Chương 38
Khi tôi đang bận bịu lo đối ngoại thì vụ Whitewater bắt đầu lùm xùm ở quê nhà. Vào tháng 3, Robert Fiske nhanh nhảu bắt tay vào công việc mới của mình bằng việc gửi giấy triệu tập cho một số nhân viên Nhà Trắng, trong đó có Maggie Williams và Lisa Caputo, những người từng làm việc cho Hillary và là bạn của Vincẹ Foster. Mack McLarty lập ngay một Đội Phản ứng Whitewater do Harold Ickes đứng đầu để tổng hợp trả lời cho các chất vấn của Fiske và của giới truyền thông, nhờ vậy tôi và các nhân sự khác của Nhà Trắng có thể yên tâm công tác cũng như để giảm tối đa những đàm luận giữa các nhân viên với nhau, hay với tôi hoặc Hillary, về đề tài Whitewater. Những cuộc trò chuyên như vậy chỉ khiến các nhân viên trẻ phải dính đến nhiều phiền toái. Có rất nhiều người mong kiếm lợi từ sai lầm của người khác. Nếu họ không tìm ra điều gì phi pháp trong chuyện mua bán đất đai của chúng tôi trước kia, có lẽ họ sẽ phát hiện được một ai đó mắc sai lầm trong quá trình giải quyết nó.
Với tôi, hệ thông này làm việc rất ổn. Nói cho cùng thì ngay từ nhỏ tôi đã học được cách sống hai cuộc đời song song: hầu như lúc nào tôi cũng có thể mặc kệ mọi cáo buộc và cạnh khóe để tiếp tục làm việc. Tuy nhiên, những người chưa từng sống với môi đe dọa thường trực từ những đợt chỉ trích mang tính triệt hạ và tùy tiện sẽ khó mà chịu đựng nổi, đặc biệt là trong một môi trường mà bất kỳ cáo buộc nào cũng đều dẫn đến suy đoán có tội. Có một số chuyên gia, trong đó có Sam Dash, ca ngợi thái độ hợp tác của chúng tôi so với các chính quyền Reagan và Nixon, vì chúng tôi không chống lại lệnh triệu tập và giao nộp tất cả báo cáo cho Bộ Tư pháp và Fiske. Nhưng mục tiêu của cuộc tấn công đã thay đổi: hoặc là tôi và Hillary chứng minh được mình vô tội trước mọi cáo buộc mà đối thủ của chúng tôi nêu ra, hoặc là từ nay về sau tất cả các câu hỏi, các bài báo đều sẽ có giọng điệu đầy nghi ngờ. Đa số đang ngờ rằng chúng tôi hẳn đã làm gì đó sai trái.
Chẳng hạn, khi báo chí săm soi báo cáo tài chính của chúng tôi, tờ New York Times viết rằng, khởi đầu từ số vốn đầu tư 1.000 đô la, Hillary đã kiếm được 100.000 đôla từ thị trường nhà đất trong năm 1979 với sự trợ giúp của Jim Blair. Blair là một trong số bạn thân nhất của tôi. Quả thật ông đã giúp Hillary và một số bạn bè trong chuyên mua bán nhà đất, nhưng vợ tôi đã tự chấp nhận rủi ro, phải trả hơn 18.000 đôla cho chi phí môi giới, và theo bản năng mách bảo đã rút chân khỏi thị trường này trước khi nó sụp đổ. Leo Melamed, thuộc đảng Cộng hòa, nguyên chủ tịch Sàn giao dịch Thương nghiệp Chicago, đã xem xét lại tất cả những cuộc mua bán của Hillary và kết luận là không có gì sai trái. Nhưng điều này chẳng thay đổi được gì. Trong nhiều năm, những người chí trích vẫn xem số lợi nhuận kinh doanh của Hillary như một bằng chứng tham nhũng hiển hiện.
Đồn đoán về sai trái được phản ánh trong một bài báo trên tạp chí Newsweek, cáo buộc Hillary đã không phải bỏ tiền riêng của mình vào các "hợp đồng béo bở". Newsweek cho biết kết luận này được rút ra từ một phân tích dựa trên ý kiến của giáo sư Marvin Chirelstein, trường Luật Columbia, một trong những cíìuyên gia lão luyện của Hoa Kỳ trong lĩnh vực hợp đồng và luật công ty. Ông đã từng dạy tôi tại trường Yale, và luật sư của tôi từng nhờ ông xem lại bản khai thuế của chúng tôi trong các năm 1978-1979, tức là thời điểm diễn ra vụ Whitewater. Chirelstein phản bác bài báo của tờ Newsweek, ông cho biết mình "chưa hề nói như vậy", và ông bị "tổn thương" và "sỉ nhục".
Cùng thời gian này, tạp chí Times đăng một tấm ảnh chủ ý cho thấy tôi đang ngồi bực bội với vụ Whitewater còn George Stephanopoulos đứng nhìn qua vai tôi. Thật ra, ảnh này được chụp tại một cuộc họp thường kỳ có sự tham dự của nhiều người khác. Trong ảnh gốc có ít nhất là hai người nữa, nhưng Times đã cắt mất.
Vào tháng 4, Hillary tổ chức một cuộc họp báo để trả lời các câu hỏi liên quan đến việc kinh doanh của mình và vụ Whitewater. Tôi rất tự hào vì Hillary đã ứng đáp rất tuyệt. Hillary thậm chí còn khiến giới truyền thông phải cười ồ khi thừa nhận rằng có lẽ niềm tin vào một "vùng riêng tư" đã khiến cô ấy tránh, một cách không cần thiết, việc trả lời báo giới về các giao dịch cá nhân trước đây, nhưng "sau một thời gian chống đối, tôi cũng đã chấp nhận tái quy hoạch".
Các đồn đoán ác ý đã lan từ chúng tôi đến cả những người khác. Chẳng hạn, cả Roger Altman và Bemie Nussbaum đều bị chỉ trích nặng nề vì hai người này đã thảo luận các đề nghị chuyển sang điều tra hình sự do Công ty Quản lý Công sản (RTC) đưa ra trong vụ kiện chống lại Madison Guaranty. Công ty Quản lý Công sản là một bộ phận của Bộ Ngân khố và vào thời điểm đó Altman đang tạm thời giám sát bộ này. Hình như những người chỉ trích tưởng rằng Nussbaum đang cố gắng gây ảnh hưởng đến tiến trình xét xử vụ kiện này. Thật ra, các cuộc thảo luận này được tổ chức để trả lời các câu hỏi do báo chí nêu ra sau thông tin về cuộc điều tra Madison bị rò rỉ, và chúng đã được ủy ban cố vân đạo đức của Bộ Ngân khô" chấp thuận.
Edwin Yoder, một cây bút chuyên luận cấp tiến, cho rằng Washington đang bị những kẻ "thanh lọc đạo đức" xâm chiếm. Trong một bài báo về cuộc gặp Nussbaum-Altman, ông viết:
Tôi mong có ai đó sẽ ra tay giải thích cho tôi biết có gì là xấu nếu nhân viên Nhà Trắng muốn tìm thông tin từ đâu đó trong nhánh hành pháp về những lời buộc tội và đồn đoán liên quan đến tổng thống...
Robert Fiske cũng nhận thấy các liên hệ giữa Nhà Trắng với Bộ Ngân khố là hợp pháp, nhiứig thanh danh của Nussbaum và Altman vẫn bị tổn thương. Vào thời kỳ đó, bất kỳ ai trong số những người được tôi bổ nhiệm đều bị thẩm vấn hằng ngày. Bernie Nussbaum từ chức vào đầu tháng 3. Ông không tài nào nuốt trôi được quyết định điên rồ của tôi yêu cầu thẩm phán độc lập tham gia, và ông không muôn lại tiếp tục gây ra rắc rối. Altman cũng từ chức vài tháng sau. Cả hai đều là những công chức rất có năng lực và tận tụy.
Vào tháng 3, Roger Ailes, một thành viên lâu năm của đảng Cộng hòa, chủ tịch của hãng truyền thông CNBC, buộc tội chính quyền "che đậy vụ Whitewater với các cáo buộc... gian lận đất đai, đóng góp phi pháp, lạm quyền... che đậy vụ tự sát - mà có khả năng là vụ sát nhân". Quá đủ những "chứng cứ đáng tin cậy về việc làm sai trái".
William Safire, cây viết chuyên luận cho tờ New York Times, người từng chấp bút diễn văn cho Nixon và Agnew và dường như luôn muốn chứng minh rằng các tổng thống và phó tổng thống kế nhiệm đều không khá gì hơn hai người trên, luôn khẳng định rất mạnh miệng rằng cái chết của Vince có liên quan đến hành vi phi pháp của Hillary và tôi. Thư tuyệt mệnh của Vince có nội dung hoàn toàn ngược lại, nói chúng tôi không làm gì sai. Nhưng điều này không ngăn cản được Safire đoán Vince đã cố ý lưu giữ những hồ sơ không có lợi cho chúng tôi trong văn phòng của ông.
Giờ thì chúng tôi biết rằng rất nhiều cái gọi là thông tin để tiếp tế cho các bài báo sai lạc và hủy hoại như thế phát xuất từ David Hale cùng những người cánh hữu đã đưa ông ta lên để phục vụ cho mục đích của mình. Năm 1993, Hale, khi đó là thẩm phán tại Little Rock, đã bị khép tội lừa đảo Cơ quan Doanh nghiệp nhỏ để chiếm đoạt 900.000 đôla từ ngân sách liên bang dành riêng cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ vay vốn. Vụ lừa đảo này được tiến hành thông qua công ty của Hale là Capital Management Services (một cuộc kiểm toán sau đó của Văn phòng Kiểm toán Chính phủ cho thấy Hale đã lừa gạt Cơ quan doanh nghiệp nhỏ đến 3,4 triệu đôla). Hale đã lập nhiều công ty giả để chiếm đoạt số tiền trên cho bản thân. Hale đã gặp để mặc cả số phận của mình với thẩm phán Jim Johnson, một người theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc từng tranh chức thống đốc bang Arkansas với Win Rockefeller năm 1966 và với Thượng nghị sĩ Fulbright năm 1968. Johnson đã che chở cho Hale, và đến tháng 8 cho Hale liên hệ với một nhóm bảo thủ tên là Công dân Đoàn kết (Citizens United) do Floyd Brown và David Bossie lãnh đạo. Brown là người đã dựng nên đoạn quảng cáo Willie Horton nổi tiếng chống lại Mike Dukakis vào năm 1988. Bossie đã giúp Brown viết một quyển sách cho chiến dịch tranh cử 1992 với tựa đề: Slick Willie: Why America Cannot Trust Bill Clinton - Anh chàng dẻo miệng, hay tại sao Hoa Kỳ không thể tin được Bill Clinton, trong đó các tác giả "đặc biệt cảm ơn" thẩm phán Jim Johnson.
Hale nhận rằng tôi đã buộc ông ta phải lấy 300.000 đôla từ Capital Management để cho một công ty của Susan McDougal vay, thật ra là để chuyển số tiền này cho các lãnh tụ đảng Dân chủ tại Arkansas. Để đổi lại, McDougal sẽ cho Hale vay 800.000 từ Madison Guaranty, và tạo điều kiện cho Hale vay thêm một triệu đôla từ Cục Quản lý doanh nghiệp nhỏ. Một câu chuyện thật khó tin, nhưng Brown và Bossie ra sức lan truyền. Cũng có sự tiếp tay của Sheffield Nelson, người đã chuyển thông tin này đến người quen ở tờ New York Times, Jeff Gerth.
Đến tháng 3, báo chí lại chuyển sang to nhỏ về một số tài liệu đã bị hủy tại hãng luật Rose. Trên một trong số các hộp đựng những tài liệu này có chữ viết tắt tên của Vince Foster. Hãng luật Rose giải thích các tài liệu bị hủy hoàn toàn không có liên quan đến vụ Whitewater, và việc hủy tài liệu không cần thiết là một thủ tục thông thường. Ở Nhà Trắng chúng tôi không ai biết gì về việc hủy tài liệu này. Hơn nữa, chúng tôi chẳng có gì sai để giấu giếm, và cũng không có chứng cứ gì để nói chúng tôi che đậy.
Tình hình xấu đi trầm trọng, đến cả một nhà báo uy tín như David Broder cũng cho rằng Bemie Nussbaum đã "không may" khi ráng chịu đựng sự ngạo mạn và lạm quyền - những thứ đã dẫn tới "những câu từ quá nhàm - điều tra, triệu tập, đại bồi thẩm đoàn, từ chức" đã "vang dội khắp Washington trong suốt tuần qua". Broder thậm chí còn so sánh những "phòng tác chiến" của chúng tôi, nơi điều hành các chiến dịch vận động cho các kế hoạch kinh tế và NAFTA, như danh sách kẻ thù của Nixon.
Rõ là Nussbaum đã không may. Lẽ ra đã không có những điều tra, triệu tập hay đại bồi thẩm đoàn nếu tôi chịu nghe lời ông, không chấp nhận các đòi hỏi về sự tham gia của công tố độc lập để "làm trong sạch tình hình". Tội của Bernie là ở chỗ ông nghĩ tôi nên tuân thủ luật pháp và chấp nhận các chuẩn mực về cách cư xử đúng đắn, chứ không phải là thứ tiêu chuẩn thay đổi liên tục của báo giới trong vụ Whitewater, loại tiêu chuẩn được thiết kế để tạo ra chính cái kết quả mà họ bảo là không châp nhận được. Người kế nhiệm Nussbaum là Lloyd Cutler, luật sư lâu năm tại Washington, có uy tín rất tốt tại đây. Sự hiện diện cùng những lời tư vấn của ông râ't có ích trong những tháng sau đó, nhưng ông không thể đổi chiều cơn hồng thủy Whitewater.
Russ Limbaugh lại đang vui thú vạch lá tìm sâu trong vũng lầy Whitewater. Ông ta cho rằng Vince đã bị giết trong một căn hộ do Hillary làm chủ, rồi thi thể của ông mới bị đưa đến công viên Fort Marcy. Tôi không thể hình dung được cảm xúc của vợ con Vince khi đọc được tin này. Sau đó, Limbaugh lại cáo buộc hoàn toàn sai trái rằng "các nhà báo theo dõi vụ Whitewatergate đa bị hành hung và quấy rối tại Little Rock. Một vài người đã chết".
Không thua gì Limbaugh, cựu nghị sĩ Cộng hòa Bill Dannemeyer kêu gọi mở một cuộc điều trần quốc hội về số lượng "rất lớn" những người có liên hệ với tôi đã chết "trong tình huống phi tự nhiên". Danh sách rùng rợn của Dannemeyer bao gồm đồng chủ tịch tài chính cho chiến dịch tranh cử của tôi, Vic Raiser, và con trai của ông, cả hai đã qua đời trong một tai nạn máy bay ở Alaska năm 1992, và Paul Tully, chủ nhiệm chính trị của đảng Dân chủ, đã qua đời vì đau tim trong khi vận động tranh cử tại Little Rock. Tôi đã đọc lời phân ưu tại các đám tang này và sau đó đã bổ nhiệm vợ góa của Vic là Molly làm trưởng ban lễ tân.
Jerry Falwell còn qua mặt cả Dannemeyer với Circle Of Power - Vòng tròn Quyền lực, một phim video về "vô số người chết một cách bí ẩn" tại Arkansas. Bộ phim này nói bóng gió rằng tôi chịu trách nhiệm về những cái chết này. Sau đó là phần tiếp theo của bộ phim, The Clinton Chronicles - Biên niên sử Clinton, được lăng-xê trên chương trình truyền hình của Falwell mang tên The Old Time Gospel Hour. Dannemeyer và thẩm phán Jim Johnson xuất hiện trên bộ phim này, buộc tội tôi có dính líu vào buôn lậu ma túy, giết chết nhân chứng, sắp xếp những vụ ám sát một điều tra viên tư nhân và vợ của một vệ binh tiểu bang. Nhiều "nhân chứng" đã được trả tiền để phát biểu, và Falwell bán được rất nhiều băng video.
Khi vụ Whitewater đang diễn ra, tôi cố gắng quan sát diễn biến từ nhiều phía và tự nhắc mình rằng không phải ai cũng lên cơn như vậy. Ví dụ như tờ USA Today có một bài viết khách quan trong đó Jim McDougal nhận xét cả hai vợ chồng tôi không làm gì sai, còn Chris Wade, nhân viên địa ốc tại bắc Arkansas, người đã giám sát khu đất Whitewater, cũng cho rằng chúng tôi đã nói sự thật về sự liên can rất hạn chế của mình đến khu đất này.
Tôi có thể hiểu tại sao các nhân vật cánh tả như Rush Limbaugh, Bill Dannemeyer, Jerry Falwell, và một tờ báo như Washington Times lại nói như vậy. Washington Times công khai nhìn nhận đường lối cánh hữu của mình. Tờ này do linh mục Sun Myung Moon tài trợ. Tổng biên tập Wes Pruden Jr. là con của linh mục Wesley Pruden, người trước đây là cha tuyên úy của Hội đồng công dân da trắng tại Arkansas và đồng minh của thẩm phán Jim Johnson trong cuộc thập tự chinh thất bại chống lại quyền công dân cho người da màu. Tôi chỉ không thể hiểu nổi tại sao những New York Times, Washington Post cùng nhiều tờ báo khác mà tôi kính trọng và tin tưởng lại mất cảnh giác và bị đánh gục bởi những người như Floyd Brown, David Bossie, David Hale và Jim Johnson.
Trong khoảng thời gian này tôi có tổ chức một bữa tối tại Nhà Trắng nhân dịp Tháng Người Gốc Phi. Trong số khách mời có giáo sư Burke Marshall, từng dạy tôi tại trường luật, cùng bạn ông là Nicholas Katzenbach, người đấ đóng góp rất lớn để thúc đẩy nhân quyền tại Bộ Tư pháp thời Kennedy. Khi trò chuyên với tôi, Nick kể rằng ông làm việc trong ban biên tập tờ Washington Post nhưng rất xấu hổ vì cách đưa tin của tờ này trong vụ Whitewater, và vì những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với tôi và nhiệm kỳ tổng thống phát xuất từ những cáo buộc tầm xàm. "Chuyên này nhắm đến cái gì?", ông đặt câu hỏi. "Chắc chắn không phải là vì lợi ích của công chúng rồi".
Có nhắm gì đi nữa thì nó cũng đang phát huy tác dụng. Một cuộc trưng cầu dân ý trong tháng 3 cho biết một nửa dân chúng cho rằng tôi và Hillary đã nói dối về vụ Whitewater, còn một phần ba lại cho rằng chúng tôi đã làm điếu phi pháp. Tôi phải thừa nhận Whitewater, đặc biệt là những công kích nhắm vào Hillary, đã ảnh hưởng nặng nề đến tôi hơn là tôi tưởng. Các cáo buộc chẳng có chút căn cứ và bằng chứng xác đáng nào. Trừ việc đôi khi tỏ ra ương ngạnh, còn thì khó mà tìm được điểm nào để chê trách về Hillary. Tôi rất đau khổ phải thấy vợ mình bị thương tổn bởi hết cáo buộc này đến cáo buộc khác, lại càng đau khổ hơn vì suy nghĩ ngây thơ của mình - rằng viện đến thẩm phán độc lập sẽ giúp tình hình sáng sủa - té ra lại gây tồi tệ thêm. Tôi phải rất cố gắng kìm nén sự giận dữ của mình dù không phải lúc nào cũng thành công. Các thành viên và nhân viên chính phủ dường như cũng thông cảm và bỏ qua cho những cơn bực dọc của tôi, và Al Gore giúp tôi vượt qua chúng. Dù vẫn làm việc hết mình và yêu thích công việc, tính khí vui vẻ và sự lạc quan bẩm sinh của tôi đang trải qua nhiều thử thách nối nhau.
Mang chuyện này ra cười cợt lại có tác dụng tốt. Cứ mỗi mùa xuân lại có ba buổi dạ tiệc do Câu lạc bộ Gridiron, các thông tín viên Nhà Trắng, và các thông tín viên phát thanh truyền hình tổ chức. Tại đây báo chí có cơ hội mang tổng thống và các chính trị gia ra làm trò cười, và tổng thống có dịp đáp trả. Tôi mong đến dịp này bởi nhờ vậy chúng tôi có thể được xả hơi đôi chút, cũng để nhớ lại rằng báo chí đâu phải là gỗ đá mà gồm đa số là người tốt muốn xã hội công bằng. Tục ngữ cũng có câu, "trái tim vui vẻ giá trị như thuốc tiên, còn tâm hồn tuyệt vọng làm người ta héo úa".
Tôi rất phấn chấn khi dự bữa tối của các thông tín viên phát thanh truyền hình, và phát biểu một số câu tếu như: "Tôi rất vui có mặt tại đây. Nói ra khó tin nhưng tôi có một miếng đất ở tây bắc Arkansas và tôi muốn mời các bạn tham quan"; "còn ba ngày nữa là tới ngày 15 tháng 4, và đa số các bạn đang phải dành thời gian tính các khoản thuế của tôi nhiều hơn cho chính mình nữa", và "tôi vẫn tin rằng có một xứ sở tên là Cứu tôi với!".
Quá trình mà sau này Hillary đặt tên là "âm mưu vĩ đại của cánh hữu" đã được mô tả tường tận trong quyển The Clinton Wars - Cuộc chiến Clinton của Sidney Blumenthal và trong quyển The Hunting of the President - Săn lùng tổng thống của Joe Conason và Gene Lyons. Theo tôi biết chưa có ai phản bác những quan điểm có căn cứ thực tế trong hai quyển sách này cả. Khi chúng được xuất bản, những người thuộc các cơ quan truyền thông lớn từng tham gia vào hội chứng Whitewater đã lờ đi các cáo buộc trước kia của mình mà quay sang phê phán các tác giả là quá thông cảm với Hillary và tôi, hoặc trách móc cách chúng tôi xử lý vấn đề Whitewater và chuyên chúng tôi hay phàn nàn. Tôi chăc chắn lẽ ra chúng tôi đã có thể xử lý tốt hơn, và ngay cả họ lẽ ra cũng thế.
Trong thời gian đầu của vụ Whitewater, một người bạn của tôi làm việc trong chính phủ đã bị buộc phải từ chức vì một lỗi ông mắc từ trước khi nhậm chức tại Washington. Hãng luật Rose khởi kiện Webb Hubbell của đoàn luật sư Arkansas vì đã tính giá khách hàng quá cao và che giấu thu nhập. Webb phải từ chức ở Bộ Tư pháp, nhưng ông nói với Hillary rằng các cáo buộc là không đúng, rằng đầu đuôi câu chuyên đều do ông bố vợ giàu có nhưng nóng nảy của mình đã không chịu thanh toán cho hãng Rose chi phí cho một vụ kiện xâm phạm sáng chế. Nghe cũng khá thuyết phục, nhưng lại không đúng sự thật.
Webb đúng là có tính giá cao với khách hàng, và vì vậy đã làm phương hại đến hãng luật Rose và giảm thu nhập của các đồng nghiệp trong hãng, kể cả Hillary. Nếu xử lý theo lệ thường có thể ông sẽ đạt được một thỏa thuận với hãng luật để hoàn tiền cho khách hàng và sẽ bị tước bằng trong khoảng một đến hai năm. Hiệp hội luật sư sẽ quyết định có nên chuyển vụ này sang phía công tố liên bang không. Cho dù có chuyển đi thì Webb cũng có khả năng tránh án tù bằng cách bồi hoàn cho khách hàng. Tuy nhiên, Webb lại vướng vào lưới của công tố viên độc lập.
Khi vừa biết chuyện này, tôi sững sờ. Webb và tôi kết bạn và hay chơi golf với nhau nhiều năm nay, và tôi cứ tưởng mình đã hiểu rõ ông ấy. Đến giờ tôi vẫn tin ông là một người tốt nhưng một sai lầm nghiêm trọng đã khiến ông phải trả giá quá đắt vì ông không chịu trở thành một con tốt trên bàn cờ của Starr.
Trong khi tất cả những sự cố này diễn ra, tôi tập trung vào cuộc sống bên ngoài trong hai cuộc sống song song của mình - cuộc sống mà tôi đến Washington để theo đuổi. Trong tháng 3, tôi dành thời gian đáng kể để thúc đẩy hai dự luật mà tôi cho là sẽ giúp ích cho người lao động không có bằng đại học. Tỷ lệ thất nghiệp 6,5% dễ gây hiểu lầm. Thật ra tỷ lệ thất nghiệp là 3,5% với những cử nhân đại học/cao đẳng, hơn 5% với những người học hai năm đại học/cao đẳng, hơn 7% với những người tốt nghiệp phổ thông trung học, và hơn 11% với những người chưa học xong phổ thông. Tại các sự kiện tổ chức ở Nashua và Keene, bang New Hampshire, tôi cho biết ý định chuyển đổi chương trình hỗ trợ người thất nghiệp thành một hệ thống tái tuyển dụngvới các chương trình đào tạo đa dạng và được tổ chức tốt hơn. Và tôi muốn quốc hội thông qua một chương trình "rời nhà trường đi làn1 việc" nhằm mang đến chương trình đào tạo chất lượng cao kéo dài từ một đến hai năm cho các thanh thiếu niên không muốn theo học bốn năm đại học. Đến cuối tháng tôi đã có thể ký phê chuẩn dự luật "Các Mục tiêu 2000". Cuối cùng, chúng tôi đã nhận được cam kết của quốc hội nhằm đáp ứng các mục tiêu giáo dục quốc gia mà tôi vạch ra từ năm 1989, đánh giá sự tiến bộ của học sinh theo các mục tiêu này, và khuyến khích các sở giáo dục địa phương tiến hành các cải cách tiến bộ nhất. Quả là một ngày tốt đẹp cho thư ký Dick Riley.