất cả những cựu bộ trưởng ngoại giao và cố vấn an ninh quốc gia đã từng làm việc vì hòa bình trong 20 năm qua đều được mời. Chelsea nghỉ học buổi sáng, và các con của Al Gore cũng thế. Đây là dịp chúng không muôn bỏ lỡ.

Đêm trước, tôi đi ngủ lúc 10 giờ, sớm hơn thường lệ, và thức giấc lúc ba giờ sáng. Không thể ngủ lại được, tôi lấy cuốn Kinh thánh và đọc hết sách Joshua. Tôi thấy hứng thú viết lại một số ghi chú của tôi và tôi chọn cà vạt xanh có vẽ những cái tù và vàng, vốn nhắc tôi nhớ đến những chiếc tù và mà Joshua đã dùng để thổi dọc các bức tường của Jericho. Bây giờ những cái tù và ấy là biểu tượng của hòa bình đang đến gần, một nền hòa bình mang Jericho trả về tay người Palestine.

Sáng sớm chúng tôi có hai rắc rối nho nhỏ. Khi được thông báo rằng Arafat dự định xuất hiện trong trang phục đặc trưng của ông là khăn đội Ảrập kattiyeh và bộ quân phục màu xanh ôliu, và rằng ông ấy muốn mặc như vậy cùng với khẩu súng ngắn ông vẫn thường đeo bên hông, tôi ngần ngại và nhắn lại rằng ông ấy không nên mang theo súng. Ông ấy đến đây vì hòa bình; khẩu súng ngắn có thể gửi đi một thông điệp sai lầm, và chắc chắn ông sẽ an toàn mà không cần đến nó. Ông ấy đồng ý đến dự không mang theo súng. Khi những người Palestine biết rằng họ được gọi trong bản thỏa thuận là "đoàn đại biểu Palestine", chứ không phải Tổ chức Giải phóng Palestine PLO, họ ngập ngừng, băn khoăn. Israel đồng ý thay đổi tên gọi.

Sau đó là câu hỏi Arafat và Rabin có nên bắt tay hay không. Tôi biết Arafat muốn bắt tay. Trước khi đến Washington, Rabin đã nói có thể bắt tay "nếu cần thiết", nhưng tôi có thể thấy ông ấy không hề muốn. Khi ông ấy đến Nhà Trắng, tôi đưa ra câu hỏi. Ông ấy từ chối cam kết, nói với tôi rằng vì Arafat mà ông ấy đã phải chôn cất rất nhiều thanh niên Israel. Tôi nói với Yitzhak rằng nếu ông ấy thực sự cam kết muốn hòa bình, thì ông phải bắt tay với Arafat để chứng tỏ điều đó. "Cả thế giới sẽ chứng kiến việc này, và một cái bắt tay chính là thứ họ muốn nhìn thấy". Rabin thở dài, và bằng giọng nói trầm và đầy mệt mỏi, ông nói: "Thôi thì vậy. Nếu là bạn bè thì đâu cần phải ký thỏa thuận hòa bình làm gì cả, phải không". Tôi hỏi: “Thế tức là ông đồng ý bắt tay?". Ông ấy gần như quát vào tôi: "Thôi được. Thôi được. Nhưng không hôn đâu đấy". Truyền thông của người Ảrập khi chào hỏi là hôn lên má, và Rabin không muôn một phần nào trong nghi thức ấy.

Tôi biết Arafat là người giỏi xuất hiện trước công chúng và ông có thể cô sẽ hôn Rabín sau khi bắt tay. Chúng tôi quyết định rằng tôi sẽ bắt tay với từng người trước, sau đó ra hiệu cho họ lại gần nhau. Tôi biết chắc nếu Arafat không hôn tôi thì cũng sẽ không hôn Rabin. Chúng tôi ở Phòng Bầu dục bàn luận về chuyện này với Hillary, George Stephanopoulos, Tony Lake và Martin Indyk, Tony nói anh biết một cách để tôi có thể bắt tay Arafat mà tránh bị ông hôn. Anh mô tả qui trình và chúng tôi tập thử. Tôi đóng vai Arafat và Tony đóng vai tôi để chỉ dẫn. Khi tôi bắt tay anh và nghiêng người định hôn, anh đặt bàn tay trái lên tay phải gần khuỷu tay tôi và giữ chặt; tôi bị chặn lại ngay. Sau đó chúng tôi đổi vai và tôi làm như vậy với Tony. Chúng tôi tập thêm vài lần cho đến khi tôi cảm thấy chắc chắn rằng má của Rabin sẽ không bị chạm tới. Tất cả chúng tôi đều cưỡi về việc này, nhưng tôi biết tránh bị hôn là một việc nghiêm túc hết sức đối với Rabin.

Ngay trước buổi lễ, tất cả ba đoàn đại biểu tụ tập ở Phòng Xanh lớn hình bầu dục ở lầu dưới của Nhà Trắng. Người Israel và Palestine vẫn không nói chuyện với nhau công khai, vì thế người Mỹ chạy đi chạy lại giữa hai nhóm trong khi họ đi dọc theo rìa của căn phòng. Chúng tôi trông giống như những đứa trẻ vụng về đang chơi trên một cái đu quay vừa nặng nề vừa chậm chạp.

Tạ ơn Trời, thời gian nhanh chóng trôi qua, và tất cả chúng tôi bước xuống bậc để bắt đầu buổi lễ. Mọi người bước vượt lên trước, bỏ lại Arafat, Rabin và tôi trong giây lát. Arafat chào Rabin và đưa tay ra. Yitzhak nắm chặt tay sau lưng. Ông nói ngắn gọn: "Ra ngoài". Arafat chỉ mỉm cười và gật đầu hiểu ý. Sau đó Rabin nói: "Ông biết là chúng ta sẽ phải làm việc cật lực để việc này thành hiện thực". Arafat trả lời: "Tôi biết, và tôi sẵn sàng làm hết phần mình".

Chúng tôi bước ra ngoài dưới ánh mặt trời rạng rỡ của ngày cuối hè. Tôi bắt đầu buổi lễ bằng lời chào mừng ngắn gọn và những lời cảm ơn, ủng hộ và khuyến khích các lãnh đạo và quyết định của họ đạt đến "hòa bình của những người dũng cảm". Peres và Abbas tiếp theo tôi bằng những phát biểu ngắn, sau đó ngồi xuống để ký thỏa thuận. Warren Christopher và Andrei Kozyrev chứng kiến trong khi Rabin, Arafat và tôi đứng đằng sau và phía bên phải. Khi hai người ký xong, tất cả những con mắt dồn về những người lãnh đạo; Arafat đứng bên trái tôi và Rabin đứng bên phải. Tôi bắt tay Arafat, kèm theo là cử chỉ ngăn chặn mà tôi đã thực tập. Sau đó tôi quay sang và bắt tay Rabin, rồi tôi lùi lại nhường chỗ cho họ và dang tay ra đẩy họ lại gần nhau. Arafat đưa tay về phía Rabin vẫn đang lưỡng lự. Khi Rabin chìa tay ra, đám đông thốt lên sững sờ, tiếp theo là tràng pháo tay như sấm trong khi họ kết thúc bắt tay mà không có nụ hôn nào tiếp theo. Cả thế giới vui mừng, trừ những kẻ chống đối cực đoan ở Trung Đông vẫn đang gây bạo loạn, và những người biểu tình ngoài Nhà Trắng cho rằng chúng tôi đang gây nguy hại cho nền an ninh của Israel.

Sau cái bắt tay, Christopher và Kozyrev phát biểu ngắn gọn, sau đó Rabin tiến gần đến micro. Ông nói bằng tiếng Anh, nghe như một nhà tiên tri trong Cựu Ước, và ông nói trực tiếp với người Palestine: "Định mệnh của chúng ta là sống cùng nhau, trên cùng một mảnh đất. Chúng ta, những người lính trở về từ chiến trường vẫn còn dính máu..., nói rõ ràng với quí vị hôm nay: Đã quá đủ máu và nước mắt đã quá đủ rồi. Đã quá đủ rồi!... Chúng tôi, cũng như các bạn, là những con người - những người muốn xây nhà, trồng cây, yêu thương, sống bên cạnh nhau trong danh dự, trong sự hiểu biết và thông cảm của loài người, như những người tự do". Sau đó, Rabin trích dẫn trong cuốn sách của Koheleth, mà người theo đạo Thiên Chúa gọi là sắíh Ecclesiastes: "Đối với tất cả mọi việc đều có lý do và có thời gian cho tất cả các mục đích dưới gầm trời này. Thời gian được sinh ra và thời gian để chết, thời gian để giết chóc và thời gian để hàn gắn... thời gian của chiến tranh và thời gian của hòa bình. Thời của hòa bình đã đến". Đó là bài phát biểu tuyệt vời. Ông ấy đã dùng nó để vươn tay ra tới những kẻ thù của mình.

Đến lượt Arafat, ông dùng cách khác. Ông đã cởi mở với người Israel bằng nụ cười, những cử chỉ thân thiện, và cái bắt tay nhiệt tình của ông. Bây giờ, bằng giọng nói du dương như đang hát, ông nói với nhân dân ông bằng tiếng Ảrập, ghi nhận hy vọng của họ đối với hòa bình và tái khẳng định rằng mong ước của họ là hợp pháp. Cũng như Rabin, ông đề cao hòa bình, nhưng cứng rắn hơn: "Nhân dân chúng tôi không coi rằng thực hiện quyền tự khẳng định mình có thể vi phạm các quyền hoặc đe dọa nền an ninh của những người láng giềng của họ. Thay vào đó, chấm dứt cảm giác rằng họ sai lầm hay phải chịu đựng những bât công về lịch sử chính là sự bảo đảm chắc chắn nhất để đạt đến cùng tồn tại và cởi mở giữa hai dân tộc và các thê hệ tương lai của chúng ta".

Arafat đã chọn một thái độ thân ái để nói với người Israel và dùng những lời lẽ cứng cỏi để làm yên lòng những người còn nghi ngờ ở quê nhà. Rabin thì chọn cách ngược lại. Trong bài phát biểu của mình, ông tỏ ra xúc động và thành thực đối với người Palestine; bây giờ ông dùng ngôn ngữ cử chỉ để làm yên lòng những người còn nghi ngờ ở Israel. Trong suốt thời gian Arafat nói, trông ông có vẻ không thoải mái và có thái độ nghi ngờ, trông khó chịu đến mức ông tạo ra ấn tượng của một người đang muốn tìm cách xin ra ngoài. Chiến thuật khác nhau của họ, ở bên cạnh nhau, tạo nên sự tương phản rõ rệt và khá thú vị. Tôi ghi nhớ trong đầu về chi tiết này để lứu ý trong những cuộc thương lượng với họ trong tương lai. Nhưng tôi không cần phải lo lắng nhiều. Sau đó, Rabin và Arafat thiết lập một mối quan hệ đáng chú ý trong công việc, một ghi nhận về sự kính trọng của Arafat dành cho Rabin và khả năng kỳ diệu và mạnh mẽ của nhà lãnh đạo Israel khi hiểu được cách suy nghĩ của Arafat.

Tôi kết thúc buổi lễ bằng cách chúc cho các hậu duệ của Isaac và Ishmael, đều là con của Abraham, "Shalom, salaam, hòa bình", và thúc giục họ "hãy là những người kiến tạo hòa bình". Sau buổi lễ, tôi có cuộc gặp ngắn với Arafat và ăn trưa với Rabin. Yitzhak mệt mỏi vì chặng bay dài và vì cảm xúc của buổi lễ. Đó là bước ngoặt đáng kể trong cuộc đời đầy biến động của ông, mà phần lớn thời gian là trong bộ quân phục, chiến đấu với kẻ thù của Israel, kể cả Arafat. Tôi hỏi ông tại sao ông quyết định ủng hộ các cuộc đàm phán Oslo cũng như bản thỏa thuận là kết quả của những cuộc đàm phán đó. Ông ấy giải thích là ông đã nhận ra một điều rằng lãnh thổ mà Israel chiếm giữ từ cuộc chiến năm 1967 không còn cần thiết cho nền an ninh của họ, và trên thực tế, chính là nguồn gốc của sự bất ổn về an ninh. Ông nói rằng phong trào intifada nổ ra từ vài năm trước đã cho thây rằng chiếm giữ một vùng lãnh thổ tràn ngập những con người giận dữ không làm cho Israel an toàn hơn, mà làm cho nó dễ bị tấn công hơn tu bên trong. Lúc đó, trong cuộc chiến vùng Vịnh, khi Iraq bắn tên lưa Scud vào Israel, ông ấy nhận thấy mảnh đất này không đem lại lá chắn an toàn trước những cuộc tấn công với vũ khí hiện đại từ bên ngoài. Ông nói rằng cuối cùng, nếu Israel tiếp tục chiếm giữ Bờ Tây lâu dài thì sẽ phải quyết định có nên để cho người Ảrập bỏ phiêu trong các cuộc bầu cử của Israel hay không, giống như những người Ảrập sống ở trên lãnh thổ Israel từ trước năm 1967 đã bỏ phiếu. Nếu người Palestine có quyền bỏ phiếu, theo tỷ lệ sinh cao hơn của họ, thì trong một vài thập niên nữa, Israel không còn là quốc gia Do Thái nữa. Nếu họ từ chối quyền bỏ phiếu, Israel không còn là nước dân chủ mà là nước theo chủ nghĩa apartheid. Vì thế, ông kết luận, Israel nên từ bỏ vùng lãnh thổ này, nhưng chỉ khi việc làm này đem lại hòa bình thực sự và các mối quan hệ bình thường với các nước láng giềng, kể cả Sỵria. Rabin nghĩ ông có thể thỏa thuận với Tổng thống Syria Hafez al- Assad trước hoặc ngay sau khi tiến trình Palestine hoàn tất. Dựa trên những cuộc nói chuyện với chính Assad, tôi cũng tin như vậy.

Qua thời gian, những phân tích của Rabin về ý nghĩa của Bờ Tây đối với Israel đã dần dần được những người Israel ủng hộ hòa bình chấp nhận rộng rãi, nhưng vào năm 1993, đó là ý tưởng mới, sáng suốt và can đảm. Tôi đã ngưỡng mộ Rabin ngay từ trước khi gặp ông năm 1992, nhưng hôm đó, quan sát ông nói chuyện tại buổi lễ và lắng nghe ông tranh luận về hòa bình, tôi đã nhìn thấy sự vĩ đại trong khả năng lãnh đạo và tinh thần của ông. Tôi chưa bao giờ gặp ai như ông, và tôi quyết định sẽ giúp ông đạt được ước mơ hòa bình.

Sau bữa trưa, Rabin và những người Israel bay về nhà dự lễ High Holy Days và tiếp tục nhiệm vụ trình bày bản thỏa thuận cho Knesset, quốc hội Israel. Trên đường về, họ dừng ở Marốc để thông báo về bản thỏa thuận cho Quốc vương Hassan, người đã từ lâu giữ một vị trí quan trọng đối với Israel.

Tối đó, Hillary và tôi tổ chức tiệc tối chào mừng cho 25 cặp vợ chồng, trong đó có Tổng thống Carter và Phu nhân, Tổng thống Ford và Phu nhân, và Tổng thống Bush, sáu trong số chín bộ trưởng ngoại giao còn sống, và những người đứng đầu quốc hội phe Dân chủ và Cộng hòa. Các tổng thống đồng ý đến dự, không chỉ để chào mừng sáng kiến hòa bình, mà còn để tham gia vào buổi mở màn công khai cho chiến dịch vận động NAFTA ngày kế tiếp. Trong bữa tiệc, tôi đưa tât cả đến văn phòng của tôi ở khu vực sinh hoạt để chụp một tấm hình kỷ niệm dịp hiếm có trong lịch sử nước Mỹ khi có bốn tổng thống cùng dự bữa tối ở Nhà Trắng. Sau bữa tối, gia đình Carter và Bush nhận lời mời của chúng tôi ở lại. Gia đình Ford từ chối vì một lý do hết sức tốt đẹp: họ đã đặt phòng ở khách sạn Washington, nơi trước đây họ từng ở vào đêm tân hôn.

Ngày tiếp theo, chúng tôi vẫn giữ cho bánh xe hòa bình tiếp tục quay, khi các ngoại giao đoàn Israel và Jordan ký một thỏa thuận giúp họ tiến gần hơn đến hòa bình cuối cùng, và khoảng vài trăm doanh nhân Do Thái và người Mỹ gốc Ảrập đã đến Bộ Ngoại giao để cam kết sẽ tham gia vào nỗ lực đầu tư vào các khu vực Palestine khi có đủ các điều kiện hòa bình cho kinh tế phát triển.

Trong khi đó, các tổng thống tham gia cùng tôi trong lễ ký kết thỏa thuận bên lề của NAFTA ở Phòng phía Đông của Nhà Trắng. Tôi trình bày rằng NAFTA có thể tốt cho nền kinh tế của Mỹ, Canada và Mexico, tạo ra thị trường khổng lồ của gần 400 triệu người; rằng nó sẽ củng cố vị trí lãnh đạo của Mỹ ở Tây bán cầu và trên thế giới; và rằng nếu không thông qua nó thì có thể làm mất thêm nhiều, chứ không ít hơn, việc làm thu nhập thấp vào tay Mexico. Thuế nhập khẩu của Mexico cao gấp 2,5 lần so với của chúng ta, và ngày cả như vậy, họ vẫn là nước mua nhiều sản phẩm của Mỹ thứ nhì sau Canada. Thế nên chuyên giảm từ từ khung thuế quan nhập khẩu chắc chắn sẽ đem lại thặng dư thương mại cho Mỹ.

Sau đó Tổng thông Ford, Carter và Bush phát biểu ủng hộ NAFTA. Tất cả đều ấn tượng, nhưng Bush đặc biệt hiệu quả và tử tế đối với tôi. Ông khen ngợi bài nói của tôi: "Bây giờ tôi đã hiểu vì sao anh ấy từ trong nhìn ra còn tôi từ ngoài nhìn vào". Việc các tổng thống ủng hộ đã đem lại sức nặng của cả hai đảng cho cuộc vận động, và chúng tôi cần càng nhiều sự hỗ trợ càng tốt. NAFTA đôi mặt với sự chống đối gay gắt từ một liên minh kỳ lạ giữa những người phe Dân chủ tự do và Cộng hòa bảo thủ, những người cùng chung một nỗi lo sợ rằng mối quan hệ cởi mở hơn với Mexico có thể làm Mỹ mất đi nhiều việc làm tốt, và rằng dân lao động Mexico bình thường vẫn sẽ tiếp tục bị trả lương thấp và làm việc nặng bất kể những ông chủ của họ kiếm được bao nhiêu tiền qua các vụ buôn bán với Mỹ. Tôi biết họ có thể đúng về điều cuối cùng đó, nhưng tôi tin NAFTA là quan trọng không chỉ cho mối quan hệ của chúng ta với Mexico và các nước Mỹ Latinh mà còn với cam kết của chúng ta nhằm tạo nên một thế giới thống nhất và hợp tác hơn.

Mặc dù rõ ràng là việc bỏ phiếu cho cải tổ y tế chỉ có thể diễn ra vào năm sau, nhưng chúng tôi vẫn phải trình lên Quốc hội để qui trình luật được bắt đầu. Lúc đầu, chúng tôi chỉ xem xét việc gửi đề cương những kiến nghị lên các tiểu ban liên quan và để cho họ viết luật, nhưng Dick Gephardt và những người khác cho rằng chúng tôi sẽ có cơ hội thành công hơn nếu chúng tôi bắt đầu bằng một dự luật được viết sẵn cụ thể. Sau khi gặp các lãnh đạo quốc hội trong phòng Nội các, tôi đề nghị với Bob Dole chúng tôi cùng làm việc với nhau về việc viết dự luật. Tôi làm như vậy vì Bob và chánh văn phòng của ông, một cựu y tá ấn tượng tên Sheila Burke, thực sự quan tâm đến y tế, và trong mọi trường hợp, khi tôi đưa ra một dự luật mà ông không thích thì ông cũng vẫn có thể dùng filibuster để chặn nó lại. Bob từ chối cùng soạn thảo, nói rằng tôi nên tự đệ trình dự luật của mình, và chúng ta sẽ thỏa hiệp sau. Lúc ấy có thể ông ấy có ý thế thật, nhưng về sau hóa ra không phải như vậy.

Theo lịch, tôi sẽ đệ trình kế hoạch y tế lên kỳ họp chung của lưỡng viện quốc hội vào ngày 22 tháng 9. Tôi thấy lạc quan. Sáng đó tôi đã ký thông qua luật thành lập AmeriCorps, một chương trình dịch vụ quốc gia; đó là một trong những ưu tiên cá nhân quan trọng nhất của tôi. Tôi cũng chỉ định Eli Segal, người đã đưa dự luật thông qua quốc hội, làm người đứng đầu hành pháp đầu tiên của Tổ chức Dịch vụ Quốc gia. Tham dự buổi lễ ký ở Bãi cỏ phía sau Nhà Trắng có những thanh niên đã đáp ứng lời kêu gọi của tôi thực hiện dịch vụ cộng đồng mùa hè năm đó; hai cựu chiến binh lớn tuổi của Tập đoàn xây dựng dân sự có từ thời FDR - mà các công trình của nó đến nay vẫn là những tòa nhà tiêu biểu của nước Mỹ; và Sargent Shriver, giám đốc đầu tĩên của Tổ chức Thiện nguyên Hòa bình (Peace Corps). Sarge đã cố ý cho tôi mượn một trong những cây viết mà Tổng thống Kennedy đã dùng 32 năm trước để ký luật thành lập Peace Corps, và tôi dùng nó để đưa AmeriCorps vào hiện thực. Trong năm năm kê tiếp, gần 200.000 thanh niên Mỹ đã tham gia vào AmeriCorps, nhiều hơn số người đã tham gia phục vụ trong lịch sử 40 năm của Peace Corps.

Tối ngày 22, tôi thấy tự tin khi bước dọc lối đi của trụ sở hạ viện và nhìn lên Hillary đang ngồi ở ban công với hai bác sĩ nổi tiếng nhất nước Mỹ, bác sĩ nhi khoa T. Berry Brazelton, bạn lâu năm của cô ấy, và Bác sĩ c. Everett Koop, người từng là phẫu thuật trưởng của Tổng thống Reagan, một vị trí mà ông dùng để giáo dục cả quốc gia về AIDS và tầm quan trọng của việc ngăn chặn không cho nó lan rộng. Cả Brazelton và Koop đều ủng hộ cải tổ y tế, đem lại uy tín lớn cho nỗ lực của chúng tôi.

Sự tự tin của tôi chựng lại khi tôi liếc nhìn về phía máy TelePrompTer (màn hình "nhắc bài", đặt đối diện diễn giả và chạy nội dung diễn văn cho diễn giả nhìn vào để nói - ND) để bắt đầu trình bày. Bài diễn văn của tôi không có trên đó. Thay vào đó, trước mặt tôi là phần đầu bài phát biểu mà tôi đã trình bày với quốc hội về kế hoạch kinh tế hồi tháng 2. Ngân sách đã được thông qua hơn một tháng trước; quốc hội không cần phải nghe lại bài nói này nữa. Tôi quay sang Al Gore đang ngồi trên chiếc ghế thường lệ của anh sau lưng tôi, giải thích rắc rối, và yêu cầu anh gọi George Stephanopoulos để sửa lại. Trong khi đó tôi bắt đầu nói. Tôi có mang theo bản viết tay và tôi biết điều mình muốn nói, vì thế tôi không lo lắng nhiều, mặc dù hơi bị phân tâm khi phải nhìn theo những dòng chữ không trùng hợp trên màn hình TelePromTer. Đến phút thứ bảy, cuối cùng thì dòng chữ đúng cũng xuất hiện. Tôi không nghĩ mọi người có thể nhận ra sự khác biệt vào lúc bấy giờ, nhưng như vậy cũng đủ làm cho tôi tự tin hơn.

Tôi giải thích vấn đề một cách đơn giản và thẳng thắn, rằng chi phí cho hệ thống của chúng ta quá nhiều và bảo hiểm cho quá ít người. Tôi phác ra những nét chính của kế hoạch là: an ninh, đơn giản, tiết kiệm, có lựa chọn, chất lượng, và trách nhiệm. Ai cũng được bảo hiểm, thông qua những nhà bảo hiểm tư nhân, mà sẽ không bị thua thiệt khi có người bị bệnh hay thay đổi nghề nghiệp; sẽ ít thủ tục giấy tờ hơn nhờ một hợp đồng bảo hiểm y tế chuẩn với mức tối thiểu; chúng ta có thể tiết kiệm rất nhiều vì chi phí hành chính thấp hơn, mà lúc này đang cao hơn đáng kể so với các quốc gia giàu có khác, và chặn đứng được gian lận và lạm dụng. Theo Tiến sĩ Koop thì có thể tiết kiệm được hàng tỷ đôla.

Theo kế hoạch của chúng tôi, người Mỹ có thể lựa chọn hợp đồng bảo hiểm y tế của riêng họ và vẫn khám với các bác sĩ mà họ thích một lựa chọn ngày càng nhiều người Mỹ vốn được bảo hiểm bởi các tổ chức duy trì sức khỏe (HMO) không còn có được. Các HMO này cố gắng giảm chi phí bằng cách hạn chế các lựa chọn và xem xét rất kỹ trước khi chấp thuận thanh toán cho những ca điều trị tốn kém. Chất lượng được bảo đảm bởi phiếu báo cáo định kỳ khám chữa bệnh y tế của từng người sử dụng, và cung cấp thêm thông tin cho các bác sĩ. Trách nhiệm được củng cố nhằm chống lại các công ty bảo hiểm nào từ chối không thanh toán cho các trường hợp trị bệnh chính đáng, những công ty gian lận hóa đơn, các công ty dược nào tính tiền thuốc quá qui định, các luật sư nào dựng lên những vụ kiện lừa bịp, và các công dân vì lựa chọn sai mà làm cho sức khỏe của mình suy yếu và ảnh hưởng đến chi phí chăm sóc y tế của người khác.

Tôi đề nghị nâng tỷ lệ các giới chủ mua bảo hiểm y tế cho nhân viên từ 75% lúc đó lên 100%, có áp dụng một phần miễn giảm đối với các chủ doanh nghiệp nhỏ. Phần tiền trợ cấp bù vào khoản miễn giảm này sẽ lấy từ việc tăng thuế đánh trên thuốc lá. Chủ doanh nghiệp thì được trừ phần tiền bảo hiểm y tế cho chính mình ra khỏi thu nhập chịu thuế.

Nếu hệ thống tôi đề nghị được đưa vào thực tế, nó sẽ làm giảm lạm phát trong chi phí y tế, trang trải gánh nặng chi trả chăm sóc sức khỏe theo cách công bằng hơn, và đem lại an toàn sức khỏe cho hàng triệu người Mỹ chưa được hưởng. Và nó sẽ đặt dấu chấm hết cho những bất công mà cá nhân tôi gặp phải, như trường hợp một phụ nữ phải nghỉ việc để có thể nuôi sáu đứa con với thu nhập 50.000 đôla một năm chỉ vì đứa con nhỏ nhất bị bệnh đến mức cô ấy không thể giữ lại khoản bảo hiểm y tế của mình, và cách duy nhất người mẹ giúp đứa con mình có được bảo hiểm y tế cho nó là phải chuyển qua nhận trợ cấp xã hội và đăng ký vào chương trình Medicaid; hay một cặp vợ chồng trẻ khác có con nhỏ bị bệnh mà chỉ được hưởng bảo hiểm y tế nhờ hợp đồng của cơ quan của cha hoặc mẹ, một tổ chức phi lợi nhuận bé nhỏ chỉ có 20 nhân viên. Chi phí chăm sóc đứa trẻ đắt đỏ đến nỗi chủ cơ quan đó buộc phải lựa chọn hoặc sa thải nhân viên có con ốm hoặc phải tăng phí bảo hiểm của tất cả những nhân viên khác thêm 200 đôla. Tôi nghĩ người Mỹ phải được hưởng nhiều hơn thế.

Hillary, Ira Magaziner, Judy Feder và tất cả những người giúp họ soạn thảo ra một kế hoạch mà chúng ta có thể áp dụng trong khi vân giảm thâm hụt. Và trái ngược với điều sau này mọi người hình dung, các chuyên gia y tế lúc đó nói chung khen ngợi bản kế hoạch là đơn giản và khả thi. Đó chắc chắn không phải là chuyện chính phủ xông ra làm thay hệ thống y tế như lời những người chỉ trích lên án, nhưng sau này người ta đồn đãi như vậy. Tối 22, tôi chỉ còn biết mừng là máy TelePrompTer dù sao cũng hoạt động được.

Đến cuối tháng 9, tin tức về nuớc Nga lại xuất hiện trên trang nhất khi các thành viên nghị viện cứng rắn quyết đảo chính lật đổ Yeltsin. Đáp lại, ông giải tán quốc hội và kêu gọi cuộc bầu cử mới vào ngày 12 tháng 12. Chúng tôi dùng cuộc khủng hoảng để tăng thêm viện trợ cả gói cho nước Nga, kế hoạch này được hạ viện thông qua với tỷ lệ 321-108, vào ngày 29 tháng 9, và thượng viện với tỷ lệ 87-11 vào ngày 30 tháng 9.

Chủ nhật, ngày 3 tháng 10, mâu thuẫn giữa Yeltsin và các đối thủ phản động của ông trong Viện Duma đã biến thành trận chiến trên các đường phố Moscow. Các nhóm vũ trang mang cờ búa liềm và chân dung Stalin đã bắn đạn B40 vào tòa nhà có trụ sở của nhiều đài truyền hình Nga. Các lãnh tụ cải tổ khác trong các nước cựu Cộng sản, kể cả Václav Havel, đã phát biểu ủng hộ Yeltsin, và tôi cũng thế. Tôi nói với các phóng viên rằng rõ ràng là các đối thủ của Yeltsin đã khai mào bằng bạo lực, rằng Yeltsin đã "lùi về sau" để tránh dùng đến quá nhiều vũ lực, và rằng Hoa Kỳ sẽ ủng hộ ông ấy cũng như nỗ lực của ông tổ chức các cuộc bầu cử quốc hội tự do và công bằng. Ngày tiếp theo, lực lượng vũ trang Nga bắn pháo vào tòa nhà quốc hội và đe dọa sẽ xông vào, buộc các lãnh tụ nổi dậy phải đầu hàng. Tôi gọi cho Yeltsin gửi đi thông điệp ủng hộ khi đang ở trên chiếc Air Force One bay đi California.

Đêm đó, cuộc chiến trên đường phố Moscow xuất hiện ở đầu trang tin tức trên khắp thế giới, nhưng các bản tin ở Mỹ lại đưa một câu chuyện hoàn toàn khác đánh dấu những ngày đen tối nhất trong nhiệrr kỳ tổng thống của tôi và tạo ra cụm từ nổi tiếng "Black Hawk Down".

Tháng 12 năm 1992, Tổng thống Bush, được sự ủng hộ của tôi, đã gửi quân Mỹ đến Somalia để giúp Liên hiệp quốc sau khi hơn 350.000 người Somalia thiệt mạng trong cuộc nội chiến đẫm máu kéo theo nạn đói và bệnh tật. Vào thời điểm đó, cố vấn an ninh quốc gia của Bush là tướng Brent Scowcroft nói với Sandy Berger rằng binh sĩ sẽ về nước trước khi tôi nhậm chức. Nhưng việc này không xảy ra vì Somalia không hề có chính phủ hoạt động được, và nếu không có binh sĩ của chúng ta thì bọn tội phạm có vũ trang sẽ đánh cắp lương thực do Liên hiệp quốc cung cấp và nạn đói sẽ quay lại. Trong một vài tháng tiếp theo, Liên hiệp quốc đã gửi đến khoảng 20.000 quân và chúng tôi cắt giảm lực lượng Mỹ từ 25.000 người xuống còn 4000. Sau bảy tháng, mùa màng đã được trồng lại, nạn đói chấm dứt, những người tị nạn đã hồi hương, trường học và bệnh viện mở lại, lực lượng cảnh sát được thành lập, và rất nhiều người Somalia tham gia vào tiến trình hòa giải tiến tớn nền dân chủ.

Sau đó, vào tháng 6, vây cánh vũ trang của tướng người Somalia là Mahammed Aidid sát hại 24 người Pakistan thuộc lực lượng gìn giữ hòa bình. Aidid và những tên tội phạm có vũ trang của ông ta kiểm soát phần lớn thủ đô Mogadishu và không thích tiến trình hòa giải, muốn kiểm soát Somalia. Ông ta nghĩ ông ta phải đuổi lực lượng Liên hiệp quốc ra khỏi đất nước thì mới kiểm soát được. Sau khi các binh sĩ Pakistan bị giết, Tổng thư ký Liên hiệp quốc Boutros-Ghali và đại diện ở Somalia của ông là Đô đốc Mỹ về hưu Jonathan Howe quyết định bắt giữ Aidid. Họ tin rằng sứ mệnh của Liên hiệp quốc không thể hoàn thành nếu Aidid chưa được đưa ra trước công lý. Vì Aidid được bảo vệ nghiêm ngặt bởi các lực lượng có vũ trang dầy đặc, nên Liên hiệp quốc không thể nào bắt được ông ta và đã yêu cầu Mỹ giúp đỡ. Đô đốc Howe, người đã từng là phó cho Brent Scowcroft trong Nhà Trắng dưới thời Bush, tin rằng, đặc biệt sau khi binh sĩ gìn giữ hòa bình Pakistan bị giết, việc bắt giữ Aidid và đưa ông ta ra tòa là cách duy nhất kết thúc các mâu thuẫn phe phái đang làm cho Somalia ngập trong bạo lực, thất bại và hỗn loạn.

Chỉ vài ngày trước khi thôi giữ chức chủ tịch Hội đồng Tham mứu Liên quân, Colin Powell đã đến gặp tôi đề nghị tôi đồng ý cho Mỹ cùng nỗ lực bắt giữ Aidid, mặc dù anh ấy nghĩ rằng chúng ta chỉ có 50% cơ hội bắt được ông ta, trong đó có 25% cơ hội bắt sống được Aidid. Tuy vậy, Colin đưa ra ý kiến, chúng ta không thể cư xử như thể chúng ta chẳng hề quan tâm rằng Aidid đã sát hại các binh sĩ Liên hiệp quốc đang cùng phục vụ với binh sĩ Mỹ được. Nếu cứ để Liên hiệp quốc mãi không bắt được Aidid như vậy chỉ làm tăng thêm vị thế của ông ta và làm ô uế bản chất nhân đạo của sứ mệnh Liên hiệp quốc, tôi đồng ý như vậy.

Chỉ huy Biệt động quân của Mỹ lúc bấy giờ là thiếu tướng William Garrison. Sư đoàn 10 Sơn cước của Lục quân, đóng tại Fort Drum, New York cũng có quân ở Somalia dưới quyền chỉ huy chung của lực lượng Mỹ ở đó, tướng Thomas Montgomery. Cả hai đều báo cáo cho tướng Thủy quân lục chiến Joseph Hoar, chỉ huy của Bộ Chỉ huy Trung tâm ở Căn cứ không quân MacDill ở Tampa, Florida. Tôi biết Hoar và hoàn toàn tin tưởng vào khả năng và hiểu biết của ông.

Ngày 3 tháng 10, dựa vào nguồn tin rằng hai trợ thủ hàng đầu của Aidid đang ở trong khu vực "Black Sea" ở Mogadishu mà ông ta đang kiểm soát, thiếu tướng Garrison ra lệnh cho Biệt động quân tấn công tòa nhà đó. Họ bay vào Mogadishu trên những chiếc trực thăng Black Hawk giữa thanh thiên bạch nhật. Thực hiện chiến dịch vào ban ngày có nhiều rủi ro hơn so với ban đêm. Trong bóng đêm, khó thấy trực thăng và binh sĩ hơn và các thiết bị hỗ trợ ban đêm cho họ khả năng di chuyển y như ban ngày. Garrison quyết định chấp nhận rủi ro vì lính của ông đã tiến hành thành công ba chiến dịch trước đó giữa ban ngày.

Biệt động quân ào vào tòa nhà và bắt giữ mấy phụ tá của Aidid và một số nhân vật kém quan trọng khác. Lúc này cuộc tập kích bỗng biến thành thảm họa. Quân của Aidid phản công, bắn hạ hai chiếc Black Hawk. Phi công của chiếc Black Hawk đầu tiên bị kẹt trong máy bay. Biệt động quân không thể bỏ anh ta lại: họ không bao giờ bỏ lại đồng đội ở chiến trường, bất kể còn sống hay đã chết. Khi họ quay lại, trận đọ súng thực sự nổ ra. Không lâu sau đó, 90 lính Mỹ bao quanh trực thăng, bắn nhau ác liệt với hàng trăm người Somalia. Tiếp theo, đội Phản ứng Nhanh của tướng Montgomery tham gia hành động, nhưng phản ứng của người Somalia dữ dội và mãi sau đêm đó chiến dịch giải cứu mới thành công. Khi trận chiến kết thúc, 19 lính Mỹ bị chết, hàng tá người khác bị thương, và phi công Mike Durant của chiếc Black Hawk bị bắt. Hơn 500 người Somalia thiệt mạng và hơn 1.000 người bị thương. Người Somalia giận dữ kéo lê thi thể của viên phi công chính trên chiếc Black Hawk bị bắn rơi dọc các con phô của Mogadishu.

Người Mỹ cuồng nộ và sửng sốt. Làm sao sứ mệnh nhân đạo lại chuyển thành nỗi ám ảnh bắt cho được Aidid thế này? Tại sao các lực lượng Mỹ lại thực hiện ước muốn của Boutros-Ghali và Đô đốc Howe? Thượng nghị sĩ Robert Byrd kêu gọi kết thúc "chiến dịch cảnh sát bắt kẻ trộm" này. Thượng nghị sĩ John McCain nói: "Clinton phải đưa các binh sĩ về nhà". Đô đốc Howe và tướng Garrison vẫn muốn truy lùng Aidid; theo các nguồn tin của họ ở Mogadishu thì rất nhiều đồng minh của ông ta đã rời khỏi thành phố và bây giờ muốn bắt ông ta thì không phải tốn quá nhiều công sức nữa.

Ngày 16, bộ phận an ninh quốc gia họp tại Nhà Trắng. Tony Lake cũng đem theo Robert Oakley, người đã từng là viên chức dân sự Mỹ hàng đầu ở Mogadishu từ tháng 12 đến tháng 3. Oakley tin rằng Liên hiệp quốc, kể cả người bạn cũ của anh là Đô đốc Howe đã sai lầm khi loại bổ Aidid ra khỏi tiến trình chính trị và trở nên ngày càng ám ảnh việc truy bắt bằng được ông ta. Anh cũng không đồng ý với quyết định dùng lực lượng Mỹ để đi bắt Aidid giùm Liên hiệp quốc.

Tôi rất thông cảm với tướng Garrison và với những người muốn quay lại làm cho xong việc. Tôi cũng đau buồn vì tổn thất binh lính của chúng ta và tôi muốn Aidid phải trả giá. Nếu để bắt được ông ta chúng ta đã phải mất 18 binh sĩ Mỹ chết và 84 bị thương, thì làm cho xong nốt việc chẳng phải cũng đáng lắm sao? Vấn đề nằm ở chỗ nếu chúng ta quay lại và bắt được Aidid, dù còn sống hay đã chết, thì chúng ta, chứ không phải Liên hiệp quốc sẽ sở hữu Somalia, và sẽ không có gì bảo đảm rằng chúng ta có thể thống nhất Somalia về chính trị tốt hơn Liên hiệp quốc đã làm. Những sự kiện tiếp theo đã chứng tỏ quan điểm đó: sau khi Aidid chết già năm 1996, Somalia vẫn bị chia cắt. Hơn thế nữa, quốc hội không ủng hộ vai trò quân sự lớn hơn ở Somalia, như tôi được biết trong một cuộc gặp ở Nhà Trắng với một số thành viên quốc hội; hầu hết họ đều yêu cầu rút lực lượng của chúng ta khỏi Somalia ngay lập tức. Tôi kiên quyết phản đối, và cuối cùng chúng tôi đi đến thỏa hiệp là phải có một giai đoạn chuyển tiếp sáu tháng. Tôi không ngại đối đầu với quốc hội, nhưng tôi phải cân nhắc những hậu quả của bất cứ hành động nào có thể gây khó dễ cho việc đạt được sự ủng hộ của quốc hội đồng ý gửi quân đến Bosnia và Haiti, nơi mà những quyền lợi lớn hơn nhiều của chúng ta đang bị đe dọa.

Cuối cùng tôi đồng ý cử Oakley đến gặp Aidid để thỏa thuận thả Mike Durant, viên phi công bị bắt giữ. Anh được hướng dẫn rõ ràng: Nước Mỹ sẽ không trả thù nếu Durant được trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện. Chúng tôi cũng sẽ không trao đổi những người vừa bắt được để đổi lấy Mike Durant. Oakley chuyển đi thông điệp và Durant được thả. Tôi tăng cường lực lượng ở Somalia và đưa ra ngày rút quân cụ thể, cho Liên hiệp quốc sáu tháng để tái lập quyền kiểm soát và tổ chức nền chính trị Somalia có hiệu quả. Sau khi Durant được thả, Oakley bắt đầu các cuộc thương lượng với Aidid và cuối cùng đi đến thỏa thuận ngưng bắn.

Trận chiến ở Mogadishu ám ảnh tôi. Tôi nghĩ tôi đã biết Tổng thống Kennedy cảm thấy thế nào sau sự kiện vịnh Con Heo. Tôi phải chịu trách nhiệm cho một chiến dịch mà tôi đã chấp thuận nguyên tắc nhưng không đồng ý về chi tiết. Không như sự kiện vịnh Con Heo, về mặt quẩn sự, trận Mogadishu không phải là một thất bại - Đội Biệt động đặc nhiệm đã bắt các phụ tá của Aidid bằng cách đổ bộ vào giữa Mogadishu lúc ban ngày ban mặt, hoàn thành nhiệm vụ phức tạp và khó khăn, và phải chịu những tổn thất bất ngờ nhưng họ cũng không kém phần can đảm và khéo léo. Nhưng tổn thất đã làm cho nước Mỹ bàng hoàng, và trận chiến gây ra tổn thất đó không tương xứng với sứ mệnh nhân đạo cao cả hơn của chúng ta và của Liên hiệp quốc.

Điều làm tôi băn khoăn nhất là khi tôi đồng ý sử dụng các lực lượng Mỹ để bắt Aidid, tôi không lường rằng trận này sẽ là tấn công giữa ban ngày vào một nơi đầý những lực lượng thù địch. Tôi tưởng chúng tôi sẽ cố gắng bắt giữ khi ông ta đang di chuyển, cách xa số đông dân thường vốn tạo nên lá chắn cho toán vũ trang đi theo bảo vệ ông ta. Tôi tưởng mình chấp thuận một hành động kiểu cảnh sát do các binh sĩ Mỹ có khả năng hơn, được trang bị và huân luyện tốt hơn các binh sĩ khác trong lực lượng của Liên hiệp quốc. Rõ ràng Colin Powell cũng nghĩ như thế khi đề nghị tôi chấp thuận; khi tôi đã rời Nhà Trắng và anh ấy là bộ trưởng ngoại giao, Powell nói lẽ ra anh ây không nên chấp thuận chiến dịch như vậy nếu nó không được thực hiện vào ban đêm. Nhưng chúng tôi đã không thảo luận điều đó, cũng như rõ ràng không có ai đưa ra cho tướng Garrison bất cứ ràng buộc nào trong các lựa chọn tác chiến. Colin Powell rời chức vụ chủ tịch Hội đồng Tham mưu Liên quân ba ngày trước cuộc tấn công và John Shalikashvili vẫn chưa được quốc hội chuẩn y làm người thay thế. Cuộc tấn công cũng không được ra lệnh bởi tướng Hoar ở Bộ chỉ huy trung tâm hay Lầu năm góc. Kết quả là, thay vì ra lệnh thực hiện một chiến dịch mang tính chất cảnh sát, tôi đã ra lệnh một cuộc tấn công quân sự ở một lãnh thổ đầy hận thù.

Trong thư viết tay gửi tôi một ngày sau trận đánh, tướng Garrison đã nhận trách nhiệm hoàn toàn vì đã quyết định ra lệnh tấn công, ông ấy đưa ra những lý do dẫn đến quyết định này: tin tình báo chính xác; binh sĩ của ông dày dạn kinh nghiệm; nắm được lực lượng địch; chiến thuật phù hợp; khâu kế hoạch đã xong; đoàn xe bọc thép hỗ trợ lẽ ra đã có thể có ích hơn, nhưng không thể giảm số nạn nhân là người Mỹ, bởi vì lính biệt động không bỏ đồng đội lại, mà một trong số đó bị kẹt trong xác trực thăng. Garrison kết thúc thư: "Nhiệm vụ

Tôi kính trọng Garrison và đồng ý với lá thư của ông ấy, trừ ý cuối cùng. Tôi không cách nào có thể, hoặc không nên rũ bỏ "trách nhiệm" dược. Tôi tin rằng cuộc tấn công là một sai lầm, bởi vì tiến hành nó giữa ban ngày là đã đánh giá thấp sức mạnh và lòng quyết tâm của các lực lượng của Aidid và bỏ qua khả năng mất một hoặc nhiều hơn nữa số trực thăng. Mạo hiểm như vậy trong thời chiến có thể chấp nhận được, nhưng trong sứ mệnh gìn giữ hòa bình thì không thể, bởi vì giá trị của chiến thắng không xứng với sự nguy hiểm đối với các nạn nhân và những hậu quả làm thay đổi bản chất sứ mệnh của chúng ta trong mắt của cả người Somalia lẫn người Mỹ. Việc lùng bắt Aidid và các trợ lý cao cấp của ông ta vì các lực lượng Liên hiệp quốc không thể làm được phải được coi là việc làm phụ của các chiến dịch của chúng ta ở đó chứ không phải là mục đích chính. Trong những hoàn cảnh thích hợp, làm như vậy là rất xác đáng, nhưng khi tôi đồng ý với đề nghị của tướng Powell, lẽ ra tôi cũng nên yêu cầu sự chấp thuận trước của Lầu năm góc và Nhà Trắng cho bất cứ chiến dịch nào quan trọng như thế này. Tôi không hề kết án tướng Garrison, một người lính tốt mà sự nghiệp của ông đang bị hủy hoại một cách bất công. Quyết định của ông, dựa trên những gì được hướng dẫn, là có thể châm trước được. Thế nhưng những hậu quả lớn hơn của nó cần phải được cấp cao hơn quyết định.

Trong những tuần tiếp theo, tôi đi thăm nhiều binh sĩ bị thương ở Bệnh viện Walter Reed Army và có hai cuộc gặp mặt xúc động với các gia đình những binh sĩ thiệt mạng. Trong một cuộc, tôi phải đối diện với những câu hỏi gay gắt của hai người cha đau khổ, Larry Joyce và Jim Smith, một cựu Biệt động quân đã mất một chân ở Việt Nam. Họ muốn biết con trai họ chết cho điều gì và tại sao chúng ta lại thay đổi hướng hành động. Khi tôi truy tặng Huân chương Danh dự cho hai tay bắn tỉa của lực lượng Delta là Gary Gordon và Randy Shugart vì hành động anh dũng của họ trong khi giải cứu Mike Durant cùng tổ lái trực thăng, gia đình họ vẫn đang còn rất đau khổ. Cha của Shugart giận tôi ghê gớm, và ông tức giận nói rằng tôi không xứng đáng làm Tổng Tư lệnh. Theo tôi, với mất mát như vậy, ông ấy muốn nói gì cũng được. Tôi không thể biết liệu ông cảm thấy như vậy, vì tôi chưa từng phục vụ ở Việt Nam, hay vì tôi đã chuẩn y chính sách dẫn đến cuộc tấn công này, hay vì tôi đã từ chối quay lại truy lùng Aidid sau ngày 3 tháng 10. Bất chấp những điều đó, tôi vẫn không tin rằng lợi ích về tinh thần, về chính trị hay về chiến lược của việc bắt hay giết được Aidid có thể biện minh cho những mất mát hơn nữa mạng sống của cả hai bên, hoặc cho việc khiến Mỹ phải gánh trách nhiệm đối với tương lai của Somalia từ tay Liên hiệp quốc.

Sau sự kiện Black Hawk Down, bất cứ khi nào tôi chấp thuận gửi quân đi, tôi đều biết nhiều hơn về những hiểm nguy đang chờ, và bảo đảm chắc chắn các chiến dịch phải được chấp thuận ở Washington. Bài học Somalia không mất đi đối với những nhà hoạch định kế hoạch quân sự, những người vạch ra tiến trình cho chúng ta ở Bosnia, Kosovo, Afghanistan, và những điểm nóng khác của thế giới hậu Chiến tranh Lạnh, nơi người Mỹ thường được yêu cầu can thiệp để chấm dứt bạo lực tràn lan, và thường được mong đợi làm như vậy mà không làm tổn thất nhân mạng của chính chúng tôi, của kẻ thù của chúng tôi và của những người dân thường vô tội. Thách thức phải giải quyết những vấn đề phức tạp như Somalia, Haiti và Bosnia đã khiến Tony Lake thốt lên rằng: "Đôi khi tôi thấy nhớ Chiến tranh Lạnh".

đã hoàn thành tốt đẹp. Mục tiêu đã bị bắt giữ và đưa khỏi hiện trường... Tổng thống Clinton và Bộ trưởng Aspin không cần phải chịu trách nhiệm".