← Quay lại trang sách

Chương 37

Năm 1994 là một trong những năm khó khăn nhất đời tôi, năm mà các thành công quan trọng trong chính sách đối ngoại và đối nội bị lấn át với sự thất bại của chính sách cải cách y tế và một xìcăngđan không có thật. Nó bắt đầu từ một nỗi đau gia đình xé lòng và kết thúc bằng một thảm họa chính trị.

Đêm 5.1, mẹ gọi điện đến Nhà Trắng tìm tôi. Mẹ mới trở về nhà sau chuyến đi Las Vegas. Tôi nói là đã gọi điện đến khách sạn tìm mẹ trong mấy ngày nay nhưng bà đều không có ở đó. Mẹ cười và nói rằng bà đi chơi suốt ngày đêm, thưởng thức cuộc sống tại thành phố yêu thích nhất của bà và vì thế không có thời gian ngồi đợi điện thoại reo. Bà rất thích buổi hòa nhạc của Barbra Streisand và rất vui khi Barbra giới thiệu mẹ với các khách mời và hát tặng mẹ một bài. Mẹ kể chuyện rất hào hứng và có vẻ rất khỏe; bà chỉ muốn đăng ký vào khách sạn và nói với tôi rằng bà rất yêu tôi. Cú gọi đó cũng không khác gì vô vàn những cú gọi khác trong nhiều năm, thường diễn ra vào tối chủ nhật.

Khoảng 2 giờ sáng, điện thoại reng lần nữa, và Hillary đánh thức tôi dậy. Dick Kelly đang ở đầu dây, khóc. "Bà mất rồi, Bill ạ", ông khóc. Sau một tuần vui vẻ và mệt, mẹ đã ngủ và ra đi. Tôi biết điều đó rồi sẽ xảy ra nhưng tôi vẫn chưa sẵn sàng tâm lý. Cú gọi điện thoại cuối cùng của chúng tôi rất thường nhật, toàn nói những chuyện linh tinh, chúng tôi nói chuyên giống như những người nghĩ rằng họ còn nhiều thời gian vô tận để nói với nhau. Trong thời điểm đó tôi nghẹn ngào không nói được gì ngoại trừ nói với Dick rằng tôi rât yêu ông và rất cám ơn ông làm cho mẹ vui vẻ những năm tháng cuối đời và nói tôi sẽ về nhà ngay. Hillary biết chuyện gì đã xảy ra khi cuộc nói chuyên điện thoại đến hồi cuối. Tôi ôm cô ấy và khóc. Cô ấy nói một điều gì đó về mẹ và tình yêu cuộc sống của mẹ, và tôi nhận ra rằng có lẽ mẹ muốn cuộc trò chuyện trên điện thoại đó là cuộc nói chuyên cuối cùng. Mẹ luôn nói về cuộc sống, không phải cái chết.

Tôi gọi điện cho em trai tôi, và tôi biết nó sẽ rất đau khổ. Nó tôn thờ mẹ tôi, hơn thế nữa vì mẹ lúc nào cũng đặt nhiều hy vọng vào nó. Tôi bảo nó vì mẹ phải cố gắng vượt qua nỗi đau này và cố xây dựng cuộc sống tốt đẹp. Rồi tôi gọi điện một người bạn, Patty Howe Criner, người đóng một phần trong cuộc sống của chúng tôi trong hơn 40 năm và tôi nhờ cô giúp Dick và tôi tổ chức đám tang. Hillary đánh thức Chelsea dậy và nói cho nó biết chuyên xảy ra. Con bé đã mất ông nội rồi; nó và mẹ tôi, người mà nó gọi yêu là Ginger (Củ gừng), rất mực thân thiết với nhau. Trên bức tường phòng học của nó, có một bức chân dung được vẽ bằng bút chì và mực bởi hoạ sĩ Gary Simmons đến từ Hot Springs được đặt tên là Chelsea's Ginger - củ Gừng của Chelsea. Thật cảm động khi nhìn con gái tôi cô vượt qua sự mất mát người mà nó thương yêu, nhìn nó cố gắng gượng và kìm nén những cảm xúc buồn đau. Bức tranh Chelsea's Ginger - đó hiện đang được treo trong phòng của nó ở Chappaqua hiện nay.

Buổi sáng, chúng tôi tuyên bố tin mẹ mất, tin tức đăng tải liền liền. Thật trùng hợp, hôm đó là ngày Bob Dole và Newt Gingrich xuất hiện trên chương trình tin buổi sáng. Không cần biết đến không khí đau buồn, người phỏng vấn hỏi về vụ việc Whitewater và Dole trả lời rằng hiện ông đang nóng lòng chờ đợi sự thành lập một ủy Ban Điều tra độc lập. Tôi sững sờ. Cứ ngỡ rằng báo chí và đối thủ của tôi sẽ tạm nghỉ ngơi trong ngày mất của mẹ. Tuy vậy, vài năm sau Dole có xin lỗi tôi về điều này. Khi đó tôi đã hiểu rõ hơn những gì đã xảy ra. Washington là quyền lực. Nó làm mất đi lý trí và sự phán đoán. Dole không là người lạm dụng tồi tệ nhât đâu. Tôi cũng cảm động bởi lời xin lỗi của Dole.

Cùng ngày hôm đó, Al Gore đến Milwaukee để đọc diễn văn về chinh sách đối ngoại thay tôi trong lúc tôi bay về nhà. Nhà của Dick và mẹ đông đúc bạn bè, gia đình và thức ăn của bà con Arkansas đem đến để xoa dịu nỗi đau chung. Chúng tôi đều cười khi nghe những câu chuyên kể về mẹ. Hôm sau, Hillary và Chelsea đến, cũng như một số người bạn của mẹ từ các nơi khác gồm Barbra Streisand và Ralph Wilson, chủ nhân của Buffalo Bills, người đã từng mời mẹ đến Super Bowl năm trước khi ông biết bà là một fan hâm mộ cuồng nhiệt của Buffalo Bills.

Không có nhà thờ nào đủ lớn để chứa tất cả bạn bè của mẹ và trời quá lạnh để làm đám tang tại địa điểm mà hồi còn sống mẹ rất thích - trường đua - nên cuối cùng chúng tôi quyết định tổ chức tang lễ tại Trung tâm Hội nghị. Khoảng 3.000 người đến dự, gồm Thượng nghị sĩ Pryor, Thống đốc Tucker và tất cả bạn cùng phòng ở chung thời đại học. Nhưng hầu hết người tham dự đều là những người bình thường mà mẹ gặp và làm bạn trong suốt nhiều năm. Tất cả các thành viên tại "Câu lạc bộ sinh nhật" cũng đến. Có 12 thành viên, mỗi người với một ngày sinh nhật trong một tháng. Mỗi tháng họ lại tổ chức một bữa tiệc nhỏ để cùng chúc mừng sinh nhật của một thành viên trong nhóm. Sau khi mẹ mất, theo nguyện vọng của mẹ, những người còn lại chọn một người thay thế và họ đổi tên nhóm lại là Câu lạc bộ sinh nhật Virginia Clinton Kelly.

Đức cha John Miles chủ trì buổi tang lễ, nhắc đến mẹ như là một người Mỹ chính gốc "Virginia", ông nói mẹ "giống như một trái banh cao su, đời càng đẩy bà ta xuống bao nhiêu thì bà ta càng nẩy lên bấy nhiêu". John nhắc cho mọi người nhớ câu trả lời của mẹ về bất cứ vấn đề gì: "Đời là tranh đấu. Việc gì muốn thành công cũng phải trải qua một giai đoạn thử thách".

Tang lễ có bài thánh ca mẹ thích. Chúng tôi đều hát "Amazing Grace" và "Precious Lord, Take My Hand". Bạn của mẹ, Malvie Lee Giles, người từng mất giọng hoàn toàn sau đó hồi phục trở lại "từ Chúa" mà giọng còn cao hơn nữa, hát "His Eye Is On The Sparrow" và bài mẹ thích nhất "A Closer Walk With Thee". Người bạn ở hội thánh Ngũ tuần là Janice Sjostrand hát bài mà mẹ từng nghe tại buổi lễ nhậm chức ở nhà thờ của tôi "Holy Ground". Khi Barbra Streisand, ngồi phía sau tôi, nghe Janice hát, bà chạm vai tôi và tỏ vẻ ngạc nhiên. Buổi lễ kết thúc, bà hỏi "người đàn bà đó là ai và bài đó là bài gì? Sao mà hay thế?". Barbra quá thích các bản nhạc trong tang lễ của mẹ khiến bà ta tự làm một album riêng gồm các bản thánh ca và các bản nhạc truyền cảm hứng, có cả một bài viết tưởng niệm mẹ "Leading with Your Heart".

Sau đám tang, chúng tôi đưa mẹ về nhà tại Hope. Suốt dọc đường người người ra đứng hai bên đường để bày tỏ lòng tôn kính. Mẹ được an táng tại nghĩa trang ngay đối diện cửa hiệu của ông ngoại ngày xưa, yên nghỉ bên cạnh ông bà ngoại và bố tôi. Đó là ngày 8.1, sinh nhật của ca sĩ yêu thích nhất của mẹ, Elvis Presley.

Sau buổi họp mặt tại Sizzlin' Steakhouse, chúng tôi đi thẳng đến sân bay để bay về Washington. Tôi không còn thời gian than khóc, vì có hàng tá công việc đang chờ đợi. Ngay khi tôi thả Hillary và Chelsea xuống, tôi tiếp tục một chuyến công tác dài ngày đến châu Âu để thiết lập quy trình mở rộng NATO ra các nước Trung Âu nhưng cố gắng không gây phiền phức cho Yeltsin ở Nga. Tôi đã tự nhủ phải làm hết sức có thể để làm sao có thể thiết lập một châu Âu hợp nhất, tự do, dân chủ và an toàn đầu tiên trong lịch sử. Tôi cũng phải bảo đảm rằng sự bành trướng của NATO sẽ không dẫn đến việc châu Âu bị chia cắt mới về phía đông.

Ở Brussel, sau khi đọc diễn văn cho một nhóm thanh niên châu Âu, tôi nhận được một món quà đặc biệt. Bỉ lúc đó đang kỉ niệm lần thứ 100 ngày mất của Adolphe Sax, người phát minh ra kèn saxophone, và thị trưởng xứ Dinant, quê hương của Sax, tặng tôi một chiếc kèn saxophone xinh xắn được làm tại Paris.

Hôm sau các lãnh đạo NATO nhất trí thông qua bản kiến nghị hòa bình của tôi: bản kiến nghị này nhằm nâng cao hợp tác an ninh với các nền dân chủ mới của châu Âu cho đến khi tổ chức NATO thực sự phát triển.

Vào ngày 11.1, tôi đến Prague với Václav Havel, đúng 24 năm sau chuyến thăm quan lần đầu tiên của tôi đến đây hồi còn là sinh viên. Havel, một người dáng nhỏ thó, giọng nói nhẹ nhàng với đôi mắt linh hoạt và cực kỳ dí dỏm, là một anh hùng của tất cả các lực lượng tự do à đấy. Ông đã ngồi tù trong nhiều năm và sử dụng thời gian trong tù đê viết một loạt các sách hùng biện và khiêu khích. Khi được thả, ông dẫn dắt Tiệp Khắc trải qua một cuộc Cách mạng Nhung không hề gây đô máu, rồi tiếp tục đưa đất nước vào giai đoạn phân chia có trật tự thành hai phần. Giờ đây, với cương vị là tổng thống nước Cộng hòa Séc, ông luôn mong mỏi để xây dựng một nền kinh tế thị trường và bảo vệ an ninh cho các thành viên NATO. Havel chơi khá thân với Đại sứ Mỹ tại Liên hiệp quốc, Madeleine Albright, được sinh ra ở Tiệp Khắc. Lần nào được gặp Havel, bà vui lắm vì có cơ hội được nói tiếng mẹ đẻ của mình.

Havel dẫn tôi đến một câu lạc bộ nhạc Jazz vốn là nơi hoạt động bí mật của ông thời kỳ Cách mạng Nhung. Sau khi nhóm nhạc chơi được vài bài, ông dẫn tôi lên gặp mặt ban nhạc và tặng tôi thêm một cây saxophone nữa. Chiếc này được làm tại Prague bởi một công ty chuyên sản xuất saxophone cho các ban nhạc quân đội ở các quốc gia thuộc khối Hiệp ước Warsaw trong thời Cộng sản. Ông rủ tôi chơi cùng ban nhạc. Chúng tôi chơi hai bản "Summertime" và "My Funny Valentine", còn Havel nhiệt tình tham gia với vai trò gõ trống.

Trên đường đến Moscow, tôi có ghé qua Kiev để gặp Tổng thống Ukraina Leonid Kravchuk, để cám ơn ông về bản thỏa thuận mà ông, Yeltsin và tôi sẽ ký vào thứ sáu tuần sau. Với việc ký kết này, Ukraina sẽ loại bỏ 176 tên lửa đạn đạo xuyên lục địa và 1.500 đầu đạn hạt nhân hướng về Mỹ. Ukraina là một nước lớn với 60 triệu dân và một tiềm lực mạnh. Cũng như Nga, quốc gia này đang trăn trở trong việc định hướng cho tương lai như thế nào. Kravchuk phải đối diện với một lực lượng hùng hậu của nghị viện chống đối ông từ bỏ vũ khí hạt nhân, và tôi muốn ủng hộ ông.

Hillary gặp tôi ở Moscow. Cô ấy cũng dắt cả Chelsea theo, vì chúng tôi không muốn để con bé ở nhà một mình sau khi mẹ tôi mất. Cả gia đình cùng ở trong khu vực dành cho khách tại điện Kremlin và dạo bước dọc Moscow vào mùa đông quả là giúp chúng tôi khuây khỏa phần nào. Yeltsin biết tôi đang rất đau buồn vì bản thân ông cũng vừa mất đi người mẹ yêu kính.

Hễ có dịp là chúng tôi ra phố mua các đồ mỹ nghệ của Nga và mua bánh mì tại một cửa hiệu nhỏ. Tôi đốt một ngọn nến cho mẹ tại Thánh đường Kazan, giờ đây đã được khôi phục hoàn toàn sau những tàn phá thời Stalin và đến bệnh viện viếng thăm vị giáo trưởng của Nhà thờ chính thống Nga. Vào ngày 14.1, một buổi lễ tiếp đón ấn tượng diễn ra tại sảnh St. George của điện Kremlin, một căn phòng trắng rộng thênh thang với các vòm hình cung và các cột nhà với tên các vị anh hùng trong cuộc chiến Nga hơn 200 năm trước được nạm vàng. Trong buổi 11, Yeltsin và tôi kí một thỏa thuận hạt nhân với Tổng thống Ukraina Kravchuk, và tổ chức các buổi nói chuyện về các nỗ lực gìn giữ hòa bình và phát triển kinh tế.

Trong buổi họp báo sau đó, Yeltsin cảm ơn gói viện trợ của Mỹ cũng như quyết định được thông qua ở Hội Nghị G-7 Tokyo trong việc tài trợ Nga thêm một tỉ đôla mỗi năm cho hai năm sắp tới, bày tỏ lòng cảm kích với việc chúng tôi cắt giảm thuế quan trên 5.000 sản phẩm Nga. Ông cho biết rất vui mừng khi thỏa thuận hạt nhân đã được ký kết, cũng như đánh giá cao nỗ lực của tôi trong việc dàn xếp thỏa thuận hợp tác giữa NATO và Nga. Tôi cũng rất vui khi đạt được thỏa thuận, kể từ ngày 30.5 chúng tôi sẽ không bắn tên lửa hạt nhân vào nhau, hay vào bất kỳ nước nào khác, và trong vòng 20 năm tới, Mỹ sẽ mua từ Nga một lượng uranium đã được làm giàu trị giá 12 tỉ đôla. Cam kết này nhằm làm mất dần khả năng Nga sử dụng uranium để sản xuất vũ khí.

Tưởng đâu tất cả các hành động kia đều nhằm vào lợi ích tốt đẹp cho cả Mỹ và Nga, ngờ đâu có một vài người lên tiếng phản đối. Yeltsin lúc này đang gặp phải một số chống đối từ phía quốc hội, đặc biệt là Vladimir Zhirinovsky, người đang lãnh đạo một số lượng lớn các nhóm theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan muốn đưa Nga quay trở lại thời vàng son của một đế quốc và cho rằng tôi đang tìm cách làm giảm quyền lực và vây cánh của họ. Nói cho rõ, tôi xin lặp lại rằng người dân Nga nên định nghĩa sự vĩ đại của quốc gia bằng cách nhìn về tương lai chứ đừng nhìn về quá khứ.

Sau buổi họp báo, tôi có một cuộc gặp gỡ với các thanh niên tại đài truyền hình Ostankino. Các em hỏi những câu hỏi về vấn đề thời sự, nhưng cũng muôn biết các sinh viên Mỹ có thể học hỏi được gì từ nước Nga, rồi hỏi tới việc lần đầu tiên tôi có ý nghĩ trở thành tổng thông Mỹ là hồi mấy tuổi, tôi có những lời khuyên nào cho giới trẻ Nga dự định dấn thân vào chính trường, cũng như hỏi tôi muôn mọi người nhớ đến mình với hình mẫu như thế nào. Câu hỏi của các em làm tôi tin tưởng hơn vào tương lai nước Nga. Các em thật thông minh, bản lĩnh và có một tinh thần dân chủ sâu sắc.

Chuyến đi diễn ra rất tốt đẹp, phát đi một thông điệp quan trọng về mối quan tâm của Mỹ trong việc xây dựng một thế giới an toàn và tự do hơn, nhưng không ngờ ở quê nhà, điều mà các chính khách và giới báo chí đang khui ra lúc này cũng vẫn là chuyện Whitewater. Trong chuyến đi tôi đã gặp phải những câu hỏi về chuyện này từ một phóng viên Mỹ tháp tùng tôi. Ngay cả trước khi tôi rời Mỹ, tờ Washington Post và New York Times đã đứng về phe đảng Cộng hòa yêu cầu Janet phải chỉ định một công tố viên độc lập. Chỉ có một chi tiết mới trong vụ việc là David Hale, một đảng viên Cộng hòa từng bị buộc tội vào năm 1993 là đã lường gạt Cơ quan doanh nghiệp nhỏ, cho rằng tôi đã yêu cầu ông cho Susan McDougal vay mặc dù cô này không đủ tư cách. Tôi đã không làm thế.

Tiêu chuẩn để cử một ủy ban độc lập theo luật cũ (đã hết hiệu lực), và luật mới (đang được quốc hội xem xét) là có những bằng chứng đáng tin cậy về hành động sai trái. Trong số ra ngày 5.1 về việc cử ủy ban độc lập trong vụ Whitewater, tờ Washington Post đã thẳng thừng cho rằng "trong vụ việc này không hề có chứng cứ xác thực nào chứng minh tổng thống và phu nhân làm những việc sai trái". Tuy nhiên, tờ Post lại cho rằng dư luận công chúng yêu cầu cần phải có một công tố viên độc lập, vì Hillary và tôi đều cùng phe trong vụ thỏa thuận bất động sản Whitewater (mà đúng ra trong vụ này chúng tôi bị mất khá nhiều tiền), trước khi McDougal mua Madison Guaranty (chúng tôi không hề mượn tiền trong vụ này). Tệ hơn, chúng tôi không hề được giảm thuế sau vụ mất tiền. Đây có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử cơn thịnh nộ chống lại chính khách được thổi bùng do chính khách ấy bị mất tiền, không nhận được tiền vay, không được giảm thuế. Tờ Post cho biết đứng đầu Bộ Tư pháp là những nhân sự do tổng thống chỉ định, vì thế họ không đáng tin cậy để điều tra tôi hay chỉ định một người nào khác điều tra tôi.

Quy định về công tố viên độc lập được ban hành sau khi Tổng thống Nixon sa thải công tố viên đặc biệt Archibald Cox trong vụ Watergate, người được Bộ trưởng Tư pháp của Nixon bổ nhiệm - tức là công tố viên đặc biệt cũng là một quan chức hành pháp có thể bị sa thải. Quốc hội nhận ra việc cần thiết phải điều tra độc lập về những sai trái của tổng thống và những người được ông chỉ định. Quốc hội cũng thấy được mối nguy hiểm trong việc trao quyền lực vô hạn cho một công tố viên không chịu trách nhiệm trước cơ quan nào. Chính vì thế mà luật đòi hỏi phải có chứng cứ xác thực rằng đã có chuyện làm sai. Giờ đây báo chí nói rằng bất cứ khi nào người có dính líu đến tổng thống bị thẩm tra, tổng thống nên đồng ý cử một công tố viên độc lập mà không cần phải đợi đến những bằng chứng xác thực gì cả.

Thời Bush-Reagan, hơn 20 người bị kết trọng tội bởi các công tố viên độc lập. Sáu năm sau thẩm tra, Thượng nghị sĩ John Tower tìm ra việc Tổng thống Reagan đã cho phép bán vũ khí phi pháp cho các tên phiến loạn Nicaragua, công tố Lawrence Walsh chính thức buộc tội Caspar Weinberger và năm người khác, nhưng Tổng thống Bush đã ân xá cho họ. Vụ thẩm tra của công tố viên độc lập duy nhất đối với các hoạt động của tổng thống trước khi nhậm chức là với Tổng thống Carter, người bị thẩm tra trong vụ cho vay gây tranh cãi cho một nhà kho đậu phộng mà ông và anh của ông, Billy, sở hữu. Công tố viên đặc biệt mà tổng thống chỉ định đã kết thúc việc thẩm tra trong vòng sáu tháng, xóa tội cho nhà Carter.

Trước lúc tôi đến Moscow, vài thượng nghị sĩ đảng Dân chủ và tổng thống Carter đã bắt tay với đảng Cộng hòa và báo chí trong việc yêu cầu phải có công tố viên độc lập, mặc dù họ không có bằng chứng về những việc làm sai trái. Hầu hết những đảng viên đảng Dân chủ không biết gì về vụ Whitewater; họ chỉ sốt ruột muôn chứng tỏ rằng họ không chống đối việc tổng thống đảng Dân chủ bị thẩm tra, và họ không muốn chống đối tờ Washington Post và New York Times. Có lẽ họ cũng nghĩ rằng Janet Reno có thể được tin cậy để chỉ định một công tố viên chuyên nghiệp, người có thể giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng. Tuy vậy, rõ ràng là chúng tôi phải làm gì đó, như lời Lloyd Bentsen, để giải quyết vấn đề.

Khi tôi đến Moscow, tôi thảo luận qua điện thoại với nhân viên của tôi, David Kendall, và Hillary hiện vẫn còn đang ở Washington, để bàn xem chúng tôi nên làm gì. David Gergen, Bernie Nussbaum, và Kendall đều không tán đồng việc cử công tố viên độc lập, vì không có cơ sở, và nếu chúng tôi không may mắn, một công tô viên gian trá có thể theo điều tra cho đến hết đời vẫn chưa xong. Với lại, chúng tôi chỉ cần một thời gian ngắn là bị phá sản ngay; tôi là tổng thống có thu nhập thấp nhất trong lịch sử hiện đại. Nussbaum, một luật sư có đẳng cấp quốc tế từng làm việc với Hillary trong vụ điều tra Watergate, đã thẳng thừng chống đối việc chỉ định công tố viên đặc biệt. Ông gọi nó là "một thể chế độc ác", vì nó cho phép các công tố viên không chịu trách nhiệm trước ai được quyền làm đủ mọi thứ. Bernie cho rằng tôi cần chống lại việc cử công tố viên đặc biệt với tất cả những quyền tôi có. Nussbaum cũng chỉ ra rằng việc tờ Washington Post coi thường điều tra của Bộ Tư pháp là không có lý, vì hồ sơ của tôi đã được xem xét bởi một công tố viên chuyên nghiệp, người đã được tổng thống Bush phân công vào Bộ Tư pháp.

Gergen đồng ý nhưng nhấn mạnh việc tôi phải nộp tất cả hồ sơ cho tờ Washington Post. Mark Gearan và George Stephanopoulos cũng đồng ý như thế. David nói rằng Len Downie, tổng biên tập của tờ Washington Post đã thành công khi đưa tin vụ Watergate, vì vậy tin chắc chúng tôi đang cố tình che giấu điều gì đó. Tờ New York Times hình như cũng nghĩ thế. Gergen nghĩ cách duy nhất để làm giảm áp lực về việc bổ nhiệm công tố viên độc lập là phải trình ra các giấy tờ hồ sơ.

Tất cả các luật sư, Nussbaum, Kendall và Bruce Lindsey - đều không đồng ý việc tiết lộ hồ sơ vì rằng, trong khi đồng ý nộp cho Bộ Tư pháp tất cả những gì chúng tôi có được, hồ sơ không đầy đủ và rất manh mún, và chúng tôi vẫn còn trong giai đoạn thu thập lại. Họ nói ngay khi chúng tôi không thể trả lời một câu hỏi hoặc cung cấp một tài liệu nào đó, báo chí sẽ lại hô hoán việc phải cần đến một công tố độc lập. Trong lúc này chúng tôi phải đối diện với nhiều lời nói bóng gió và suy diễn.

Nhóm nhân viên còn lại của tôi, gồm George Stephanopoulos và Harold Ickes, phó chánh văn phòng mới được bổ nhiệm vào tháng giêng, nghĩ rằng vì đảng Dân chủ đang muốn áp dụng chiến thuật càng ít chạm trán càng tốt, chuyện chỉ định công tố viên đặc biệt là không thể tránh khỏi, và chúng tôi nên tiếp tục và yêu cầu điều đó đê chúng tôi có thể trở lại công việc khác. Tôi hỏi ý kiến Hillary. Cô ấy bảo yêu cầu công tố viên sẽ dẫn đến một tiền lệ không hay: thay đổi từ việc yêu cầu phải có bằng chứng cụ thể về việc làm sai trái đến việc chịu thua mỗi khi có áp lực của giới truyền thông. Tuy nhiên tôi phải là người quyết định điều này. Tôi có thể nhận thấy rõ cô ấy rất mệt mỏi trong việc phải chống đối với nhân viên của tôi.

Trên điện thoại tôi nói với mọi người rằng tôi không lo lắng về việc bị thẩm tra vì tôi không làm gì sai và Hillary cũng thế, cũng như tôi không phản đối việc phải cung cấp hồ sơ. Dù sao đi nữa chúng tôi cũng phải chịu đựng nhiều vụ việc rất oan ức có liên quan đến Whitewater kể từ lúc ra tranh cử. Ý định của tôi là cung cấp hồ sơ và sau đó tranh cãi với công tố viên, nhưng nếu mọi người nhất trí làm điều ngược lại, tôi cũng đồng ý thôi. Nussbaum rất tuyệt vọng, cho rằng bất cứ ai được chỉ định cũng sẽ rất thất vọng khi không tìm thấy chứng cứ gì, và cứ thế tiếp tục bới móc cho đến khi tìm thấy một việc làm sai nào của một người tôi quen. Anh bảo nếu tôi thấy cần phải làm một điều gì hơn thế nữa, chúng tôi chỉ cần ném đống hồ sơ sang cho giới báo chí, và thậm chí còn nên đề nghị tuyên thệ trước ủy ban Tư pháp thượng nghị viện. Stephanopoulos nghĩ đây là một ý tưởng không hay tí nào, vì nó sẽ dẫn đến rất nhiều dư luận. Ông nói Reno sẽ chỉ định một công tố viên độc lập, người này sẽ làm thoả mãn giới báo chí và mọi việc sẽ được khép lại trong vòng vài tháng. Bernie không đồng ý, cho rằng nếu quốc hội thông qua một luật mới về việc chỉ định công tố viên độc lập và tôi đặt bút ký, các quan tòa ở Tòa phúc thẩm Washington DC sẽ chỉ định một công tô viên mới và bắt đầu lại từ đầu. George rất giận dữ, cho rằng Bernie bị hoang tưởng và điều này sẽ không bao giờ xảy ra. Bemie biết chánh án Tối cao pháp viện Rehnquist sẽ chọn thành phần ủy ban và sẽ bao gồm chủ yếu là những người theo đảng Cộng hòa bảo thủ. Ông cười khi thấy George nổi cơn thịnh nộ và nói có lẽ khả năng có thêm một công tố viên thứ hai chỉ là 50-50.

Sau một hồi thảo luận, tôi yêu cầu chỉ nói chuyện với Hillary và David Kendall. Tôi cho họ biết ý định của tôi trong việc đồng ý chọn một công tố viên đặc biệt. Dù sao đi nữa, tôi cũng không có gì phải giấu giếm, và những vụ chống đối này làm phân tán sự quan tâm của quốc hội và quốc gia vào những kế hoạch lớn hơn. Ngày hôm sau, Nhà Trắng yêu cầu Janet Reno chỉ định một công tố viên đặc biệt. Mặc dù nói tôi có thể chịu đựng được, tôi suýt nữa đã không chịu xiết.

Đó là quyết định sai lầm nhât mà tôi từng mắc phải, sai lầm về luật pháp, về chính trị, về hiến pháp. Tôi đi đến kết luận này có lẽ do tôi hoàn toàn kiệt sức và đang đau buồn về việc mẹ mất, những sự việc ấy lấy đi của tôi tất cả những sự tập trung và minh mẫn. Lẽ ra tôi nên công bố hồ sơ, từ chối công tố viên, cung cấp tường tận những chi tiết cho tất cả những đảng viên Dân chủ có quan tâm, và nhờ đến sự ủng hộ của hẹ. Dĩ nhiên, có thể cũng sẽ không thay đổi được sự thật gì. Lúc đó thú thật là tôi không lo lắng gì về chuyên này, vì tôi biết tôi không làm gì sai trái cả, và báo chí cần biết được sự thật.

Trong vòng một tuần lễ, Janet Reno đã chỉ định Robert Fiske, một cựu công tố viên của đảng Cộng hòa đến từ New York, người lẽ ra đã có thể hoàn tất việc điều tra đúng hạn nếu như anh ta được để yên để lo công việc. Dĩ nhiên Fiske không được phép hoàn thành, nhưng tôi đang kể chuyên quá một bước rồi. Ngay lúc đấy, việc chỉ định công tố viên cũng giống như việc nhức đầu mà uống aspirin, nó chỉ giảm đau tạm thời. Rất tạm thời.

Trên đường từ Nga trở về nước, sau khi dừng chân một thời gian ngắn ở Belarus, tôi bay đến Geneva để gặp gỡ tổng thống Assad của Syria. Ông là một người nhẫn tâm nhưng rất sáng suốt, người đã từng xóa sổ cả một khu làng để làm bài học cho các đối thủ, và với sự hậu thuẫn của các nhóm khủng bố ở Trung Đông, Syria đã bị cách ly khỏi Mỹ. Assad ít khi nào rời khỏi Syria, và nếu có, chỉ là để ông ghé Geneva gặp gỡ với các lãnh đạo ngoại quốc. Khi gặp ông, tôi rất ấn tượng với sự thông minh của ông và khả năng nhớ chính xác đến từng chi tiết nhỏ những sự việc xảy ra trước đó hơn 20 năm. Assad nổi tiếng với những cuộc gặp gỡ kéo dài nhiều giờ: ông có thể làm việc một mạch trong sáu hoặc bảy tiếng đồng hồ mà không cần nghỉ giải lao trong khi tôi rất mệt cần phải uống trà, cà phê hay nước để có thể giữ được sự tỉnh táo. May thay, cuộc gặp chỉ kéo dài vài giờ. Buổi họp đi đến hai điều tôi cần: việc Assad tuyên bố rõ ràng rằng ông muốn giảng hòa và muốn thiết lập mối quan hệ bình thường với Israel, và việc ông cam kết rút tất cả quân đội của Syria ra khỏi Libăng và tôn trọng độc lập lãnh thổ của khu vực này một khi đạt được hòa bình Trung Đông. Tôi biết được cuộc gặp gỡ thành công không chỉ do lý do cá nhân. Assad đã nhận được nhiều viện trợ kinh tế từ Liên Xô cũ, và giờ đây khi viện trợ đã không còn, ông cần phải tìm kiếm sự hỗ trợ từ các nước phương Tây. Để làm được điều này, ông cần phải ngưng ủng hộ cho khủng bố trong khu vực. Điều này cũng dễ thực hiện nếu như ông ký kết thỏa thuận với Israel lấy lại được Cao nguyên Golan đã bị mất trong cuộc chiến năm 1967.

Tôi quay trở lại Washington với một chuỗi những việc dường như xảy ra cùng một lúc. Vào ngày 17, Los Angeles gặp phải trận động đất gây thiệt hại nhiều nhất trong lịch sử của Mỹ, hao tốn nhiều tỉ đôla hư hại về nhà cửa, bệnh viện, trường học và các nhà máy, doanh nghiệp. Đến ngày 19, tôi bay đến vùng này cùng với James Lee Wit, giám đốc Cơ quan liên bang xử lý tình trạng khẩn cấp (FEMA) để xem xét những thiệt hại, trong đó có con đường quốc lộ liên tiểu bang bị nứt một đoạn dài. Vào ngày 20, hầu như toàn bộ nội các và tôi họp với thị trưởng Dick Riordan và các nhà lãnh đạo ở các bang khác trong một nhà chứa máy bay để lên kế hoạch cứu trợ khẩn cấp. Nhờ vào sự hợp tác chặt chẽ, khu vực này nhanh chóng được phục hồi: con đường cao tốc chính được xây dựng sau ba tháng, FEMA hỗ trợ tài chính cho trên 600.000 gia đình và doanh nghiệp, hàng ngàn nhà và cao ốc được xây mới với sự hỗ trợ của Quỹ Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ. Tính ra toàn bộ chương trình viện trợ trực tiếp này lên đến 16 tỉ đôla. Tôi rất thương tình cảnh của người dân California: họ từng phải chịu đựng gánh nặng của sự đình trệ kinh tế và sự xuống dốc của tình hình an ninh, chịu đựng những trận hỏa hoạn nặng nề và giờ đây đến động đất. Một trong những viên chức địa phương nói đùa với tôi rằng anh đang chờ đợi một nạn dịch châu chấu nữa là xong. Óc hài hước của cậu nhắc tôi nhớ chuyện Mẹ Teressa đã từng quan sát thấy Chúa sẽ không bắt Bà gánh một gánh nặng hơn sức của Bà, nhưng đôi khi Bà ước rằng Chúa không nên đặt quá nhiều niềm tin vào Bà. Tôi quay trở lại Washington để tham gia cuộc phỏng vấn với Larry King nhân lễ kỷ niệm một năm làm tổng thống: trong buổi phỏng vấn, tôi cho biết mình thích công việc, ngay cả những lúc gặp khó khăn. Dù sao đi nữa, tôi không làm việc để có thời gian thảnh thơi cả, mà để thay đổi một quốc gia.

Vài hôm sau, con trai cả của tổng thông Assad, người được Assad huân luyện để kế vị ông, qua đời vì tai nạn xe hơi. Khi tôi gọi điện chia buồn, có thê thấy rõ là ông đang suy sụp. Quả là không có gì khủng khiếp bằng việc người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh.

Cùng tuần đó, tôi bổ nhiệm Bill Perry, Thứ trưởng Quốc phòng, lên kế nhiệm Les Aspin, người mới vừa từ chức không lâu sau vụ Black Hawk Down. Chúng tôi đã phải đau đầu tìm kiếm người kế nhiệm, trong khi ứng cử viên hoàn hảo đang ở ngay sát nách. Perry đã lãnh đạo một số cơ quan quốc phòng, là giáo sư toán và động cơ, và từng hoàn thành xuất sắc công việc ở Lầu năm góc trong việc giới thiệu kỹ thuật tàng hình trong máy bay, cải cách việc thu mua, hoạch đinh ngân sách. Ông là người ăn nói nhỏ nhẹ, khiêm tốn, với vẻ ngoài ít ai biết được bên trong ông là một người rất cứng cỏi. Ông sau này là một trong những cộng sự đắc lực nhất của tôi, có lẽ là bộ trưởng bộ quốc phòng tài giỏi nhất kể từ thời tướng George Marshall.

Ngày 25 là ngày tôi phải đọc Thông điệp Liên bang trước toàn dân Mỹ. Đây có lẽ là ngày duy nhất trong năm tổng thống có dịp tự do nói chuyện với người dân Mỹ trong vòng một giờ, và tôi muốn tận dụng hết mức có thể cơ hội quý báu này. Sau khi làm lễ mặc niệm Chủ tịch hạ viện Tip O'Neil, người qua đời trước mẹ một ngày, tôi tóm tắt một bản danh sách dài những thành tựu mà quốc hội đạt được vào năm 1993, nói rằng nền kinh tế Mỹ đang sản sinh ra rất nhiều việc làm, rằng hàng triệu người Mỹ đã tiết kiệm được tiền bằng cách trả nợ tiền mua nhà với tiền vay mới có lãi suất thấp, rằng chỉ có 1,2% dân Mỹ phải chịu tăng thuế thu nhập cá nhân, rằng thâm hụt thấp hơn dự báo đến 40%, và chúng tôi sẽ tinh giảm 250.000 nhân viên của chính phủ liên bang thay vì 100.000 như trước đây đã hứa.

Phần còn lại của bài diễn văn là kế hoạch hành động của tôi năm 1994, bắt đầu là giáo dục. Tôi đã yêu cầu quốc hội thông qua Mục Tiêu Sáng Kiến 2000 để giúp các trường công đạt mục tiêu giáo dục quốc gia do thống đốc và chính quyền Bush đã đưa, thông qua việc cải cách việc lựa chọn trường, trường công, và việc liên kết tất cả các trường lại trên hệ thống mạng Internet vào năm 2000; và đo lường sự tiến bộ của các trường trong việc đạt đến mục tiêu như thế nào, xem liệu học sinh của chúng ta có học những gì chúng thật sự cần học hay không.

Tôi cũng yêu cầu có thêm nhiều đầu tư trong việc tạo công ăn việc làm mới, đầu tư trong kế hoạch chuyển đổi các ngành trước đây phục vụ quốc phòng, thúc đẩy việc thông qua dự luật tội phạm và cấm bán vũ khí tấn công, khởi xướng ba luật môi trường: luật về nước uống an toàn, luật nước sạch, và chương trình Superfund đã được cải thiện Superfund là chương trình hợp tác công/tư chuyên làm sạch các khu vực bị ô nhiễm dơ bẩn, có hại cho sức khoẻ và bị bỏ hoang phế. Đối với tôi và Al Gore, đó là điều rất quan trọng, và đến lúc tôi mãn nhiệm kỳ, số khu vực Superfund dọn dẹp sạch sẽ nhiều hơn gấp ba lần thời Bush và Reagan cộng lại.

Sau đó tôi yêu cầu quốc hội thông qua luật cải cách về phúc lợi và chăm sóc y tế vào năm 1994. Có một triệu người đang nằm trong diện hưởng trợ cấp xã hội vì đây là cách duy nhất con cái họ có thể được bảo hiểm y tế. Khi người ta từ bỏ trợ cấp để kiếm một công việc có mức lương thấp mà không có quyền lợi gì cả, họ phải chuyển sang đóng thuế để ủng hộ chương trình Medicaid nhằm cung cấp bảo hiểm y tế cho các gia đình sống nhờ vào chương trình phúc lợi. Cứ mỗi năm, có khoảng 60 triệu người Mỹ không có bảo hiểm y tế vào một thời điểm nào đó trong năm. Hơn 80 triệu người Mỹ mắc các "bệnh tật nhiễm từ trước" khi mua bảo hiểm, hoặc bị các bệnh buộc họ phải dóng bảo hiểm y tế nhiều hơn, nếu họ có bảo hiểm; và thường hễ thay đổi công việc thì coi như mất bảo hiểm này. Cứ bốn người thì có ba người có chế độ giới hạn tiền trả bảo hiểm, vậy họ có thể bị mất bảo hiểm trong khi cần nó nhất. Cách thức này cũng làm nhiều doanh nghiệp nhỏ bị thua lỗ, phí bảo hiểm của họ cũng cao hơn 35% so với các doanh nghiệp lớn hoặc của chính phủ. Để kiểm soát được chi phí, ngày càng nhiều người Mỹ bị buộc phải chọn bảo hiểm với các công ty duy trì sức khỏe, vốn chỉ cho phép bệnh nhân chọn một bác sĩ, và các bác sĩ cũng phải chọn một số giới hạn trong cách thức điều trị, hoặc buộc các nhân viên chăm sóc y tê phải mất nhiều thời gian hơn với công việc giấy tờ và ít thời gian hơn với bệnh nhân. Tất cả những vấn đề này đều bắt nguồn từ một vấn đề cơ bản: hệ thống bảo hiểm y tế của chúng ta có kiểu bảo hiểm kỳ quặc trong đó các công ty bảo hiểm mới là có tiếng nói quyết định.

Tôi nói với quốc hội rằng tôi biết muốn thay đổi việc này không dễ. Roosevelt, Truman, Nixon và Carter tất cả đều đã thử làm nhưng rồi đều thất bại. Thậm chí Truman mất ghế tổng thống cũng vì điều này, do tỉ lệ ủng hộ ông xuống dưới mức 30%, và điều này giúp phe Cộng hòa giành được quyền kiểm soát quốc hội. Điều này xảy ra bởi vì hầu hết mọi người Mỹ đều có bảo hiểm, yêu thích bác sĩ và bệnh viện của mình, và biết rằng chúng ta có hệ thống y tế tốt. Những điều này bây giờ vẫn còn đúng. Những ai thu lợi từ việc kiểu bảo hiểm y tế đó đang bỏ một khoản tiền khổng lồ để thuyết phục quốc hội và dân chúng rằng thay đổi để cải thiện những bất lợi hệ thống y tế đó sẽ làm hỏng những thuận lợi của nó.

Tôi nghĩ lý lẽ tôi đưa ra cũng khá thuyết phục ngoại trừ một việc: vào cuối phần diễn văn về chăm sóc y tế, tôi giơ cao cây bút và hùng hồn nói rằng tôi sẵn sàng dùng nó để phủ quyết bất kỳ dự luật nào không bảo đảm bảo hiểm y tế cho mọi người dân Mỹ. Tôi làm thế vì vài cố vấn của tôi cho rằng người ta sẽ nghĩ lời tuyên bố không có sức mạnh nếu tôi không chứng tỏ được sự cương quyết không nhân nhượng của mình. Đó là sự tuyên chiến không cần thiết với các đối thủ trong quốc hội. Chính trị là một sự thoả hiệp nhân nhượng lẫn nhau, và người ta mong tổng thống sẽ thắng, chứ không phải làm bộ làm tịch với họ. Cải cách về y tế là thách thức lớn nhất đối với chúng tôi. Tôi không thể làm việc đó một mình mà không có sự nhân nhượng. Nhưng hoá ra, lỗi lầm của tôi cũng chẳng ảnh hưởng gì, vì Bob Dole đã quyết định sẽ nhấn chìm tất cả các cải cách về chăm sóc y tế.

Trong một thời gian ngắn, Thông điệp Liên bang đã giúp tăng nhanh sự ủng hộ của dân chúng đối với kế hoạch hành động của tôi. Newt Gingrich bảo sau khi nghe bài diễn văn của tôi, ông ta đã nói với các thành viên đảng Cộng hòa tại hạ viện rằng nếu tôi có thể thuyết phục đảng Dân chủ trong quốc hội làm theo những đề xuất của tôi, đảng của tôi sẽ chiếm đa số trong một thời gian dài. Dĩ nhiên là Newt không muốn điều đó xảy ra, và cũng như Bob Dole, ông cố gây cản trở kế hoạch càng nhiều càng tốt trước cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ.

Vào tuần cuối của tháng giêng, chúng tôi có một cuộc tranh luận nảy lửa trong đội ngũ chính sách đối ngoại xem liệu có nên cấp visa cho Gerry Adams, lãnh tụ của tổ chức Sinn Fein, cánh chính trị của Quân đội Cộng hòa Ireland, hay không. Mỹ đã đóng vai trò rất quan trọng đối với cả hai phe trong cuộc xung đột Ireland. Trong nhiều năm qua, những người Mỹ ủng hộ IRA đã tài trợ cho các hoạt động bạo lực. Sinn Fein có một nhóm những người ủng hộ thuộc Thiên Chúa giáo gốc Ireland chống đối chủ nghĩa khủng bố nhưng muốn chấm dứt phân biệt đối xử đối với những người Thiên Chúa giáo và sự tự trị về chính trị cởi mở hơn tại Bắc Ireland. Những người theo đạo Tin Lành của Anh và Ireland cũng có người ủng hộ luôn chỉ trích mọi quan hệ với Sinn Fein vì Sinn Fein có dính dáng đến IRA, và cho rằng chúng ta không cần phải xía vào công việc nội bộ của Vương quốc Anh - đồng minh lớn nhất của chúng tôi. Cách lập luận trên luôn thuyết phục được các vị tiền nhiệm trước tôi, ngay cả đối với những người thông cảm với những nỗi bất bình chính đáng của bộ phận Thiên Chúa giáo tại Bắc Ireland. Bây giờ, khi Bản tuyên bố nguyên tắc được đưa ra, chúng tôi sẽ phải xem lại vấn đề trên.

Trong bản tuyên bố, lần đầu tiên trong lịch sử, Anh tuyên bố quy chế của Bắc Ireland sẽ được định đoạt dựa trên ý kiến của đa số người dân, và Ireland từ bỏ chủ quyền đối với sáu hạt ở phía bắc cho đến khi nào đa số người dân bỏ phiếu đồng ý thay đổi quy chế. Những người ôn hòa trong đảng Hợp nhất và đảng Quốc gia Ireland rất ủng hộ thỏa thuận này. Đức cha Ian Paisley, lãnh đạo đảng Dân chủ Hợp nhất cực đoan, tỏ ra phẫn nộ vì quyết định này. Gerry Adams và Sinn Fein cho rằng họ rất thất vọng vì các nguyên tắc thiếu tính cụ thể về việc tiến trình hòa bình sẽ diễn ra như thế nào và làm cách nào để Sinn Fein tham gia vào tiến trình dó. Mặc dù những câu trả lời rất mập mờ, chính phủ Anh và Ireland rõ ràng đã tạo áp lực cho tất cả các bên nhằm nỗ lực tìm kiếm hòa bình.

Sau khi bản tuyên bố được đưa ra, các đồng minh của Adams tại Mỹ đã yêu cầu tôi cấp visa để Adams được đến Mỹ. Họ nói điều này sẽ giúp tăng vị thế và khả năng của ông ta trong việc ép buộc IRA từ bỏ bạo lực. John Hume, lãnh đạo đảng Lao động và Dân chủ Xã hội ôn hòa, người đã xây dựng sự nghiệp của mình trên cương lĩnh bất bạo động, nói ông đã thay đổi quan điểm về việc cấp visa cho Adams. Bây giờ ông cho rằng visa sẽ góp phần vào tiến trình hòa bình. Một số nhà hoạt động người Mỹ gốc Ireland đồng ý, bao gồm bạn tôi Bruce Morrison, người từng tổ chức các hoạt động tiếp cận của chúng tôi tới cộng đồng người Mỹ gốc Ireland, và đại sứ Mỹ tại Ireland, Jean Kennedy Smith. Tại quốc hội, anh của bà là Thượng nghị sĩ Ted Kennedy; Thượng nghị sĩ Chris Dodd, Pat Moynihan, John Kerry, thành viên quốc hội từ New York Peter King và Tom Manton thì ủng hộ. Chủ tịch hạ viện Tom Foley, người đã từng hoạt động tích cực trong các vấn đề Ireland, chống đối cấp visa.

Vào đầu tháng 1, Thủ tướng Ireland Albert Reynolds cho chúng tôi biết, giống như John Hume, giờ đây ông ủng hộ việc cấp visa vì Adams đang đấu tranh cho hòa bình, và ông nhận thấy visa sẽ giúp ông ta dễ dàng hơn trong việc đưa IRA ra khỏi bạo lực và đi vào tiến trình hòa bình. Chính phủ Anh vẫn một mực chống việc cấp visa, vì quá khứ khủng bố của IRA và vì Adams không từ bỏ bạo lực cũng như không tuân theo Bản tuyên bố nguyên tắc vốn là những điều cơ bản để giải quyết vấn đề.

Tôi bảo với Albert Renoyds rằng tôi có thể xem xét khả năng cấp visa nếu Adams có được lời mời chính thức đến Mỹ để phát biểu. Không lâu sau đó, Adams cùng các lãnh đạo của các phe phái khác của Bắc Ireland, được mời tham dự một hội nghị hòa bình ở New York do một nhóm nghiên cứu chính sách đối ngoại ở New York tổ chức. Điều này làm cho vấn đề cấp visa trở thành tâm điểm, vì đây là vấn đề quan trọng đầu tiên mà các cố vấn ngoại giao của tôi không nhất trí với nhau.

Warren Chirstopher và Bộ Ngoại giao, trong đó có đại sứ của chúng tôi tại Liên hiệp Anh, tỏ ý chống đối dữ dội việc cấp visa cho rằng vì Adams sẽ không từ bỏ bạo lực, điều này sẽ làm chúng ta trông có vẻ mềm mỏng đối với chủ nghĩa khủng bố và nó sẽ gây sai lầm không thể sửa chữa được trong mối quan hệ với Anh, bao gồm việc hợp tác với Anh trong vấn đề Bosnia và các vấn đề quan trọng khác. Bộ Tư pháp, FBI và CIA đều đồng ý với Bộ Ngoại giao. Việc họ nhất trí có trọng lượng lớn.

Có ba người tham gia vào vấn đề Ireland tại Hội đồng An ninh Quốc gia: Tony Lake, chánh văn phòng Nancy Soderberg, và người phụ trách vân đề châu Âu, thiếu tá Lục quân Jane Holl. Với sự ủng hộ của tôi, họ xem xét vấn đề visa một cách độc lập trong khi cố gắng đạt được một thỏa thuận với Bộ Ngoại giao, làm việc thông qua thứ trưởng Peter Tarnoff. Họ tin chắc rằng Adams muôn kết thúc bạo lực ở IRA, muốn Sinn Fein tham gia đầy đủ vào tiến trình hòa bình, và một tương lai dân chủ cho Bắc Ireland. Sự phân tích này đúng là có lý. Người dân Ireland đang bắt đậụ khấm khá hơn, châu Âu nói chung đang hướng đến một nền kinh tế sáng sủa, hội nhập chính trị, và dân Ireland bắt đầu ít khoan dung hơn với khủng bố. Mặt khác, IRA không dễ đối phó, với đầy những người luôn căm thù người Anh và người đảng Ulster Unionist, và đối với họ việc chung sống hòa bình và là một phần của Vương quốc Anh là cực kỳ viển vông. Vì ở các hạt phía bắc số lượng tín đồ Tin Lành hơn số lượng Thiên Chúa giáo 10%, và Bản tuyên bố nguyên tắc định hướng chung cho Ireland và Vương quốc Anh sẽ có một tương lai dựa trên nguyên tắc đa số, Bắc Ireland có thể vẫn sẽ tiếp tục là một phần của Vương quốc Anh trong tương lai sắp tới. Adams hiểu được điều đó, nhưng ông cũng biết rằng khủng bố sẽ không mang lại chiến thắng. Ông trông thật lòng khi nói muốn IRA chấm dứt khủng bố để được đổi lại việc chấm dứt phân biệt đối xử và cô lập tín đồ Thiên Chúa giáo.

Dựa trên phân tích này, Hội đồng An ninh Quốc gia quyết định cấp visa cho ông, vì điều này sẽ tăng ảnh hưởng của Adams đối với Sinn Fein và IRA, trong khi nâng tầm ảnh hưởng của Mỹ đối với ông ta. Đây là điều quan trọng, vì nếu như IRA không từ bỏ bạo lực và Sinn Fein không là một phần của tiến trình hòa bình, vân đề của Ireland sẽ không được giải quyết.

Tranh luận cứ thế tiếp diễn cho đến vài ngày trước khi hội nghị khai mạc theo dự kiến. Chính phủ Anh, các đồng minh của Adams trong quốc hội và cộng đồng người Mỹ gốc Ireland đã nêu bật vấn đề này lên. Tôi cẩn thận lắng nghe ý kiến cả hai phe, có cả lời yêu cầu thống thiết của Warren Christopher đừng làm điều đó, cũng như một thông điệp từ Adams cho rằng người dân Ireland đang phải mạo hiểm để có hòa bình và vì thê tôi cũng nên mạo hiểm một chút. Nancy Soderberg nói cô đồng ý cấp visa vì cô tin rằng Adams rất nghiêm túc trong việc thiết lập hòa bình và hiện tại ông ta chỉ có thể bày tỏ tư tưởng chống bạo lực trong khuôn khổ cho phép của Sinn Fein và IRA. Nancy đã từng cố vấn cho tôi về chính sách đối ngoại kể từ khi ra tranh cử, và tôi rất tôn trọng những phán xét của cô. Tony Lake cũng đồng ý với quan điểm của cô. Là một cố vấn an ninh quốc gia, Tony phải làm việc với nước Anh trên nhiều lĩnh vực mà có thể sẽ bị ảnh hưởng xấu nếu cấp visa. Ông cũng hiểu được tầm ảnh hưởng của quyết định này trong nỗ lực chống khủng bố của chúng tôi. Phó tổng thống Al Gore cũng hiểu là không thể tránh né được chuyện này, và cũng ủng hộ việc cấp visa. Cuối cùng tôi quyết định cấp visa cho Adams, nhưng đưa ra những ràng buộc để Adams không thể tiến hành vận động gây quỹ hay di chuyển ra ngoài khu vực New York trong ba ngày ở đó.

Người Anh phản đối kịch liệt quyết định này. Họ nghĩ Adams chỉ là một kẻ lường gạt dẻo miệng, không hề có ý định từ bỏ bạo lực, và trước đây đã từng ám sát hụt Margaret Thatcher. Ông ta cũng từng giết hại hàng nghìn công dân Anh, bao gồm trẻ em vô tội, quan chức chính phủ, thành viên của gia đình Hoàng gia là Ngài Mountbatten, người đã từng giám sát việc chấm dứt cai trị của Anh tại Ân Độ. Các đảng Hợp nhất cũng tẩy chay hội nghị vì sự tham dự của Adams. Trong nhiều ngày liền, John Major từ chối nhận điện thoại của tôi. Báo chí Anh đầy rẫy những bài báo nói về việc tôi đã phá hủy mối quan hệ tốt đẹp của hai nước. Có một hảng tít với nội dung khá ấn tượng: "Xà tinh gian xảo Adams nhả nọc vào dân Mỹ".

Một vài bài báo cho rằng tôi đồng ý cấp visa để lấy lòng dân gốc Ireland ở Mỹ trong đợt bầu cử sắp tới và vì tôi vẫn còn bực tức việc Major từng giúp đỡ Bush trong đợt tranh cử. Điều này không đúng. Tôi chưa lúc nào giận Major như dân Anh nghĩ, và tôi rất ngưỡng mộ ông khi đã đứng mũi chịu sào trong Bản tuyên bố nguyên tắc, ông có một số lượng ủng hộ không mấy đông đảo và vì thế cần sự ủng hộ của các thành viên đảng Hợp nhất của Ireland. Hơn nữa, tôi, cũng như tất cả những người dân Mỹ, căm thù sâu sắc chủ nghĩa khủng bố, và vê mặt chính trị, quyết định của tôi có hại nhiều hơn có lợi. Tôi cấp visa vì nghĩ đây là cách tốt nhất để chấm dứt bạo lực. Tôi vẫn luôn nhớ câu châm ngôn của Yitzhak Rabin: nếu đã là bạn bè thì chúng ta đâu có cần phải thương lượng hòa bình làm gì.

Gerry Adams đến Mỹ vào ngày 31.1 và nhận được sự tiếp đón nồng ấm từ những người dân Mỹ gốc Ireland có cùng lý tưởng. Trong chuyến thăm, ông hứa sẽ thúc ép Sinn Fein đi đến những quyết định cụ thể. Sau đó chính phủ Anh đã tăng cường nỗ lực đê sắp xếp những cuộc đàm phán với các đảng phái Bắc Ireland, và chính phủ Ireland tạo áp lực bắt Sinn Fein hợp tác. Bảy tháng sau đó IRA tuyên bố ngừng bắn. Quyết định cấp visa của tôi đã mang lại kết quả tốt. Đó là bước đầu trong một công cuộc tìm kiếm hòa bình dài và phức tạp ở Bắc Ireland.

Vào ngày 3 tháng 2, tôi bắt đầu ngày mới với Bữa sáng cầu nguyện Quốc gia lần thứ hai. Mẹ Teresa là khách mời, và tôi nêu quan điểm rằng chúng ta nên học ở Mẹ và đưa sự nhún nhường và tinh thần hòa giải vào chính trị. Chiều hôm đó, bản thân tôi cũng đã làm một công việc hòa giải, tuyên bố xóa cấm vận thương mại đã có từ lâu của chúng tôi đối với Việt Nam, dựa trên sự hợp tác đáng kể của chính phủ Việt Nam trong việc giải quyết những vấn đề tù nhân chiến tranh và quân nhân bị mất tích và trong việc trao trả hài cốt lính Mỹ. Quyết định này của tôi được ủng hộ rất nhiều từ phía các cựu chiến binh Việt Nam trong quốc hội, đặc biệt là các thượng nghị sĩ John Kerry, Bob Kerrey và John McCain, và Dân biểu Pete Peterson của Florida, người từng là tù binh ở Việt Nam trong hơn sáu năm.

Trong tuần thứ hai của tháng 2, sau khi người Bosnia gốc Serbia nã đạn vào một khu chợ Sarajevo làm chết mấy chục người dân vô tội, cuối cùng với sự đồng ý của tổng thư ký Liên hiệp quốc, NATO cũng đã bỏ phiếu đồng ý đánh bom lực lượng Serbia nếu họ không di chuyển vũ khí hạng nặng ra cách thành phố tối thiểu là 12 dặm. Quyết định này đáng lẽ được thực hiện từ lâu nhưng cũng là một quyết định có thể mang lại rủi ro cho người Canada vì lực lượng của họ ở Srebrenica đã bị bao vây bởi người Serbia, cũng như rủi ro cho người Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Hà Lan vì họ có những nhóm quân tương đối nhỏ và yếu tại đó.

Sau đó không lâu, các vũ khí hạng nặng được di chuyển hoặc được đặt dưới tầm kiểm soát của Liên hiệp quốc. Thượng nghị sĩ Dole vẫn đang thúc đẩy việc đơn phương xóa cấm vận vũ khí, nhưng lúc đó tôi chưa sẵn sàng vì cuối cùng NATO cũng bật đèn xanh cho việc oanh kích, và bởi vì lúc đó tôi không muốn những người khác lợi dụng việc chúng tôi đơn phương chấm dứt cấm vận Bosnia như một cái cớ để chống đối cấm vận tại Haiti, Libi và Iraq - những cấm vận mà chúng tôi ủng hộ.

Đến giữa tháng, Hillary và Chelsea đến Lillehammer, Na Uy để đại diện nước Mỹ tham dự thế vận hội mùa đông, còn tôi bay đến Hot Springs trong một ngày để gặp Dick Kelley. Tính ra từ lúc mẹ mất đến giờ đã năm tuần, và tôi muốn ghé xem tình hình ra sao. Dick có vẻ rất cô đơn trong căn nhà nhỏ, hình như mỗi phòng đều có bóng dáng mẹ ẩn hiện, nhưng anh chàng hải quân ngày nào đang cố đứng vững trên đôi chân mình, và tìm mọi cách để tiếp tục cuộc sống.

Trong hai tuần kế tiếp tôi phải quay trở lại với mớ công việc về cải cách chăm sóc y tế và dự luật tội phạm tại những địa điểm khác nhau của đất nước, đồng thời tiếp tục với các chính sách đối ngoại. Có một tin khá vui là Ảrập Xêút đã đồng ý mua một số lượng máy bay Mỹ trị giá sáu triệu đô sau những nỗ lực của Ron Brown, Mickey Kantor và Bộ trưởng Bộ giao thông Federico Pena.

Chúng tôi bị sốc khi biết tin FBI bắt giữ cựu nhân viên CIA đã từng phục vụ trong suốt 31 năm tên Aldrich Ames và vợ ông trong một trong những phi vụ gián điệp lớn nhất trong lịch sử Mỹ. Trong vòng chín năm, Ames đã kiếm được bộn tiền nhờ bán thông tin dẫn đến cái chết của hơn 10 nguồn tin tình báo của chúng tôi tại Nga, và đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho lực lượng tình báo Mỹ. Sau nhiều năm cố tìm ra tên nội gián mà FBI và CIA biết là có tồn tại, cuối cùng họ cũng đã tóm được ông ta. Vụ việc này cho thấy bộ máy tình báo Mỹ và chính sách đối ngoại đối với Nga còn nhiều điểm yếu: nếu họ bí mật theo dõi chúng ta, liệu chúng ta có nên hủy bỏ hoặc tạm ngưng viện trợ cho họ không. Trong một cuộc họp quốc hội lưỡng đảng và để trả lời câu hỏi của giới báo chí, tôi đưa ra lý lẽ rằng không nên ngưng viện trợ. Nga đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh giữa quá khứ và tương lai, nước Nga hôm qua đã do thám chúng ta, nhưng viện trợ của chúng ta là để hỗ trợ một nước Nga tương lai, bằng cách nhấn mạnh cải cách kinh tế và dân chủ, tiêu hủy vũ khí hạt nhân của họ. Hơn nữa, Nga không phải là nước duy nhất có gián điệp do thám Mỹ.

Đến cuối tháng, một người định cư Do Thái cực đoan giận dữ với khả năng phải trao trả Bờ Tây lại cho người Palestine, đã nã súng vào một số người đến thờ cúng tại đền Abraham ờ Hebron. Tên sát nhân đã tấn công vào tháng Hồi giáo Ramadan, tại một vùng thiêng liêng đối với cả người Hồi giáo lẫn Do Thái vì đây được xem là nơi yên nghỉ của tổ phụ Abraham và vợ ông, Sarah. Rõ ràng ý định của người này là châm ngòi cho các hoạt động bạo lực có thể gây khó khăn cho tiến trình hòa bình. Để giải quyết, tôi yêu cầu Warren Christopher liên lạc với Rabin và Arafat và nhờ họ cử gấp các nhà thương thuyết đến Washington; những người này sẽ phải ở đây cho đến khi họ đạt được những thỏa thuận cần thiết. Ngày 28 tháng 2, các chiến đấu cơ của NATO bắn hạ bốn chiến đấu cơ của Serbia vì vi phạm vùng cấm bay, hành động quân sự đầu tiên trong lịch sử 44 năm của liên minh này. Tôi hy vọng các cuộc oanh kích cũng như thành công của chúng tôi nhằm giải tỏa Sarajevo bị bao vây sẽ thuyết phục được các đồng minh có thái độ mạnh mẽ hơn đối với sự lấn chiếm của người Serbia trong và xung quanh các thị trấn Tuzla và Srebrenica.

Một trong những đồng minh là John Major, ngày hôm đó lại đang ở Mỹ để bàn bạc về Bosnia và Bắc Ireland. Đầu tiên tôi đưa ông ấy tới Pittsburgh, nơi ông của ông ấy từng làm việc trong ngành luyện thép hồi thế kỷ 19. Major có vẻ thích thú lần theo cội nguồn của mình dẫn về ngay trung tâm công nghiệp của nước Mỹ. Tối đó ông ở lại Nhà Trắng, nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên ngủ lại đêm trong thời tôi làm tổng thống. Ngày hôm sau chúng tôi họp báo, không có gì đáng nhớ ngoại trừ thông điệp lớn mà nó phát đi: rằng chuyện bất đồng về việc cấp visa cho Adams không làm ảnh hưởng tới quan hệ Anh - Mỹ hoặc khiến chúng tôi không thể hợp tác chặt chẽ với nhau về Bosnia hay các vấn đề khác. Tôi thấy Major là lĩgười nghiêm túc, thông minh, và như tôi đã nói, ông là người thực tâm muốn giải quyết vấn đề Ireland, dù nỗ lực làm vậy tạo ra nguy cơ đối với tình cảnh đã khá bấp bênh của ông trong quốc hội. Tôi nghĩ ông ấy là một lãnh đạo giỏi hơn báo giới mô tả, và sau hai ngày cùng nhau chúng tôi đã giữ được mối quan hệ thân hữu và làm việc hiệu quả.