Chương 36
Những ngày còn lại của tháng 10 tôi chủ yếu tập trung vào việc giải quyết thảm họa tại Somalia và né tránh các nỗ lực của quốc hội trong việc hạn chế quyền lực điều quân sang Haiti và Bosnia của tôi.
Vào ngày 26.10, cuối cùng chúng tôi cũng có một ít thời gian thư giãn: mở tiệc mừng sinh nhật đầu tiên của Hillary tại Nhà Trắng. Đó là một buổi tiệc hoá trang. Các nhân viên sắp xếp để chúng tôi ăn mặc trông giống như James và Dolley Madison, về đến nhà sau một ngày dài làm việc về các vấn đề về phúc lợi y tế, cô ấy được dẫn lên lầu vào một căn phòng tối đen như mực trong Nhà Trắng để tìm y phục. Cô ấy bước xuống lầu, rạng ngời trong chiếc váy phồng và bộ tóc giả, còn tôi thì đeo tóc giả trắng, vận bộ trang phục bó sát người kiểu thời thuộc địa, mây nhân viên nữa cũng ăn mặc giống như cô ấy, với các kiểu tóc khác nhau. Tóc tôi thời điểm ấy cũng đã ngả bạc nên bộ tóc giả trắng xem ra rất hợp, nhưng còn bộ quần áo chẽn làm tôi trông rất ngố.
Sáng hôm sau, dĩ nhiên sau khi đã đổi sang trang phục bình thường, Hillary và tôi trình dự luật y tế trước quốc hội. Mấy tuần trước, Hillary đã nói sơ qua vấn đề này với các thành viên của quốc hội ở cả hai đảng và đã nhận được rất nhiều lời khen ngợi. Nhiều thành viên trong đảng Cộng hòa không ngớt lời khen nỗ lực của chúng tôi, và Thượng nghị sĩ John Chafee của Rhode Island, đại diện thượng nghị viện đảng Cộng hòa, cho rằng mặc dù không tán đồng một số phần trong kế hoạch của chúng tôi, song có thể hợp tác với chúng tôi để đi đến một thoả hiệp. Tôi bắt đầu tin là chúng tôi có thể tranh luận trên tinh thần xây dựng để đưa ra một chương trình gần giống như chương trình bảo hiểm y tế miễn phí trên toàn quốc.
Những người hay chỉ trích chúng tôi tha hồ mà nghiên cứu bản dự luật dài 1.342 trang. Năm nào quốc hội cũng thông qua các dự luật dài hơn một nghìn trang nói về các vấn đề từ đơn giản đến phức tạp. Hơn nữa, dự luật của chúng tôi sẽ vô hiệu hoá nhiều văn bản pháp luật đang có hiệu lực hơn là tạo thêm quy định mới. Ớ Washington ai cũng biết điều này, duy chỉ có dân Mỹ là không biết. Chính độ dài của dự luật đã giúp dân chúng tin vào các chương trình tuyên truyền chống lại dự luật đang được các công ty bảo hiểm y tế tung ra. Các công ty này dựng nên hai nhân vật trông rất bình thường có tên Harry và Louise, hai nhân vật này nói lên nỗi lo sợ rằng chính phủ sẽ "ép buộc chúng ta phải lựa chọn trong một số các kế hoạch y tế được phác thảo bởi mấy tên viên chức chính phủ quan liêu". Chương trình quảng cáo ấy hoàn toàn gây hiểu nhầm, nhưng phải công nhận chúng được xây dựng rất khéo léo và có được một số lượng khán giả xem rất đông. Nói cho đúng, chính giá cả do các công ty bảo hiểm áp đặt là lý do chính khiến dân Mỹ phải chi trả nhiều hơn cho y tế mà vẫn không hề có được bảo hiểm y tế đại trà mà công dân tại các nước phát triển đều xem là chuyện dĩ nhiên. Các công ty bảo hiểm này muốn giữ vững lợi nhuận từ một hệ thống thiếu hiệu quả và không công bằng; vì thế mỗi khi có bất kỳ động thái nào của chính phủ, họ luôn lợi dụng cơ hội để cố tình gieo vào đầu các công dân Mỹ vốn nổi tiếng là hay nghi ngờ về sự yếu kém của chính phủ.
Đến đầu tháng 11, tờ Congesstional Quarterly cho hay kể từ thời Tổng thống Eisenhower vào năm 1953 đến nay, tôi là người có được tỉ lệ ủng hộ cao nhất ở quốc hội trong năm đầu tiên làm tổng thống. Chúng tôi đã thông qua kế hoạch kinh tế, giảm thâm hụt ngân sách, thực hiện nhiều việc mà tôi đã từng hứa trong đợt vận động tranh cử, bao gồm tăng EITC, phát triển cộng đồng, giảm thuế lợi nhuận cho các doanh nghiệp nhỏ, các chương trình nhập cư trẻ em, cải cách chương trình cho vay đối với sinh viên. Quốc hội cũng đã thông qua chương trình dịch vụ toàn quốc, gói viện trợ cho Nga, dự luật tinh giản thủ tục đăng kí bỏ phiếu, và luật nghỉ phép việc gia đình. Cả thượng nghị viện và hạ nghị viện của quốc hội đều thông qua các phiên bản về dự luật tội phạm do tôi đề ra, bắt đầu bằng việc chi tiền để có thêm 100.000 cảnh sát theo như lời tôi đã hứa khi tranh cử. Trong vòng bốn năm trở lại, đây là năm nền kinh tế tạo ra nhiều việc làm trong khu vực kinh tế tư nhân nhất. Tỉ lệ lãi suất vẫn còn thấp, và đầu tư tăng cao.
Câu thần chú mà Al Gore đưa ra hồi tranh cử tổng thống quả nhiên đã linh nghiêm. Giờ đây những gì nên tăng đã tăng, còn những gì nên giảm đã giảm, chỉ trừ một ngoại lệ duy nhất. Mặc dù có những thành công nhất định, tỉ lệ ủng hộ tôi vẫn còn thấp. Vào ngày 7.11, trong một cuộc phỏng vấn đặc biệt Gặp gỡ báo chí với Tim Russert và Tom Brokaw trong buổi kỷ niệm lần thứ 46 của chương trình này, Russert hỏi tôi tại sao tỉ lệ ủng hộ tôi lại đi xuống, tôi trả lời không biết, nhưng thực ra tôi cũng biết được ít nhiều.
Vài ngày trước, tôi đã đọc một danh sách các thành tựu của chúng tôi cho một nhóm khách từ Arkansas đến thăm Nhà Trắng. Khi tôi đọc xong, một trong những vị khách đến từ quê nhà của tôi nói: "Vậy chắc là có âm mứu gì đó nhằm không đưa những thành công này ra cho công chúng biết, sao chúng tồi chẳng hề nghe nói gì về việc này hết". Thực ra một phần lỗi là do nơi tôi. Khi tôi làm xong việc gì đó, tôi liền chuyển qua làm tiếp một công việc mới mà không hề dành thời gian làm công việc quảng bá các thắng lợi đạt được. Trong chính trường, nếu anh không tự đánh bóng mình, coi như anh sẽ mãi xù xì. Một lý do nữa là do những cuộc khủng hoảng triền miên như Haiti và Somalia. Một lý do nữa là do ảnh hưởng của báo chí. Tôi cho rằng vụ cắt tóc, Bộ phận đi lại, chuyện về các nhân viên Nhà Trắng cũng như việc đưa ra quyết định của chúng tôi đã được thuật lại dưới ngòi bút của cánh phóng viên một cách méo mó hoặc phóng đại.
Mấy tháng trước, một cuộc khảo sát được thực hiện trên toàn nước Mỹ cho thấy tôi rất không được lòng giới báo chí. Một phần cũng lại do lỗi của tôi khi trước đó rất vụng về trong các môi quan hệ với cánh nhà báo. Và có lẽ báo chí, vốn được xem là có tư tưởng tiến bộ tự do, thực ra lại còn bảo thủ hơn cả tôi, ít ra là đối với việc thay đổi lề lối làm việc của một sô việc tại Washington. Chắc chắn họ có những quan điểm khác với tồi trong việc nhìn nhận xem sự việc như thế nào thì được coi là quan trọng. Vả lại, hầu hết những người viết về tôi còn khá trẻ, đang cố xây dựng sự nghiệp viết lách trong một chế độ làm việc là phải đưa tin 24/24, mà mỗi câu chuyên đều phải có dính dáng tới chính trị và giới đồng nghiệp nhà báo cũng không cổ vũ gì tin tích cực cả. Đây là điều không thể tránh khỏi trong một môi trường mà giới báo in biết rằng họ phải cạnh tranh gay gắt với các kênh tin tức, các kênh trùyền hình cáp, nơi mà ranh giới giữa các phương tiện truyền thông truyền thống, các báo lá cải, các ấn bản đảng phái, các chương trình phỏng vấn chính khách trên truyền thanh truyền hình ngày càng mờ dần đi.
Đảng Cộng hòa cũng góp phần trong việc tỉ lệ ủng hộ tôi xuống thấp: họ đã khá hiệu quả trong việc luôn công kích tôi cũng như các kế hoạch về y tế, kinh tế của tôi, và tận dụng tối đa các lỗi lầm của tôi. Kể từ lúc tôi đắc cử, đảng Cộng hòa đã thắng được nhiều đợt bầu cử đặc biệt vào thượng nghị viện Hoa Kỳ tại Texas và Georgia, các cuộc đua giành ghế thống đốc tại Virginia và New Jersey, các cuộc đua giành ghế thị trưởng tại New York và Los Angeles. Trong mỗi lần bầu cử như thế, kết quả được xác định bởi các nhân tố riêng biệt tại địa phương đó, nhưng chắc chắn là tôi không có một ảnh hưởng tích cực nào. Người dân không hề cảm thấy nền kinh tế đang khá dần lên, và kiểu rêu rao chống thuế, chống chính phủ vẫn còn hiệu nghiệm lắm. Rốt cuộc lại, những điều chúng tôi đang làm để giúp đỡ hàng triệu người Mỹ hoặc là quá phức tạp khiến người dân không thể hiểu được, chẳng hạn như Tín dụng Thuế thu nhập, hoặc là gây quá nhiều tranh cãi khiến không thể tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực về chính trị, mặc dù đó là những chính sách đúng đắn.
Tháng 11 cho thấy hai ví dụ về chính sách đúng đắn nhưng lại có thể gây hại về chính trị. Sau khi Al Gore hạ gục Ross Perot trong một cuộc tranh luận trên truyền hình về NAFTA được rất nhiều người theo dõi, nó được hạ nghị viện thông qua, với 234 phiếu thuận 200 phiếu chống. Ba ngày sau, thượng nghị viện tiếp tục thông qua, 61 thuận 38 chống. Mark Gearan tường thuật với báo chí rằng Al và tôi hoặc đã gọi điện hoặc đã đến gặp 200 thành viên của quốc hội, và nội các đã gọi 900 cú điện thoại. Tổng thống Carter cũng hỗ trợ, gọi điện cho các thành viên của quốc hội cả ngày trong suốt một tuần. Chúng tôi cũng phải thỏa thuận trên rất nhiều vấn đề, nỗ lực vận động cho NAFTA còn giống việc làm xúc xích hơn là lần chúng tôi chiến đấu để thông qua ngân sách. Bill Daley và cả đội của chúng tôi đã giành được một chiến thắng huy hoàng trên bình diện kinh tế và chính trị, nhưng cũng như lần thông qua ngân sách, chiến thắng lần này phải trả một giá đắt, gây chia rẽ nội bộ đảng của chúng tôi trong quốc hội và gây phẫn nộ cho nhiều người vốn đã từng ủng hộ chúng tôi hết mình.
Dự luật Brady cũng được thông qua vào tháng 11, sau khi các thượng nghị sĩ của đảng Cộng hòa từ bỏ ý định trì hoãn thông qua luật này do Hiệp hội Súng trường Quốc gia (NRA) giựt dây. Tôi đặt bút ký vào dự luật, dưới sự chứng kiến của Jim và Sarah Brady. Kể từ khi John Hinckley Jr. bắn Jim trong một mưu toan áp sát tổng thống Reagan, Jim và Sarah đã tham gia vận động đòi chính phủ đưa ra luật về an toàn sử dụng súng. Họ đã phải đấu tranh trong vòng bảy năm ròng rã để được thông qua một dự luật yêu cầu tất cả những người muốn mua súng phải trải qua một thời gian chờ đợi: đây là thời gian người ta kiểm tra tiểu sử, tiền án, các vấn đề về sức khỏe, tâm thần của người muốn mua súng. Tổng thống Bush đã từng phủ quyết một phiên bản trước đây của dự luật Brady do có sự chống đối dữ dội từ phía NRA, vì tổ chức này cho rằng dự luật đã xâm phạm quyền được cất giữ và mang vũ khí mà hiến pháp quy định. NRA cũng tin rằng thời gian chờ đợi trước khi được mua vũ khí là một điều không thể chấp nhận được đôi với những người mua súng hợp lệ và tuyên bố rằng thay vì vậy chúng ta chỉ cần gia tăng mức phạt đối với những người mua súng không hợp lệ. Hầu hết dân Mỹ đều ủng hộ dự luật Brady, nhưng một khi dự luật đã được thông qua, nó không còn là một vấn đề cân nhắc khi họ bỏ phiếu nữa. Trái lại, NRA cầm chắc khả năng đánh bại được rất nhiều thành viên của quốc hội, những người đã từng bỏ phiếu chống lại họ. Cho đến lúc tôi rời khỏi Nhà Trắng, việc kiểm tra tiền sử những người mua súng của luật Brady đã giúp ngăn hơn 600.000 tội phạm nguy hiểm, các tội phạm bị truy nã, cướp không mua được súng. Luật này giúp cứu sống vô số sinh mạng. Nhưng, cũng giống như ngân sách, nó khiến những ai dũng cảm dám bỏ phiếu ủng hộ cho nó phải chịu công kích, mà đôi lúc những công kích ấy hiệu quả đến mức khiến nhiều người mất chức.
Tuy vậy không phải tất cả những gì tôi làm đều gây tranh cãi. Vào ngày 16, tôi phê chuẩn đạo luật Khôi phục tự do tín ngưỡng. Đạo luật này nhằm bảo vệ những biểu hiện tôn giáo ở nơi công cộng như trường học và nơi làm việc. Dự luật này được lập ra nhằm đảo ngược quyết định của Tòa án tối cao cho phép các bang quyền kiểm soát đối với những hoạt động tôn giáo tại những nơi như thế. Nước Mỹ là nơi đầy những con người với những tín ngưỡng khác nhau. Tôi nghĩ dự luật đã tạo sự cân bằng giữa việc bảo vệ quyền lợi của cá nhân và nhu cầu về trật tự công cộng. Dự luật được ủng hộ ở thượng nghị viện bởi Ted Kennedy và Nghị sĩ đảng Cộng hòa Orrin Hatch của Utah, và thông qua 97 phiếu thuận, 3 chống. Hạ nghị viện cũng thông qua bằng bỏ phiếu miệng. Mặc dù Tòa án tối cao sau đó đã bác bỏ dự luật này, tôi vẫn tin rằng đây là một luật đúng đắn và cần thiết.
Tôi luôn tin rằng việc bảo vệ tự do tôn giáo và biến Nhà Trắng thành nơi tiếp nhận tất cả các tín ngưỡng tôn giáo là một phần quan trọng trong công việc của tôi. Tôi đã uỷ quyền cho một thành viên quan hệ công chúng của Nhà Trắng làm cầu nối với cộng đồng tôn giáo. Tôi tham dự tất cả mọi buổi Ăn sáng có cầu nguyên được tổ chức mỗi năm khi quốc hội chuẩn bị công việc, nói chuyện và ở lại suốt buổi để tôi có thể gặp gỡ mọi người thuộc các tôn giáo khác nhau và đảng phái chính trị khác nhau. Tất cả đều đến để cầu nguyện Chúa phù hộ cho công việc của chúng tôi. Và mỗi năm khi Quốc hội bắt đầu nhóm hợp lại sau khi nghỉ tháng 8, tôi tổ chức một buổi điểm tâm sáng tại Phòng ăn Quốc gia và tôi có thể nghe nguyện vọng của các lãnh đạo tôn giáo và chia sẻ nguyện vọng của cá nhân tôi với họ. Tôi muốn cởi mở mọi kênh liên lạc với họ, ngay cả đối với những người bất đồng quan điểm, tôi muốn làm việc với họ bất cứ khi nào có thể về các vấn đề xã hội trong nước và các vấn đề nhân đạo trên thế giới.
Tôi tin tưởng mãnh liệt vào sự tách bạch nhà thờ với chính quyền, nhưng tôi cũng tin rằng cả hai đều có những đóng góp không thể chối cãi được cho sức mạnh quốc gia, và rằng đôi khi cả hai có thể hợp tác cùng nhau cho một lý tưởng chung mà không vi phạm hiến pháp. Lý thuyết mà nói, chính quyền là không hoàn hảo, mang tính chất thử nghiệm và cũng luôn được cải tiến. Niềm tin tôn giáo nhấn mạnh vào đời sống nội tâm, đến sự tìm kiếm chân lý và khả năng thay đổi và phát triển của tinh thần. Các chương trình của chính quyền sẽ không hoạt động tốt trong nền văn hóa xem nhẹ giá trị gia đình, công việc và không có sự tôn trọng lẫn nhau. Và rất khó để chúng ta sống có lý tưởng mà không chăm sóc người nghèo và người bị đàn áp và "yêu thương hàng xóm như con yêu thương chính bản thân con" - trên niềm tin tôn giáo.
Tôi nghĩ về vai trò của tôn giáo trong đời sống chính trị trong giữa tháng 11 khi tôi đến Memphis để nói chuyện trước một hội nghị tôn giáo của Hội thánh Đức Chúa trời tổ chức tại Nhà thờ Mason Temple. Trước đó đã có một số thông tin trên báo chí về sự gia tăng bạo lực đối với trẻ em trong các khu vực người Mỹ gốc Phi, và tôi muốn bàn bạc với các mục sư và người dân cách đối phó. Rõ ràng là các yếu tố kinh tế và xã hội đứng đằng sau nạn thất nghiệp tại các trung tâm thành phố, gia đình tan vỡ, những vấn đề trên học đường và sự phụ thuộc ngày càng gia tăng vào các chương trình hỗ trợ của chính phủ, việc gia tăng sinh con ngoài giá thú, và bạo lực. Nhưng tất cả các khó khăn chồng chất lên nhau đã tạo ra một nền văn hoá quá quen với bạo lực và nạn thất nghiệp, chấp nhận việc con cái chỉ có cha hoặc mẹ, và tôi tin tưởng rằng chính phủ một mình không thể thay đổi nền văn hoá ấy. Nhiều nhà thờ của người da đen đã bắt đầu nghiên cứu cách giải quyết các vấn đề này và tôi muốn khuyến khích họ làm hơn thế nữa.
Khi tôi đến Memphis, tôi ở giữa những người bạn. Hệ phái Đức Chúa trời là một trong những hệ phái của người Mỹ gốc Phi phát triển nhanh nhất. Người sáng lập nhà thờ này, Charles Harrison Mason, có ý tưởng đặt tên của nhà thờ đó tại Little Rock, trên một địa điểm mà tôi đã từng giúp đặt một tấm bảng kỉ niệm hai năm trước. Vợ góa của ông có mặt ở nhà thờ vào ngày đó. Chủ lễ, Louis Ford từ Chicago, đã từng nắm vai trò quan trọng trong chiến dịch tranh cử tổng thống.
Mason Temple giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử dân quyền. Martin Luther King, Jr. đã giảng thuyết ở đây trong đêm trước khi bị giết. Tôi gợi lại tinh thần của King và dự đoán của ông khi ông nói rằng mình có thể không sống lâu hơn để tôi yêu cầu bạn bè tôi xem xét một cách nghiêm túc "vấn đề khủng hoảng trầm trọng của tinh thần đang xiết chặt lấy nước Mỹ ngày nay".
Sau đó tôi bỏ tờ giấy diễn văn đi, và phát biểu một bài mà nhiều nhà bình luận sau này cho là bài phát biểu haỷ nhất trong vòng tám năm của tôi trên cương vị tổng thống, nói chuyện với bạn bè từ trái tim trong ngôn ngữ của di sản chung của chúng tôi:
Nếu Martin Luther King xuất hiện ngay cạnh tôi ngày nay và đưa cho chúng ta xem bản báo cáo về 25 năm trở lại đây, ông sẽ nói gì. Ông sẽ nói bạn làm rất tốt, bầu cử người mà trước đây hầu như không thể ứng cử vì lý do màu da... bạn làm rất tốt, ông sẽ nói, tạo cơ hội cho người có khả năng làm những việc trên sống mọi nơi mà họ muốn sống, đi mọi nơi mà bạn muốn đi trong đất nước vĩ đại này... Ông sẽ nói bạn làm rất tốt trong việc tạo một tầng lớp trung lưu gồm người da đen... trong việc mở ra cơ hội cho họ.
Nhưng ông sẽ nói, tôi không sinh ra và chết đi để được nhìn thấy cảnh gia đình Mỹ bị tan vỡ. Tôi không được sinh ra và chết đi để được nhìn thấy cảnh các bé trai 13 tuổi sở hữu vũ khí tự động và bắn chết những đứa trẻ chín tuổi khác chỉ để lấy hứng. Tôi không được sinh ra và chết đi để được nhìn thấy cảnh các bạn trẻ hủy hoại đời họ bằng ma tuý và rồi làm giàu từ việc hủy hoại cuộc đời những người khác. Đó không phải là những gì tôi đến đây để làm. Tôi chiến đấu cho tự do, ông sẽ nói, nhưng không phải cho tự do để người này giết người kia một cách vô tư lự, không phải chiến đấu cho tự do để cho các vị thành niên có con và từ bỏ chúng như thể chúng không là gì. Tôi đấu tranh cho mọi người có quyền làm việc nhưng không cho cả một cộng đồng và dân tộc bị bỏ rơi. Đấy không phải là những lý tưởng mà tôi cống hiến cả cuộc đời mình.
Tôi không chiến đấu cho người da đen có quyền giết những người da đen khác một cách vô tư lự...
Có thay đổi chúng ta có thể làm từ ngoài vào trong; đó là công việc của tổng thống và quốc hội và thống đốc và thị trưởng và các cơ quan dịch vụ xã hội. Và có những thay đổi chúng ta phải làm từ trong ra ngoài nếu không những thay đổi kia không có giá trị gì nữa... Đôi khi không có câu trả lời từ bên ngoài vào trong, đôi khi tất cả các câu trả lời phải được xuất phát từ giá trị những suy nghĩ, và những tiếng nói vang vọng trong chúng ta từ bên trong...
Khi không có gia đình, không có trật tự và không có hy vọng... thì ai sẽ làm gương, lập kỷ luật và mang đến tình yêu cho những đứa trẻ này? Bạn phải làm điều đó, và chúng tôi phải giúp đỡ bạn.
Và tại đây vào ngày này, để tôi đề nghị tất cả các bạn nói với trái tim của mình: chúng ta sẽ tôn thờ cuộc sống và sự nghiệp của Martin Luther King... Bằng một cách nào đó, với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta sẽ đảo ngược được tình hình. Chúng ta sẽ cho những đứa trẻ này một tương lai. Chúng ta sẽ cất súng đi và phát cho chúng sách. Chúng ta sẽ lấy đi nỗi thất vọng và cho chúng niềm tin. Chúng ta sẽ xây dựng lại gia đình, hàng xóm và cộng đồng. Chúng ta sẽ không để cho tất cả những công việc từ trước đến nay chỉ mang lợi ích đến cho thiểu số. Chúng ta sẽ làm việc đó với nhau, với sự giúp đỡ của Chúa.
Bài phát biểu Memphis là một bài ca ngợi triết lý vì cộng đồng có gốc rễ từ giá trị tôn giáo của riêng cá nhân tôi. Nhiều thứ đang tan rã. Tôi cố gắng hàn gắn chúng lại.
Vào ngày 19 và 20 tháng 11, tôi lại một lần nữa cố gắng hàn gắn sự việc bằng cách bay đến Seattle để dự cuộc họp lãnh đạo lần đầu tiên của tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC). Trước 1993 APEC là một diễn đàn để các bộ trưởng tài chính bàn về các vấn đề kinh tế. Tôi đã đề nghị các nguyên thủ nên gặp nhau mỗi năm để bàn về các lợi ích chung, và tôi muốn sử dụng lần họp đầu tiên này, trên đảo Blake, ngoài biển Seattle, để đeo đuổi ba mục tiêu: một khu vực thương mại tự do trong khu vực châu Mỹ và các quốc gia châu Á Thái Bình Dương; bàn bạc không chính thức về vấn đề chính trị và an ninh; và tạo ra thói quen hợp tác - hiển nhiên sẽ quan trọng hơn các vấn đề khác trong thế kỷ 21. Các quốc gia châu Á Thái Bình Dương chiếm hơn phân nửa sản lượng thế giới và cũng vướng phải vài vấn đề chính trị và an ninh nghiêm trọng. Trong quá khứ, Mỹ chưa từng đối xử với khu vực này một cách toàn diện như cách chúng tôi đã làm đối với châu Âu. Tôi nghĩ đây là thời điểm thích hợp làm điều đó.
Tôi rất thích làm việc với thủ tướng Nhật Bản mới, ông Morihiro Hosokavva, một nhà cải tạo đã can đảm phá bỏ luật độc quyền về năng lượng của đảng Dân chủ Tự do và tiếp tục phát triển nền kinh tế Nhật Bản. Tôi cũng rất vui khi có cơ hội tiếp chuyện với Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân trong bối cảnh ít trang trọng hơn. Mặc dù có những quan điểm khác nhau về nhân quyền, Tây Tạng và kinh tế nhưng chúng tôi có cùng quan điểm về xây dựng mối quan hệ không phải dựa trên sự cô lập mà phải hòa nhập Trung Quốc chung với cộng đồng toàn cầu. Cả Giang Trạch Dân và Hosokawa đều cùng chia sẻ nỗi lo của tôi về khủng hoảng đang leo thang với Bắc Triều Tiên, vốn đang có dự định sử dụng năng lượng nguyên tử. Đây là điều tôi chắc chắn phải ngăn cản và vì thế cần sự ủng hộ của hai vị lãnh đạo này.
Quay trở lại Washington, Hillary và tôi mở tiệc chiêu đãi Tổng thống Nam Triều Tiên Kim Young-Sam lần đầu tiên. Tôi luôn thích các chuyến viếng thăm của các nguyên thủ quốc gia. Đây là những sự kiện có tính chất lễ nghi nhất tại Nhà Trắng, bắt đầu bằng một buổi lễ tiếp đón long trọng. Hillary và tôi đứng ở cổng phía nam của Nhà Trắng để chào đón khách. Sau khi chào xong, chúng tôi dẫn khách đi vào Bãi cỏ phía Nam để có một phần giới thiệu sơ lược về chủ, khách. Tôi sẽ đứng trên bục, đối diện với một dãy các nhân viên an ninh mặc đồng phục nhìn khá ấn tượng. Dàn nhạc quân đội sẽ chơi quốc ca của cả hai quốc gia, sau đó tôi dẫn khách đi duyệt đội danh dự. Kế đến chúng tôi quay trở lại sân khấu để trình bày những nhận xét ngắn gọn, trong khi nói thường xuyên ngừng lại đôi chút để vẫy tay chào một đám đông học sinh, công dân đến từ các nước khác đang sinh sống tại Mỹ, hay các công dân Mỹ có nguồn gốc ở nước khác.
Trước bữa ăn tối, Hillary và tôi tổ chức một bữa chiêu đãi nhỏ cho phái đoàn viếng thăm ở Phòng Bầu dục trên tầng sinh hoạt. Al và Tipper, Ngoại trưởng Mỹ và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và vài người nữa sẽ cùng chúng tôi đến thăm các vị khách nước ngoài. Sau tiệc chiêu đãi, nhân viên an ninh danh dự của quân đội, một nam một nữ, sẽ hộ tống chúng tôi xuống lầu, đi ngang qua các bức chân dung của các tổng thống tiền nhiệm trước khi xuống gặp khách. Bữa ăn, thường diễn ra trong Phòng tiệc Quốc gia (đối với các đoàn đông, tiệc tối sẽ được tổ chức tại Phòng cánh Đông hoặc ngoài trời trong lều). Đội lính thủy đánh bộ Mỹ hoặc một đội không quân có những màn trình diễn phục vụ. Lúc nào tôi cũng hồi hộp vô cùng khi thấy họ xuất hiện. Sau bữa tối là các chương trình văn nghệ thường được chọn lọc kỹ để phù hợp với sở thích của khách. Chẳng hạn, Václav Havel muôn nghe Lou Reed, vì nhạc sĩ này đã gây cảm hứng cho đảng của ông trong cuộc Cách mạng Nhung tại Tiệp Khắc. Hễ có dịp là tôi cho mời các nhạc công nhạc sĩ đủ thể loại đến Nhà Trắng. Trong nhiều năm tôi đã mời Earth, Wind and Fire, Yo-Yo Ma, Plácido Domingo, Jessye Norman và nhiều các nghệ sĩ nhạc cổ điển, jazz, blues, nhạc kịch Broadway và nhạc nhà thờ cũng như diễn viên múa từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Để xem trình diễn, chúng tôi thường có một phòng để mời nhiều khách hơn trong buổi ăn tối. Sau đó, ai muốn ở lại xem tiếp sẽ vào phòng giải lao của Nhà Trắng để khiêu vũ. Thường thì các vị khách quý mệt mỏi và sẽ đến nhà khách Blair House, là nơi nghỉ chính thức của các quan chức. Hillary và tôi thường ở lại khiêu vũ một lúc rồi lên tầng trên trong khi những ai ở lại sẽ chơi tiếp một tiếng nữa hoặc hơn.
Vào cuối tháng 11 tôi có tham dự một truyền thống lễ hội có từ thời tổng thống Coolidge: tha mạng cho một con gà tây, sau đó Hillary, Chelsea và tôi đến Trại David để có một kỳ lễ Tạ ơn dài. Tôi có nhiều điều để tạ ơn. Tỷ lệ ủng hộ tôi tăng lên một lần nữa và hãng hàng không American Airlines tuyên bố đã giải quyết cuộc đình công nội bộ diễn ra trong năm ngày. Cuộc đình công có thể sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế; nó được giảng hòa với sự khôn khéo của Bruce Lindsey. Tôi vui là các đồng bào của tôi có thể bay về nhà để nghỉ lễ.
Ngày lễ Tạ ơn tại Trại David đã trở thành một truyền thống hàng năm khi chúng ta sum họp với gia đình và bạn bè. Chúng tôi luôn có buổi ăn tạ ơn tại Laurel, một buồng lớn nhất trong trại, với phòng ăn và phòng họp lớn, một không gian trống, thoáng đãng lớn với một lò sưởi và tivi, và một phòng riêng biệt cho cá nhân tôi. Chúng tôi qua phòng ăn để chào các lực lượng hải quân, và lính thủy đánh bộ và gia đình họ, những người giữ cho trại có thể hoạt động tốt. Vào buổi tối, chúng tôi xem phim và chơi thể thao. Và ít nhất một lần trong kỳ nghỉ cuối tuần đó, mặc dù trời lạnh hay mưa, các anh em trai của Hillary, Roger, và tôi sẽ chơi golf với tất cả những ai dám chơi với chúng tôi. Ngạc nhiên thay, Dick Kelly luôn luôn chơi, mặc dù ông ta đã gần 80 tuổi vào năm 1993.
Tôi yêu mọi giây phút trong lễ Tạ ơn tại Trại David nhưng lần tạ ơn đầu tiên rất đặc biệt vì nó là lần tạ ơn cuối cùng của mẹ tôi. Vào cuối tháng 11 ung thư của bà đã lan rộng và ăn vào trong máu. Bà phải thay máu mỗi ngày để duy trì sự sống. Tôi không biết bà còn sống được bao lâu nữa nhưng sự truyền máu giúp bà trông khỏe mạnh giả tạo và bà luôn cố gắng sống hết sức mình trong những ngày còn lại. Bà thưởng thức các trận đá bóng trên tivi, các bữa ăn và thăm các chiến sĩ trẻ tại quán bar của Trại David. Bà không muốn nhắc đến cái chết. Bà luôn luôn có một sự sống mãnh liệt át đi những suy nghĩ về cái chết.
Ngày 4.12 tôi đến California một lần nữa, để tổ chức một Hội nghị thượng đỉnh kinh tế về các vấn đề đang tồn tại và nói chuyên với một nhóm người trong lĩnh vực giải trí. Tại trụ sở của cơ quan Creative Artists Agency (Cơ quan quản lý nghệ sĩ sáng tạo), tôi kêu gọi họ tham gia với tôi giảm bớt bạo lực trên báo chí truyền thông đang nhằm vào giới trẻ, cũng như sự tấn công của văn hóa lên các vấn đề về gia đình và công việc. Trong hai tuần sau, tôi đến quận của Marjorie Margolies- Mezvinsky để tham dự một hội nghị về quyền công dân, và tôi bổ nhiệm Bob Kerrey vào chức đồng chủ tịch cùng với Thượng nghị sĩ John Danforth của Missouri dẫn đầu một ủy ban nghiên cứu về an sinh xã hội và các vấn đề khác.
Ngày 15.12 tôi chào đón nồng nhiệt một tuyên bố chung giữa Thủ tướng Anh John Major và Thủ tướng Ireland Alber Reynolds, nhằm đề xuất một chương trình cơ bản tiến đến thỏa thuận hòa bình về các vấn đề tại Bắc Ireland. Đó là một món quà giáng sinh tuyệt vời, và tôi hy vọng nó sẽ cho tôi một cơ hội đóng góp vào việc giải quyết luôn ám ảnh tôi từ hồi còn là sinh viên tại Oxford. Cùng ngày đó, tôi bổ nhiệm người bạn cũ thời McGovern - John Holum - lên làm giám đốc Cơ quan Quản lý Vũ khí và Giải trừ Quân bị và sử dụng cơ hội này để nhân mạnh chương trình cấm phổ biến vũ khí của tôi là: thông qua một nghị định quản lý vũ khí hoá học, đạt được hiệp ước cấm thử hạt nhân, đạt được sự kéo dài vô thời hạn hiệp ước chống phổ biến hạt nhân (hiệp ước này đã hết hiệu lực vào năm 1995) và tài trợ toàn phần cho chương trình Nunn-Lugar để tiêu huỷ vũ khí hạt nhân của Nga.
Ngày 20.12, tôi ký một dự luật rất quan trọng đối với Hillary và tôi: Đạo luật bảo vệ trẻ em quốc gia. Đạo luật này giúp cung cấp cơ sở dữ liệu cho tất cả những nhà trẻ để họ có thể biết được thông tin về tất cả các ứng viên xin việc trông trẻ. Đó là một sáng kiến của nhà văn Andrew Vachss, khi đọc những câu chuyện về trẻ em bị lạm dụng trong các nhà trẻ. Hầu hết mọi cha mẹ đều phải đi làm và phải gửi con đến các trung tâm giữ trẻ. Họ có quyền muốn biết con em mình sẽ được an toàn và được chăm sóc tốt.
Mùa giáng sinh giúp Hillary và tôi có cơ hội xem Chelsea diễn hai lần: trong vở The Nutcracker với Nhà hát kịch Balê Washington, nơi con gái tôi học mỗi ngày sau khi học chính thức ở trường, và trong vở kịch ngắn giáng sinh tại nhà thờ chúng tôi đã chọn, Nhà thờ Giám lý Foundry United, tại đường 16, gần Nhà Trắng. Chúng tôi thích mục sư của Foundry, Phil Wogaman và việc nhà thờ là nơi tập hợp nhiều người với mọi màu da, văn hóa, thu nhập, chính kiến và ngay cả những người đồng giới.
Nhà Trắng rất đặc biệt vào mùa giáng sinh. Năm nào cũng vậy, cứ tới dịp này là một cây giáng sinh to được đặt trong Phòng Xanh ở tầng chính. Nó được trang trí, và các phòng khác cũng vậy, theo chủ đề của từng năm. Hillary lấy nghề thủ công của nước Mỹ là chủ đề của năm giáng sinh đầu tiên của chúng tôi. Thợ thủ công khắp mọi miền đất nước tặng tôi quà tặng giáng sinh bằng thủy tinh, gỗ và kim loại. Vào môi mùa giáng sinh, Phòng ăn Quốc gia được trang trí với một mô hình Nhà Trắng lớn làm bằng bánh gừng, đặc biệt thu hút trẻ em. Năm 1993 khoảng 150.000 người đến Nhà Trắng trong suốt dịp lễ để tham quan.
Chúng tôi cũng có một cây thông lớn cho Phòng Vàng trên tầng ở của chúng tôi và treo kín các vật trang hoàng mà Hillary và tôi đã sưu tâm từ lễ giáng sinh đầu tiên bên nhau. Theo thông tục, Chelsea và tôi gắn nhiều đồ trang hoàng lên cây. Giữa lễ Tạ ơn và giáng sinh, chúng tôi có tổ chức nhiều buổi tiệc chiêu đãi và tiệc cho quốc hội, báo chí, mật vụ, và nhân viên phục vụ nơi ở, nhân viên Nhà Trắng, nội các, các quan chức và những người ủng hộ chúng tôi trên toàn quốc, gia đình và bạn bè. Hillary và tôi phải đứng đợi hàng nhiều,giờ, gặp gỡ mọi người, chụp hình trong khi đội hợp xướng và các ban nhạc khắp nước biển diễn khắp mọi nơi trong Nhà Trắng. Đó là những giờ phút tuy mệt nhưng rất vui, đồng thời là cách để cám ơn những người đã giúp chúng tôi hoàn thành công việc và cho cuộc sống của chúng tôi thêm phần phong phú.
Giáng sinh đầu tiên của chúng tôi tại Nhà Trắng quả thật đặc biệt quan trọng với tôi vì tôi biết rằng, giống như ngày lễ Tạ ơn đầu tiên tại Trại David, đây có thể là ngày lễ cuối cùng tôi được ở bên mẹ. Chúng tôi khuyến khích mẹ và Dick đến ở chơi với chúng tôi một tuần, và mẹ đã đồng ý khi tôi hứa sẽ chở mẹ về nhà kịp lúc để tiếp tục lên đường đi Las Vegas dự buổi hòa nhạc của Barbara Streisand vào đêm giao thừa. Barbara rất muốn mẹ đến tham dự, và mẹ cũng đã quyết định sẽ đến. Bà rất quý Barbara, và trong suy nghĩ, luôn cho rằng Las Vegas là nơi giống với thiên đàng nhất. Tôi không biết mẹ sẽ làm gì nếu ở thế giới bên kia không có sòng bài hoặc các tụ điểm giải trí.
Khi chúng tôi đang ăn mừng giáng sinh thì vụ Whitewater một lần nữa lại gây đau đầu. Vài tuần trước, tờ Washington Post và New York Times đã đăng tải các tin đồn gần xa rằng Jim McDougal có thể bị buộc tội trở lại. Vào năm 1990, ông này đã phải ra tòa vì bị cáo buộc liên quan đến việc công ty Madison Guaranty làm ăn thất bại nhưng cuối cùng được tha bổng. Rõ ràng Công ty Resolution Trust Corporation đang xem xét xem liệu McDougal đã có những đóng góp cho cuộc vận động tranh cử một cách bất hợp pháp cho các chính trị gia hay không, trong đó bao gồm cả tôi. Trong cuộc tranh cử, chúng tôi đã đưa ra một bản báo cáo chứng minh chúng tôi đã mất tiền trong kế hoạch đầu tư Whitewater. Những đóng góp tài chính mà chúng tôi nhận được trong suôt cuộc tranh cử đã được công khai hoá, và tôi cũng như Hillary không hề mượn bất cứ đồng nào từ Madison. Tôi biết cả sự việc Whitewater chỉ đơn thuần là nỗ lực của các phe đối nghịch cố tình muốn gây tai tiếng cho tôi.
Tuy nhiên, Hillary và tôi quyết định thuê luật sư. David Kendall từng học chung với chúng tôi hồi ở trường luật Yale. Anh từng đại diện cho các thân chủ trong các vụ kiện liên quan đến các khoản vay cho vay và biết cách tổ chức và tổng hợp những sự việc phức tạp tưởng chừng như rời rạc. Đằng sau David là một phong thái khiêm tốn theo kiểu tín đồ phái Quaker, và một sự sẵn lòng chiến đấu chống lại bất công. Anh đã từng bị cầm tù khi tham gia các hoạt động bảo vệ quyền công dân ở Mississippi trong Mùa hè Tự do hồi năm 1964, và đã cài trong các vụ xử có án tử hình liên quan đến Quỹ Bảo vệ Luật pháp NAACP. Nhưng trên hết, David Kendall là một người tuyệt vời, người đã chứng kiến chúng tôi trải qua những giờ phút đen tối với sức mạnh, sự sáng suốt và một óc hài hước.
Vào ngày 18.12, Kendall cho chúng tôi biết tờ American Spectator, một nguyệt san cánh hữu, đang chuẩn bị đăng một bài viết của David Brock nói về việc bốn binh sĩ tiểu bang của bang Arkansas tiết lộ rằng họ đã từng đi kiếm phụ nữ cho tôi lúc tôi còn là thống đốc. Chỉ có hai trong số bốn binh sĩ ấy đồng ý tham gia phỏng vấn với kênh truyền hình CNN. Có vài chi tiết trong câu chuyện nghe qua đã biết ngay là chuyện bịa, và hai binh sĩ này không đưa ra được những minh chứng xác thực, những chi tiết họ kể đa phần không ăn khớp với nhau: những binh sĩ này đã từng bị thẩm tra vì tội lừa gạt bảo hiểm có liên quan đến việc phá hủy một chiếc xe của nhà nước vào năm 1990. David Brock sau đó đã xin lỗi Hillary và tôi. Nếu bạn muốn biết nhiều hơn, xin hãy đọc hồi ký của anh, Blinded by the Right - Mù quáng bởi cánh hữu, trong đó anh đã dũng cảm tiết lộ những nỗ lực của phe cánh hữu giàu có đã làm để cố tình làm mất uy tín của tôi. Họ là những người có mối quan hệ với Newt Gingrich và vài đối thủ của tôi ở Arkansas. Brock cho biết anh ta đã từng để cho người khác sử dụng mình, những người không hề quan tâm đến việc thông tin mà họ nêu ra là đúng hay sai.
Chuyên mấy binh sĩ tiểu bang bịa đặt là chuyện thật nực cười, nhưng nó gây tổn thương ghê gớm. Chuyện ấy làm đau lòng Hillary rât nhiều vì cô ây nghĩ những chuyện như thế đã bị chôn vùi từ hồi tranh cử. Giờ đây cô ấy biết mọi chuyên sẽ chẳng bao giờ kết thúc. Khi đó, chúng tôi chẳng làm được gì ngoài việc tiếp tục sống và hy vọng mọi việc rồi sẽ qua đi. Lúc mọi việc còn đang rùm beng, một buổi tối nọ chúng tôi đi xem vở Messiah của Handel ở Trung tâm Kennedy. Khi Hillary và tôi bước ra khu chỗ ngồi dành cho tổng thống, đám đông đứng lên và vỗ tay rất lâu. Chúng tôi rất cảm động bởi thái độ ân cần đó. Từ chỗ rất mệt mỏi và khó chịu, tôi đã thấy những giọt nước mắt tri ân lăn dài trên má mình.
Sau tuần lễ giáng sinh đáng nhớ, Hillary, Chelsea và tôi chở mẹ và Dick về nhà ở Arkansas. Hillary và Chelsea ở cùng với Dorothy Rodham ở khu Little Rock, trong khi tôi chở mẹ và Dick đến Hot Springs. Cả gia đình đi ăn tối chung với một số bạn trung học tại quán Rocky's Pizza, một trong những quán ruột của mẹ nằm ngay đối diện với trường đua. Sau bữa ăn tối mẹ và Dick muốn đi ngủ sớm, vì thế tôi chở hai người về nhà rồi đi chơi bowling với nhóm bạn, rồi quay trở về căn nhà nhỏ ở hồ Hamilton để chơi bài và trò chuyện đến tận sáng sớm hôm sau.
Ngày hôm sau, mẹ và tôi uống cà phê với nhau - không ngờ đây là lần cuối cùng tôi gặp mẹ. Bà vẫn lạc quan như mọi khi, nói rằng lý do duy nhất khiến vụ tố cáo của mấy binh sĩ tiểu bang xảy ra là do lúc đó tỉ lệ ủng hộ tôi đang tăng cao nhất kể từ khi tôi nhậm chức. Bà cười và nói rằng bà biết hai binh sĩ đó không phải là "hai ngôi sao sáng nhất trên bầu trời", nhưng mong sao cho "hai cậu ấy có thể kiếm sống bằng cách khác".
Lúc đó không hiểu sao tôi lại đề cập với mẹ về việc cát đổ ra từ chiếc đồng hồ cát. Mẹ dạo đấy đang viết hồi ký cùng một cộng tác đến từ Arkasas, James Morgan, và mẹ đã kể lại toàn bộ cuộc đời bằng cách thu lại qua băng, thế nhưng mấy chương vẫn còn trong giai đoạn lên nháp. Tôi hỏi mẹ có còn tâm nguyên gì nếu mẹ không làm xong hồi ký. Bà cười và trả lời: "Dĩ nhiên con phải hoàn thành tiếp chứ ai nữa". Tôi hỏi: "Vậy ai sẽ là người hướng dẫn con đây?". Mẹ bảo tôi nên xem xét lại những chi tiết đã được kể, chỉnh lại những chi tiết chưa đúng, làm rõ những chi tiết rối rắm. Rồi bà tiếp tục: "Nhưng mẹ muốn đây là câu chuyện của chính mẹ bằng ngôn từ của chính mẹ. Vì thế con dừng sửa đổi nhiều trừ phi con thấy mẹ hơi quá khắt khe với ai đó vẫn còn sống". Nói tới đó, mẹ quay trở lại cuộc trò chuyện về chính trị và chuyến đi Las Vegas.
Chiều hôm đó, tôi hôn tạm biệt mẹ, lái xe quay trở lại Little Rock để đón Hillary và Chelsea, sau đó bay đến Fayetteville để xem trận bóng rổ của đội Arkansas Razorbacks lúc bấy giờ đang đứng đầu bảng, rồi sau đó đến dự kỳ nghỉ Cuối tuần Phục hưng với hai người bạn là Jim và Dianne Blair. Sau một năm đầy ắp những sự kiện vui có buồn có, có được vài ba ngày thư giãn với bạn bè thật tuyệt. Tôi đi bộ trên bãi biển, chơi bóng bằng tay với lũ trẻ và chơi golf với mấy người bạn và nghỉ ngơi thư giãn.
Nhưng tâm trí tôi vẫn không thể không nghĩ về mẹ. Mẹ thật tuyệt vời, vẫn còn xinh đẹp ở tuổi 70, thậm chí sau khi phải chịu phẫu thuật tuyến nhũ và hóa trị đã cướp đi của mẹ mái tóc dài buộc mẹ phải đội tóc giả, và việc phải truyền máu mỗi ngày. Hầu hết những người trong bệnh trạng của mẹ thường phải nằm suốt trên giường bệnh. Mẹ đã sống một cuộc đời thật đáng sống, vẫn vui vẻ đi dạo, không một lời than vãn về bệnh tình hoặc các cơn dau thể xác, luôn hăng hái đối diện với các cuộc phiêu lưu mới của từng ngày. Mẹ cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy cuộc sống của Roger đã đâu vào đấy, và luôn tin chắc tôi sẽ hoàn thành xuất sắc công việc của mình. Chắc chắn mẹ rất muốn sống đến trăm tuổi, nhưng nếu số trời đã định đành phải vâng mệnh thôi. Mẹ đã tìm thấy sự an bình nơi Chúa. Ngài đã gọi mẹ về, nhưng Ngài sẽ phải đuổi tìm mới bắt được bà.