Chương 38 (tt)
Ngày 18 tháng 3, các tổng thống Alija Izetbegovic của Bosnia và Franjo Tudjman của Croatia có mặt tại Nhà Trắng để ký một thỏa thuận đã đạt được với sự hỗ trợ của đặc sứ Mỹ Charles Redman. Thỏa thuận này lập ra một liên bang trong các vùng đất Bosnia có dân số gốc Bosnia chiếm đa số, và phác thảo tiến trình nhắm đến một liên minh với Croatia. Xung đột quân sự giữa người Hồi giáo và người Croatia vẫn chưa khốc liệt lắm so với cuộc chiến trong đó có sự can dự ở cả hai phía của người Serb tại Bosnia, nhưng thỏa thuận này vẫn là một bước quan trọng hướng đến hòa bình.
Những ngày cuối tháng 3 đánh dấu sự khởi đầu một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng tại Bắc Triều Tiên. Vào tháng 2 nước này đã đồng ý để thanh tra của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) kiểm tra các cơ sở hạt nhân của mình vào ngày 15 tháng 3, nhưng sau đó lại cản trở công việc của họ. Các thanh tra đang nghiên cứu một lò phản ứng chạy bằng thanh nhiên liệu. Một khi các thanh nhiên liệu này đã bị dùng cạn, chúng có thể được tái xử lý thành plutonium với số lượng đủ để chế tạo vũ khí hạt nhân. Bắc Triều Tiên cũng đã lên kế hoạch xây dựng hai lò phản ứng khác lớn hơn, từ đó sẽ có thêm nhiều thanh nhiên liệu đã sử dụng hơn. Tôi nhanh chóng quyết định đưa tên lửa Patriot đến Hàn Quốc và yêu cầu Liên hiệp quốc áp đặt lệnh trừng phạt chống Bắc Triều Tiên. Như lời phát biểu của Bill Perry với các biên tập viên và phóng viên vào ngày 30 tháng 3, tôi quyết tâm ngăn chặn Bắc Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân, dù có phải chấp nhận chiến tranh. Để đảm bảo Bắc Triều Tiên hiểu rằng chúng tôi hoàn toàn nghiêm túc, Perry tiếp tục phát biểu cứng rắn suốt ba ngày sau đó, thậm chí cho biết Mỹ không loại trừ khả năng tấn công phủ đầu.
Trong khi đó, vai trò của Warren Christopher là làm cho thông điệp của Mỹ được cân bằng. Bộ Ngoại giao cho biết Mỹ ủng hộ một giải pháp hòa bình, còn đại sứ Mỹ tại Hàn Quốc, Jim Laney, mô tả quan điểm của Mỹ là "cảnh giác, kiên quyết, và kiên nhẫn". Tôi tin rằng nếu Bắc Triều Tiên thật sự hiểu được quan điểm của Mỹ, cũng như các lợi ích kinh tế và chính trị nước này sẽ nhận được nếu từ bỏ chương trình hạt nhân để hợp tác với các nước láng giềng và Mỹ, chúng tôi có thể ngồi lại với nhau. Còn nếu không thì tình hình sẽ khác, và sẽ chẳng còn mấy người nhớ đến vụ Whitewater nữa.
Ngày 26 tháng 3, tôi tận hưởng kỳ nghỉ cuối tuần vui vẻ tại Dallas để làm phù rể cho đám cưới của em mình với Molly Martin, người mà em tôi đã gặp tại Los Angeles. Tôi rất mừng cho Roger.
Hôm sau đám cưới, tất cả chúng tôi cùng đi xem đội Arkansas Razorback đánh bại đội Đại học Michigan trong trận tứ kết giải bóng rổ NCAA. Tạp chí Sports Illustrated đưa ảnh tôi trong trang phục của Razorback ra bìa, còn trong bài báo thì đưa ảnh tôi với quả bóng rổ. So với cách báo chí soi mói hình ảnh của tôi (trong vụ Whitewater) đây quả là lộc trời. Một tuần sau tôi lại dự khán trận chung kết ở Charlotte, Bắc Carolina, và đội Arkansas đã giành chức vô địch bằng chiến thắng 76-72 trước Duke.
Ngày 6 tháng 4, thẩm phán tòa thượng thẩm Harry Blackmun thông báo ông sẽ từ chức. Vợ chồng tôi và vợ chồng thẩm phán đã kết bạn trong dịp Cuối tuần Phục hưng. Ông là một người giỏi giang, một thẩm phán xuất sắc, và là một tiếng nói trung lập cực kỳ cần thiết trong Tòa thượng thẩm. Tôi biết mình cần tìm một người thay thế xứng đáng. Lựa chọn đầu tiên dành cho Thượng nghị sĩ George Mitchell, tháng trước vừa tuyên bố sẽ rút khỏi thượng viện. Ông rất xuất sắc trong vai trò lãnh đạo phe đa số, là một đảng viên trung kiên từng giúp đỡ tôi rất nhiều, vả lại phe Dân chủ không có nhiều cơ hội nắm đa số tại thượng viện trong kỳ bầu cử tháng 11 tới. Tôi không muốn ông rời thượng viện nhưng lại rất tâm đắc với triển vọng đề cử ông vào Tòa thượng thẩm. Trước khi là thượng nghị sĩ ông từng là chánh án liên bang, và ông chắc chắn sẽ có ảnh hưởng lớn tại Tòa thượng thẩm, có thể tác động đến các phiếu bầu và được nhiều người lắng nghe. Thế nhưng cả lần này Mitchell cũng làm tôi thất vọng. Ông cho biết nếu ông rời thượng viện lúc này thì cơ may thông qua dự luật chăm sóc sức khỏe sẽ tan thành mây khói, gây thiệt thòi cho người dân Mỹ, cho các đảng viên Dân chủ đang tranh cử, và cho nhiệm kỳ tổng thống của tôi.
Tôi nhanh chóng quyết định hai ứng cử viên khác: thẩm phán Stephan Breyer và thẩm phán Richard Arnold, chánh án Tòa phúc thẩm Lưu động khu vực thứ 8 đặt tại St. Louis và có thẩm quyền xét xử tại Arkansas. Arnold từng là trợ lý cho Dale Bumpers, nổi bật lên trong hàng ngũ nhiều luật sư xuất sắc tại Arkansas. Có lẽ ông là người sáng giá nhất trong số các thẩm phán liên bang. Ông đứng đầu lớp khi tốt nghiệp tại trường Luật Yale và Harvard, và đã học tiếng Latinh và Hy Lạp, nhờ vậy ông có thể đọc các văn bản kinh thánh cổ. Lẽ ra tôi đã đề cử ông nhưng ông lại vừa điều trị bệnh ung thư và tiên lượng bệnh chưa rõ ràng. Các vị tiền nhiệm phe Cộng hòa của tôi đã lấp đầy các tòa liên bang bằng các nhân vật bảo thủ trẻ tuổi. Họ sẽ còn ngồi đấy khá lâu nữa, và tôi không muốn mất thêm một vị trí vào thay họ. Trong tháng 5, tôi quyết định đề cử thẩm phán Breyer. Ông có năng lực không kém ai, và tôi có ấn tượng rất tốt về ông trong lần phỏng vấn sau khi thẩm phán White từ chức. Không lâu sau Breyer được phê chuẩn. Còn Richard Arnold, tôi rất mừng vì hiện ông vẫn đang làm việc tại Tòa Lưu động số 8 và thỉnh thoảng vẫn chơi golf với tôi.
Đầu tháng 4, NATO lại ném bom Bosnia, lần này để chấm dứt cuộc phong tỏa Gorazde của người Serb. Cùng ngày, bạo lực dữ dội xảy ra tại Rwanda. Tổng thống nước này chết trong một tai nạn máy bay, và Tổng thống Burundi đã mồi lửa để khởi đầu cho một cuộc thảm sát khủng khiếp do các lãnh tụ sắc tộc Hutu, chiếm đa số tại Rwanda, chỉ huy đối với người Tutsi và cả những người Hutu ôn hòa. Người Tutsi chỉ chiếm 15% dân số nhưng bị cho là đang nắm giữ quyền lực chính trị và kinh tế quá lớn. Tôi ra lệnh di tản toàn bộ người Mỹ và gửi quân đến Rwanda để bảo vệ họ. Trong vòng 100 ngày, hơn 800.000, tức là 10% dân số Rwanda, đã bị giết, đa phần bằng mã tấu. Lúc đó chúng tôi đang bận tâm với Bosnia, cộng với ký ức Somalia chỉ mới sáu tháng trước, thêm vào đó quốc hội lại phản đôi việc triển khai quân tại các vùng xa không quan trọng với lợi ích Hoa Kỳ. Do đó cả tôi lẫn các thành viên trong nhóm đôi ngoại không ai quan tâm đầy đủ đèn việc gửi quân đội đến ngăn chặn vụ thảm sát. Lẽ ra chỉ cần vài ngàn quân và trợ giúp từ các đồng minh thì dù có mất thêm thời gian triển khai quân đội, chúng tôi đã có thể cứu nhiều mạng người. Thảm kịch Rwanda đã trở thành một trong những niềm hối tiếc lớn nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của tôi.
Trong nhiệm kỳ thứ hai, trước khi rời chức vụ, tôi đã làm những gì có thể để giúp người người Rwanda xây dựng lại đất nước và cuộc sống của mình. Ngày nay, theo lời mời của tổng thống Paul Kagame, Rwanda là một trong các quốc gia mà quỹ của tôi đang cộng tác để ngăn chặn thảm họa AIDS.
Ngày 22 tháng 4, Richard Nixon qua đời, chỉ một tháng và một ngày sau khi viết cho tôi một lá thư dài bảy trang kể về chuyến đi gần đây của ông đến Nga, Ukraina, Đức và Anh. Nixon cho biết các nguyên thủ ông viếng thăm bày tỏ lòng kính trọng đối với tôi, và khuyên tôi không để cho vụ Whitewater hay bất kỳ vấn đề nội bộ nào "ảnh hưởng đến sự tập trung vào ưu tiên chính trong chính sách đối ngoại Hoa Kỳ: sự sống còn của dân chủ kinh tế và chính trị tại Nga". Ông lo ngại về vị thế chính trị của Yeltsin và làn sóng chống Mỹ đang dâng lên ở Duma, và ông mong tôi giữ quan hệ gần gũi với Yeltsin, dồng thời mở rộng liên hệ với những người dân chủ khác tại Nga; cải thiện cấu trúc và cách quản trị các chương trình viện trợ nước ngoài; và cho một doanh nhân hàng đầu phụ trách việc thu hút thêm đầu tư tư nhân vào Nga. Theo Nixon, nên lật mặt nạ nhân vật cực hữu Zhirinovsky "là một kẻ lừa đảo", thay vì áp chế ông ta, và chúng tôi nên "chia rẽ Zhirinovsky, Rutskoi, và những người Cộng sản - và nếu có thể thì cố gắng đoàn kết - Chernomyrdin, Yavlinski, Shahrai, Travkin - lại với nhau trong một mặt trận thống nhất nhằm thúc đẩy cải cách". Cuối thư, Nixon khuyên tôi không nên dàn trải tiền viện trợ ra khắp lãnh thổ Liên Xô cũ, mà chỉ cần tập trung vào Nga và Ukraina: "Cần thiết phải như vậy". Bức thư là một thành tựu, thể hiện các phẩm chất xuất chúng nhất của Nixon ở độ tuổi 80.
Tất cả các tổng thống còn sống tề tựu tại lễ tang Tổng thống Nixon tại thư viện tổng thống của ông, cũng là nơi ông đã ra đời. Tôi ngạc nhiên khi gia đình ông mời tôi phát biểu, cùng với Bob Dole, Henry Kissinger, và Thống đốc California Pete Wilson, người khi còn trẻ từng làm việc cho Nixon. Trong phát biểu của mình, tôi bày tỏ lòng cảm kích đối với những lời khuyên sáng suốt của ông, đặc biệt là về nước Nga. Tôi ca ngợi sự quan tâm mạnh mẽ và sáng suốt của ông về Hoa Kỳ và thế giới, nhắc đến cuộc điện đàm và lá thư ông gửi tôi một tháng trước khi mất. Tôi chỉ lướt qua vụ Watergate với một lời kêu gọi hòa giải: "Hôm nay là ngày để gia đình, bạn bè và tổ quốc ghi nhớ cuộc đời của Tổng thống Nixon một cách trọn vẹn... mong rằng sẽ không còn những phán xét về tổng thống Nixon mà không căn cứ trên toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của ông". Một số đảng viên Dân chủ căm ghét Nixon không thích phát biểu của tôi. Ngoài Watergate, Nixon cũng đã làm nhiều việc mà tôi không thích - danh sách kẻ thù, kéo dài cuộc chiến Việt Nam và mở rộng ném bom, tố cáo các đối thủ ứng cử viên thượng và hạ nghị viện California là cộng sản. Nhưng ông cũng đã nối lại quan hệ với Trung Quốc, phê chuẩn các sắc luật lập ra Cơ quan Bảo vệ Môi trường, Dịch vụ Luật công, và Cục Sức khỏe và An toàn Nghề nghiệp, và đã hỗ trợ các hành động tích cực. Nếu so với những lãnh tụ Cộng hòa trong các thập niên 1980 và 1990 thì Tổng thông Nixon là một người nhìn xa trông rộng theo phái tự do.
Ngày hôm sau lễ tang, tôi gọi điện thoại đến chương trình của Larry King khi ông đang phỏng vấn Dick Kelley và James Morgan về quyển sách của mẹ tôi, Leading with My Heart, vừa mới được xuất bản. Tôi kể với Larry rằng sau lễ tang của mẹ, tôi đi công du nước ngoài. Rồi khi trở về nhà, tôi chợt nhận ra mình đang định gọi điện thoại cho mẹ vào tối chủ nhật như thường lệ. Sẽ phải mất vài tháng trước khi thói quen đó thôi ám ảnh tôi.
Ngày 29 tháng 3, với sự có mặt của gần như đầy đủ nội các, tôi đón tiếp các thủ lĩnh bộ tộc da đỏ và Alaska tại Bãi cỏ phía Nam Nhà Trắng. Đây là lần đầu tiên họ được mời đến Nhà Trắng từ sau những năm 1820. Vài người trong số họ làm giàu với các doanh nghiệp cờ bạc, và đến đây bằng máy bay riêng. Nhiều người khác, sống trong các khu bảo tồn biệt lập, lại nghèo đến nỗi phải quyên góp khắp bộ lạc để có tiền mua vé máy bay. Tôi cam kết tôn trọng quyền tự quyết, chủ quyền bộ lạc và tự do tôn giáo của họ, cũng như hứa sẽ làm hết sức để cải thiện mối quan hệ giữa chính quyền liên bang với các bộ lạc. Tôi ký các sắc lệnh đảm bảo chính quyền sẽ tuân thủ các nội dung trên. Cuối cùng, tôi cũng cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ các bộ lạc nghèo nhất để phát triển giáo dục, y tế và kinh tế.
Đến cuối tháng 4, rõ ràng chúng tôi đã thua trong trận chiến truyền thông liên quan đến dự luật chăm sóc y tế. Một bài báo trên tờ Wall Street Journal ngày 29 tháng 4 mô tả chương trình nhiễu loạn thông tin trị giá 300 triệu đôla đang chống lại chúng tôi:
Giữa tiếng gào khóc thảm thiết của đứa trẻ là giọng nói tuyệt vọng của người mẹ. "Làm ơn đi mà", bà van xin qua điện thóại, cầu mong giúp đỡ cho đứa con đang bị bệnh. "Chúng tôi rất tiếc, trung tâm y tế của chính phủ đã đóng cửa", máy trả lời tự động đáp lại. "Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp, hãy gợi số 1- 8OO-GOVERNMENT". Bà mẹ gọi đến số này nhưng lại nhận được thêm một lời đáp tự động: "Chúng tôi rất tiếc, tất cả nhân viên y tế đều đang bận. Xin vui lòng chờ máy...".
"Sao người ta lại để chính quyền lo chuyện này", bà mẹ than vãn. "Tôi muốn có bác sĩ gia đình như trước".
Bài báo viết tiếp rằng tiết mục phát thanh trên, do một nhóm tên American for Tax Reform (Người Mỹ ủng hộ Cải cách Thuế) có trụ sở ở Washington sản xuất, chỉ có một lỗi duy nhất: nó không nói thật.
Một chiến dịch lớn khác, do nhóm American Council for Health Reform (Hội đồng Cải cách Y tế Mỹ) tổ chức, gửi thư khắp nơi nói rằng theo kế hoạch của Clinton thì mọi người sẽ bị phạt tù đến năm năm nếu họ mua thừa suất bảo hiểm y tế. Thật ra kế hoạch của chúng tôi nói rõ ràng là mọi người được tự do mua bất kỳ dịch vụ bảo hiểm y tế nào mình muốn.
Dù có là ngụy tạo thì chiến dịch này vẫn có tác dụng. Một bài báo khác trên tờ Wall Street Journal ngày 10 tháng 3 tường thuật kết quả một cuộc trưng cầu dân ý với nhan đề: "Nhiều người không nhận ra kế hoạch của Clinton mới đúng là cái mình muốn". Cuộc trưng cầu này, do Wall Street Journal/NBC News thực hiện, cho thấy có nhiêu người phản đối khi được hỏi về kế hoạch của chúng tôi. Nhưng khi được hỏi họ cần gì ở một chương trình y tế, hơn 60% trả lời lại ủng hộ những nội dung chính trong kế hoạch của chúng tôi. Bài báo nhận xét: "Khi nhóm người [được hỏi ý kiến] đọc một bản mô tả về dự luật của tổng thống, nhưng không nêu rõ điều này, cùng với bản mô tả bốn đề xuất chính của quốc hội cũng về chủ đề này, kế hoạch của Clinton được chọn đầu tiên".
Bài báo trích lời các tác giả của cuộc trứng cầu dân ý, một đảng viên Cộng hòa và một đảng viên Dân chủ, nói rằng: "Với kết quả này Nhà Trắng nên cảm thấy hài lòng, nhưng cũng cần trấn tĩnh lại. Hài lòng vì các ý tưởng cơ bản mà họ soạn ra cũng hợp ý phần lớn dân chúng. Nhưng phải tỉnh trí lại vì rõ ràng họ truyền bá các ý tưởng này ra công chúng quá kém cỏi, và ở khía cạnh này họ đã nhường nhịn các nhóm lợi ích quá nhiều".
Dù vậy, nghị viện cũng đang chuyển mình. Dự luật này đã được chuyển cho năm ủy ban trong quốc hội, ba ở hạ viện và hai ở thượng viện, ủy ban lao động của hạ viện đã bỏ phiếu chống một dự luật chăm sóc y tế có nội dung còn toàn diện hơn cả dự luật của chúng tôi. Bốn ủy ban còn lại đang làm việc hết sức để đạt được sự nhất trí.
Tuần lễ đầu tiên của tháng 5 lại đầy ngập công việc. Tôi trả lời câu hỏi của các nhà báo quốc tế tại một diễn đàn toàn cầu do trung tâm của Tổng thống Carter tài trợ tại trụ sở chính của CNN tại Atlanta; phê chuẩn sắc luật "rời trường học để đi làm" (School-to-work); chúc mừng Rabin và Arafat đã đạt được thỏa thuận về chuyển giao dải Gaza và Jericho; vận động hạ viện thông qua lệnh cấm vũ khí tấn công; đón mừng lệnh này được thông qua với chênh lệch chỉ hai phiếu bất chấp phản đồi dữ dội từ NRA; công bố rằng Hoa Kỳ sẽ tăng trợ giúp cho Nam Phi sau khi cuộc bầu cử toàn quốc kết thúc một cách công bằng, và một phái đoàn do Al và Tipper Gore, Hillary, Ron Brown, và Mike Espy dẫn đầu sẽ sang dự lễ nhậm chức của Tổng thống Nelson Mandela; tổ chức một sự kiện tại Nhà Trắng để nêu bật những vấn đề xã hội đối với các phụ nữ không có bảo hiểm y tế; thắt chặt cấm vận chống Haiti Vl trung tướng Raoul Cedras tiếp tục giết và hành hạ người ủng hộ Aristide; bổ nhiệm Bill Gray, người đứng đầu Quỹ Đại học gốc Phi và Nguyên chủ tịch ủy ban Ngân sách hạ viện, làm cố vấn đặc biệt cho tôi và Warren Christopher về Haiti; và bị Paula Jones kiện ra tòa. Một tuần lễ làm việc rất điển hình. Paula Jones xuất hiện trước công chúng từ tháng 2 tại hội nghị ủy ban hành động chính trị bảo thủ ở Washington. Cliff Jackson đã giới thiệu cô ta trước hội nghị, tiếng là để giúp cô "làm sạch thanh danh". Trong bài báo của David Brock trên tờ American Spectator dựa trên những lời buộc tội của vệ binh bang Arkansas, một trong những lời buộc tội là tôi đã gặp một phụ nữ tại khách sạn Little Rock, và phụ nữ này nói với người vệ binh đã đưa cô ta đến đó rằng mình muốn làm "bạn gái thường trực" của tôi. Dù trong bài báo chỉ nhắc đến cô ta với cái tên Paula, Jones thề thốt rằng gia đình và bạn bè khi đọc đều nhận ra đó là cô. Cô ta nói muốn làm sạch thanh danh, nhưng thay vì đi kiện tờ Spectator vì tội phỉ báng, cô ta lại đi tố cáo tôi quấy rối tình dục và nói rằng, sau khi cự tuyệt lời đề nghị của tôi, cô ta đã không được nâng lương như thông lệ hằng năm đối với nhân viên nhà nước. Lúc bấy giờ cô ta là nhân viên văn phòng của ủy ban Phát triển Công nghiệp Arkansas. Ban đầu, sự ra mắt của Jones qua tay của Cliff Jackson không được dư luận chú ý mấy. Nhưng đến ngày 6 tháng 5, hai ngày sau khi thời hiệu tô tụng kết thúc, cô ta nộp đơn kiện đòi tôi bồi thường 700.000 đôla vì quấy rối tình dục.
Trước khi Jones khởi kiện, luật sư đầu tiên của cô ta đã liên hệ với một người ở Little Rock có quan hệ với văn phòng của tôi. Người này nói với chúng tôi rằng viên luật sư cho biết cơ sở khởi kiện của cô ta không vững, và nếu tôi đồng ý trả 50.000 đôla để hỗ trợ cho Jones và chồng, một người tên Steve mà sau này tôi được biết là thuộc phe bảo thủ chống Clinton, tìm việc làm tại Hollywood, cô ta sẽ không kiện nữa. Tôi không trả tiền vì tôi không hề quấy rối gì cô ta cả, và cô ta có được tăng lương thường niên chứ không phải như lời buộc tội. Giờ tôi lại phải thuê một luật sư để bảo vệ mình, Bob Bennett của Washington.
Tôi dành phần lớn thời gian trong tháng 5 để đi khắp nước Mỹ vận động cho các dự luật chống tội ác và cải cách chăm sóc y tế, nhưng vẫn góp mặt trong nhiều việc khác. Sự kiện hay nhất là tôi đã có cháu trai đầu tiên, Tyler Cassidy Clinton, con của hai vợ chồng em tôi/ Roger và Molly, ra đời ngày 12 tháng 5.
Vào ngày 18, tôi ký dự luật cải cách mang tên Head Start (Khởi đầu Tốt đẹp) sau khi các thư ký Shalala và Riley đã dành rất nhiêu tâm huyết soạn thảo. Dự luật này làm tăng số lượng trẻ em tham gia các chương trình mẫu giáo, nâng cao chất lượng chương trình, và lần đầu tiên cung cấp dịch vụ cho trẻ em dưới ba tuổi theo sáng kiến Early Head Start.
Ngày hôm sau tôi tiếp kiến Thủ tướng Ân Độ P. V. Narasimha Rao tại Nhà Trắng. Chiến tranh Lạnh cùng các chính sách ngoại giao vụng về đã chia rẽ Hoa Kỳ và Ấn Độ quá lâu. Với dân số gần một tỷ, Ấn Độ là quốc gia dân chủ lớn nhất thế giới. Trong suốt ba thập niên trước, căng thẳng với Trung Quốc đã đưa Ấn Độ đến gần với Liên Xô, còn Chiến tranh Lạnh lại đẩy Mỹ đến với Pakistan, láng giềng của Ấn Độ. Từ khi được độc lập, hai quốc gia này đã dính vào một tranh chấp gay gắt, dường như bất tận về Kashmir, vùng đất phía bắc Ấn Độ mà người theo Hồi giáo chiếm đa số. Chiến tranh Lạnh đã qua và tôi nghĩ mình có cơ hội cũng như bổn phận cải thiện quan hệt Mỹ-Ấn.
Điểm rắc rối nhất là mâu thuẫn giữa một bên là nỗ lực của Mỹ nhằm ngăn cản sự lan tràn của vũ khí hạt nhân với một bên là định hướng của Ấn Độ nhằm phát triển loại vũ khí này vì họ cho vũ khí hạt nhân là không thể thiếu để răn đe Trung Quốc và là điều kiện tiên quyết để trở thành một cường quốc thế giới. Pakistan cũng đã phát triển chương trình hạt nhân, gây ra một tình hình nguy hiểm tại tiểu châu lục Ấn Độ. Tôi tin rằng vũ khí hạt nhân sẽ khiến cả Ấn Độ lẫn Pakistan kém an toàn hơn. Nhưng người Ấn Độ cho rằng tiếp tục chương trình hạt nhân là quyền chính đáng của mình và quyết tâm không để Hoa Kỳ can thiệp. Dù vậy, Ấn Độ vẫn mong muốn cải thiện quan hệ với Mỹ. Dù không giải quyết được các bất đồng, Thủ tướng Rao và tôi cũng đã mở ra một chương mới trong quan hệ Mỹ-Ấn mà sau đó ngày càng thân thiện hơn.
Cùng ngày, Jackie Kennedy Onassis qua đời sau cuộc chiến với ung thư. Bà chỉ mới 64 tuổi. Trong số các nhân vật của công chúng nổi tiếng nhất, bà là người có lối sống kín đáo nhât, và với nhiều người bà là một hình tượng của sự thanh lịch, duyên dáng, và sầu đau. Với những người có may mắn quen biết bà, Jackie không chỉ có thế, mà còn hơn nữa - một phụ nữ hoạt bát, đầy sức sông, một bà mẹ giỏi, và một người bạn tốt. Tôi biết người thân sẽ nhớ bà lắm. Cả Hillary cũng vậy; Jackie đã luôn là một nguồn động viên vô hạn, nơi Hillary tìm được những lời khuyên giá trị và một tình bạn chân thật.
Cuối tháng 5, tôi phải quyết định việc triển hạn tối huệ quốc cho Trung Quốc. Quy chế này thật ra chỉ là duy trì quan hệ thương mại bình thường, không có thuế bổ sung hay các dạng rào cản khác. Thâm hụt mậu dịch của Hoa Kỳ với Trung Quốc đã trở nên đáng kể và vẫn tăng đều hàng năm. Hoa Kỳ mua khoảng 35-40% hàng xuất khẩu của Trung Quốc mỗi năm. Sau sự kiện Thiên An Môn, nhiều chính trị gia Mỹ cho rằng chính quyền Bush quá nhanh chóng trong việc tái lập quan hệ bình thường với Bắc Kinh. Trong đợt vận động bầu cử tôi đã chỉ trích chính sách của tổng thống Bush, và vào năm 1993 tôi đã yêu cầu Trung Quốc phải có tiến bộ trong một số vấn đề từ di cư, nhân quyền đến tù nhân lao động bắt buộc như một điều kiện để tôi triển hạn tối huệ quốc. Trong tháng 5, Warren Christopher gửi tôi một báo cáo cho biết mọi trường hợp di cư đã được giải quyết; hai bên đã ký một bản ghi nhớ về cách giải quyết vấn đề tù nhân lao động bắt buộc; và lần đầu tiên Trung Quốc thông báo nước này sẽ tuân thủ tuyên bố thế giới về nhân quyền. Tuy nhiên, theo Christopher, vẫn còn tình hình vi phạm nhân quyền tại Trung Quốc.
Trung Quốc cực kỳ nhạy cảm với việc các nước khác can thiệp vào công việc nội bộ của mình. Lãnh đạo Trung Quốc cho rằng họ đang cố gắng thay đổi hết sức mình trong chương trình hiện đại hóa kinh tế và với sức ép dịch chuyển dân số khổng lồ từ nông thôn ra các thành phố phát triển ven biển. Nhận thấy các yêu cầu của Hoa Kỳ đã tạo ra các kết quả tích cực, tôi quyết định triển hạn tối huệ quốc cho Trung Quốc và, trong tương lai, tách rời vấn đề nhân quyền ra khỏi thương mại- Quyết định này nhận được sự nhất trí của các cố vấn về kinh tế và chính sách ngoại giao của tôi. Hoa Kỳ trông đợi rất nhiều từ việc đưa Trung Quốc hòa nhập cộng đồng thế giới. Hòa nhập hơn, thương mại lớn hơn sẽ giúp nhân dân Trung Quốc giàu có hơn; mở rộng quan hệ với thế giới bên ngoài; tuân thủ tốt hơn các luật lệ quốc tế; và chúng tôi hy vọng sẽ dẫn đến tiến bộ về nhân quyền và quyền cá nhân.
Trong tuần lễ đầu tiên của tháng 6, tôi cùng Hillary đến châu Âu để dự lễ kỷ niệm 50 năm D-Day, ngày 6 tháng 6 năm 1944, khi quân Mỹ và Đồng minh vượt qua eo biển Manche tấn công vào các bãi biển ở Normandy. Đó là chiến dịch tấn công bằng hải quân lớn nhất trong lịch sử và đánh dâu bước đầu kết thúc Thế chiến hai ở châu Âu.
Chuyến đi bắt đầu ở Rome, với một chuyến thăm Vatican để diện kiến giáo hoàng và tân Thủ tưởng Ý Silvio Berlusconi, chủ tập đoàn truyền thông lớn nhất nhưng là lính mới trong chính trường. Ông đã tập hợp một liên minh thú vị, trong đó có cả một đảng cực hữu từng bị xem là phát xít. Dù không hoàn toàn bình phục sau khi bị gãy chân Giáo hoàng John Paul II vẫn say mê thảo luận các vấn đề toàn cầu, từ tự do tôn giáo đến khả năng hợp tác với người Hồi giáo theo đường lối trung hòa, đến những bất đồng giữa chúng tôi xoay quanh cách tốt nhất để giới hạn sự bùng nổ dân số và đẩy mạnh phát triển bền vững tại các nước nghèo.
Có thể nói Berlusconi là chính trị gia thời đại truyền hình đầu tiên tại Ý: lôi cuốn, cứng cỏi, và đầy quyết tâm khép chính trường đầy bất ổn tại Ý vào khuôn khổ cai quản và kỷ luật của mình. Berlusconi luôn cực lực bác bỏ những chỉ trích cho rằng ông đang rắp tâm áp đặt một trật tự phát xít mới ở Ý. Tôi rất vui khi ông khẳng định cam kết bảo vệ dân chủ và nhân quyền, duy trì quan hệ đối tác lịch sử Ý-Hoa Kỳ, và làm tròn trách nhiệm với NATO tại Bosnia.
Ngày 3 tháng 6, tôi phát biểu tại nghĩa trang Hoa Kỳ tại Nettuno. Mảnh đất xưa kia bị cày xới bởi chiến tranh nay xanh rì những cây tùng cây bách. Từng hàng từng hàng bia cẩm thạch khắc tên 7.862 chiến sĩ yên nghỉ nơi đây. Tên của hơn- 3.000 tử sĩ Hoa Kỳ khác chưa tìm thấy hài cốt được khắc trong nhà nguyện gần đó. Tất cả họ đều hy sinh khi còn quá trẻ, vì nền độc lập của nước Ý. Đây chính là chiến trường mà cha tôi từng có mặt.
Ngày hôm sau chúng tôi có mặt tại nước Anh, căn cứ không quân Mildenhall gần Cambridge. Chúng tôi ghé thăm một nghĩa trang quân Mỹ nơi chôn cất 3.812 chiến sĩ tử trận khi đóng quân tại đây. Tại đây cũng có một Bức Tường tưởng niệm khắc tên hơn 5.000 chiến sĩ mất tích, trong đó có hai người mãi mãi không về trong một chuyến bay trên eo biển Manche: Joe Kennedy Jr., con đầu lòng của gia đình Kennedy, người mà ai cũng tin là sẽ trở thành chính trị gia, và Glem Miller, thủ lĩnh một ban nhạc có các tác phẩm thịnh hành tại Hoa Kỳ trong thập niên 1940. Một trong số đó, bài "Moonlight Serenade", được trình tấu tại lễ tưởng niệm.
Sau cuộc gặp với John Major ở Chequers, khu dinh thự điền dã từ thế kỷ 15 của thủ tướng Anh, tôi và Hillary dự một dạ tiệc hoành tráng tại Portsmouth. Tại đây tôi ngồi cạnh Nữ hoàng và bị choáng ngợp bởi sự duyên dáng, trí tuệ của bà, cũng như cách bà sáng suốt nhận định về các vấn đề xã hội, dò hỏi tôi về các thông tin và nhận định mà không sa đà bộc lộ quan điểm chính trị của riêng mình, vì đây là điều cấm kỵ với một nguyên thủ Anh quốc. Tôi có ấn tượng là Nữ hoàng hoàn toàn có thể trở thành một nhà chính trị hay ngoại giao thành công nếu bà ra đời trong một hoàn cảnh khác. Trên thực tế, bà phải đóng cả hai vai trò đó một cách kín đáo.
Sau bữa tiệc, chúng tôi được mời lên du thuyền hoàng gia HMS Britannia nơi chúng tôi có vinh dự diện kiến Hoàng thái hậu. Đã 93 tuổi mà bà vẫn tươi tỉnh và đáng yêu, với đôi mắt sắc sảo. Sáng hôm sau, một ngày trước kỷ niệm ngày D-day, chúng tôi dự lễ Khai trống, một nghi lễ tôn giáo để hội quân ra trận. Công nương Diana, khi đó đã ly thân nhưng chưa ly dị Thái tử Charles, cũng có mặt. Sau khi chào chúng tôi, công nương đến bắt tay quần chúng tham dự lễ, những người rõ ràng rất vui mừng với sự có mặt của công nương. Dù chỉ gặp Charles và Diana trong thoáng chốc, tôi mến cả hai người và ước sao cho cuộc đời đã đối xử với họ khác hơn.
Khi tan lễ, chúng tôi lên tàu Britannia dùng bữa trưa và cùng rất nhiều tàu khác lướt ra eo biển Manche để bắt đầu chuyến đi. Sau một hải trình ngắn, chúng tôi tạm biệt gia đình hoàng gia, chuyển sang một chiếc thuyền nhỏ của lực lượng đặc nhiệm hải quân Mỹ (SEAL) để đến hàng không mẫu hạm George Washington. Tàu sân bay này sẽ đưa chúng tôi sẽ đi hết hành trình. Tôi và Hillary dùng bữa tối với khoảng 6000 thủy thủ và Thủy quân lục chiến trên tàu. Sau đó tôi chuẩn bị các bài nói của mình.
Vào ngày D-day, tôi phát biểu tại Pointe du Hoc, bãi biển Utah, và nghĩa trang lính Mỹ tại Colleville-sur-Mer. Ở đâu cũng có rất nhiều cựu chiến binh Thế chiến hai.
Tôi cũng tản bộ trên bãi biển Utah với ba cựu chiến binh, một trong số đó nhận Anh dũng Bội tinh vì thành tích chiến đấu trong cái ngày định mệnh này 50 năm trước. Đây là lần trở lại đầu tiên của ông. Ông bảo tôi là chúng tôi đang ở gần như đúng vị trí mà ông đã đổ bộ vào năm 1944. Rồi ông chỉ tay kể rằng anh trai của mình cũng đổ bộ ở hướng kia, cách chỗ này vài trăm mét. Ông nói, "Cuộc đời lạ lùng thật. Tôi lãnh Anh dũng Bội tinh, còn anh tôi tử trận". "Ông vẫn nhớ anh mình à?", tôi hỏi và sẽ không bao giờ quên được câu trả lời: "Suốt 50 năm, ngày nào tôi cũng nhớ anh ấy".
Tại lễ tưởng niệm, tôi được gặp Joe Dawson, người Texas. Khi là một thuyền trưởng trẻ tuổi vào 50 năm trước, ông được ghi nhận là sĩ quan đầu tiên lên đến đỉnh những dốc đứng tử địa ở Normandy dưới hỏa lực kinh hồn của quân Đức. Khoảng 9.400 lính Mỹ tử trận tại Normandy, trong đó có 33 cặp anh em ruột, một cặp cha con, và 11 người từ rẻo đất Bedford của vùng Virginia. Tôi phát biểu rằng, những người sống sót và đã trở về thăm vùng đất vinh quang này "bước chân có thể không còn trẻ trung như xưa, hàng ngũ của họ cũng ngày một thưa dần. Nhưng, chúng ta hãy đừng quên rằng, đây là những người đã dành tuổi trẻ của mình để cứu nguy cho thế giới".
Ngày hôm sau tôi đến Paris gặp thị trưởng Jacques Chirac, nói chuyện với Quốc hội Pháp tại Lâu đài Bourbon, và dự bữa tối do Tổng thống Francois Mitterand tổ chức tại Điện Elyseé. Bữa tối kết thúc vào gần nửa đêm, và Tổng thống Mitterand khiến tôi ngạc nhiên khi mời tôi cùng Hillary tham quan "Điện Louvre mới", tuyệt tác của kiến trúc sư Mỹ gốc Hoa I. M. Pei. Mitterand đã 77 tuổi, sức khỏe không còn tốt, nhưng vẫn rất thiết tha giới thiệu kỳ quan mới nhất của Pháp. Khi Francois, đại sứ Mỹ Pamela Harriman, Hillary và tôi đến nơi, hướng dẫn viên cho chúng tôi không phải ai khác mà chính là Pei. Chúng tôi dành hơn một giờ rưỡi chiêm ngưỡng kim tự tháp thủy tinh nguy nga, những tòa nhà cũ đã được khôi phục chỉnh trang, và những phế tích La Mã đã được khai quật. Mitterand có nguồn năng lực vô hạn - ông bổ sung vào lời của Pei để chắc chắn rằng chúng tôi không bỏ lỡ chi tiết nào.
Trong ngày cuối cùng của chuyến đi, tôi trở lại Oxford để nhận bằng danh dự. Đó là một ngày xuân hoàn hảo ở xứ Anh - mặt trời tỏa năng, gió thổi mơn man và cây cối hoa lá bừng nở. Trong lời phát biểu ngắn, tôi nhắc đến D-day và nói: "Không phải lúc nào lịch sử cũng mang đến cho ta những trận đánh lớn nhưng lich sử luôn cho ta các cơ hội". Chúng ta đã có rất nhiều cơ hội cả ở trong, nước và nước ngoài khôi phục tăng trưởng kinh tế, mở rộng dân chủ, chấm dứt tàn phá môi trường, xây dựng nền an ninh mới tại châu Âu, và ngăn chặn "sự lây lan của vũ khí hạt nhân và chủ nghĩa khủng bố". Tôi và Hillary đã có một tuần lễ không thể nào quên được, nhưng đã đến lúc quay về với các cơ hội đó.
Một ngày sau khi tôi trở về Mỹ, ủy ban Nhân lực và Lao động của Thượng nghị sĩ Kennedy báo cáo một dự luật cải cách chăm sóc y tế. Đây là lần đầu tiên một dự luật về cung cấp dịch vụ y tế công rộng rãi được đưa ra khỏi phạm vi của một ủy ban quốc hội. Một nghị sĩ Cộng hòa, Jim Jeffords của Vermont, đã bỏ phiếu cho dự luật này. Jeffords khuyến khích tôi nên tác động đến các nghị sĩ Cộng hòa khác. Ông nói rằng, chỉ cần thêm một sô sửa đổi không ảnh hưởng đến tinh thần của dự luật này là chúng tôi có thể nhận thêm được một ít phiếu ủng hộ.
Ngày vui ngắn chẳng tày gang. Hai ngày sau, Bob Dole, trước đó cho biết sẽ làm việc cùng chúng tôi để đạt được một thỏa hiệp, lại tuyên bố rằng ông sẽ ngăn cản mọi dự luật về chăm sóc y tế, và sẽ biến chương trình của chúng tôi thành một trong những chủ đề chính trong các đợt bầu cử nghị viện tháng 11. Vài ngày sau, báo chí trích lời Newt Gingrich nói rằng chiến lược của đảng Cộng hòa là làm cho dự luật này không thể thông qua bằng cách bỏ phiếu chống các sửa đổi. Ông ta nói là làm. Vào ngày 30 tháng 6, ủy ban Tài chính và Thuế vụ của hạ nghị viện đã bỏ phiếu chống dự luật chăm sóc y tế rộng rãi. Không nghị sĩ Cộng hòa nào bỏ phiếu ủng hộ.
Các lãnh tụ phe Cộng hòa đã nhận được một bản ghi nhớ của William Kristol, nguyên chánh văn phòng của Phó tổng thống Dan Quayle, hối thúc họ bóp chết cải cách chăm sóc y tế. Kristol nói phe Cộng hòa không thể để thông qua bất kỳ thứ gì, và nếu dự luật này thành công thì sẽ đặt ra một "môi nguy chính trị nghiêm trọng với đảng Cộng hòa", còn việc nó bị phủ quyết sẽ là một "thất bại to lớn đối với tổng thống". Đến cuối tháng 5, tại một bữa tiệc, lãnh đạo phe Cộng hòa tại quốc hội quyết định chấp nhận quan điểm của Kristol. Tôi không ngạc nhiên khi Gingrich đi theo đường lối cứng rắn của Kristol - mục tiêu của ông là lãnh đạo hạ nghị viện và đẩy nước Mỹ sang phe hữu. Tuy nhiên, Dole thực tâm rất chú ý đến chăm sóc y tế và hiểu rõ rằng chúng ta cần cải tổ lại hệ thống hiện hành. Nhưng ông ta lại đang chạy đua cho ghế tổng thống. Ông ta chỉ cần gom 41 nghị sĩ Cộng hòa vào nhóm cản trở dự luật, và thế là chúng tôi thua.
Ngày 21 tháng 6, tôi chuyển đến quốc hội một dự luật cải cách phúc lợi, được viết bởi Donna Shalala, Bruce Reed cùng các nhà soạn chính sách hàng đầu, nhằm biến phúc lợi thành "một cơ hội thứ hai, chứ không phải một cách kiếm sống". Dự luật này là sản phẩm của rất nhiều tháng hiệp thương với các nhóm lợi ích sẽ chịu tác động, từ thống đốc bang cho tới người nhận trợ cấp xã hội. Nó đòi hỏi những người khỏe mạnh phải đi làm sau hai năm hưởng trợ cấp, trong thời gian đó chính phủ sẽ hỗ trợ giáo dục và đào tạo cho họ. Nếu không có sẵn công việc ở khu vực tư nhân, người hưởng trợ cấp sẽ được yêu cầu nhận một công việc được nhà nước hỗ trợ.
Các điều khoản khác được soạn thảo sao cho đảm bảo được rằng người hưởng trợ cấp sẽ có điều kiện kinh tế khá hơn sau khi đi làm, có nhiều tiền hơn để chăm lo cho con cái, và họ vẫn được nhà nước bao cấp về y tế và dinh dưỡng trong giai đoạn chuyển tiếp theo chương trình Medicaid và tem phiếu thực phẩm. Các thay đổi này, cộng với đợt giảm thuế EITC lớn cho người lao động thu nhập thấp năm 1993, hoàn toàn có thể khiến mọi người nhận ra rằng đi làm, dù là công việc thu nhập thấp, vẫn tốt hơn là nhận trợ cấp xã hội. Dĩ nhiên, lẽ ra nếu chúng ta thông qua đợt cải cách chăm sóc y tế thì lao động thu nhập thấp sẽ được hỗ trợ chăm sóc y tế lâu dài chứ không phải tạm thời, và đợt cải cách phúc lợi này sẽ thành công hơn nữa.
Tôi cũng đề nghị nên chấm dứt loại ưu đãi quá đáng trong hệ thống hiện hành, theo đó nếu các thiếu nữ làm mẹ không sống chung với gia đình nữa sẽ nhận được trợ cấp nhiều hơn nếu họ ở cùng cha mẹ và tiếp tục đi học. Và tôi thúc giục quốc hội siết chặt thêm iuật thi hành án chăm sóc con cái để buộc các bậc cha mẹ không nhận nuôi con phải trả tiền nuôi dưỡng theo quyết định của tòa án, tổng cộng đã lên đến 34 tỉ đôla. Thư ký Shalala đã cho một số bang được miễn tuân thủ các luật lệ liên bang để theo đuổi các cải cách này, và chúng đã cho thấy hiệu quả: ngân sách trợ cấp giảm mạnh.
Tháng 6 đầy ắp các vấn đề quốc tế: tôi thắt chặt cấm vận đối với Haiti; tôi cùng Hillary tổ chức bữa quốc yến dành cho Hoàng đế và Hoàng hậu Nhật Bản, cả hai đều rất thông minh và hòa nhã, đi đến đâu cũng để lại thiện cảm về đất nước Nhật Bản; tôi gặp vua Hussein của Jordan, và các tổng thống Hungary, Slovakia và Chile. Tuy nhiên, Bắc Triều Tiên vẫn là vấn đề đối ngoại lớn nhất lúc đó.
Như tôi đã nói, Bắc Triều Tiên đã ngăn cản IAEA tiến hành thanh tra xem liệu nước này có tái xử lý các thanh nhiên liệu đã dùng thành plutonium dùng cho vũ khí hạt nhân hay không. Khi các cuộc thanh tra bị ngưng lại vào tháng 3, tôi đã cam kết sẽ đề nghị Liên hiệp quốc trừng phạt Bắc Triều Tiên và không loại trừ khả năng dùng hành động quân sự. Sau đó tình hình diễn biến xấu hơn. Đến tháng 5, Bắc Triều Tiên bắt đầu dỡ nguyên liệu ra khỏi một lò phản ứng theo một cách thức giúp họ cản trở các thanh sát viên giám sát tường tận hoạt động của lò phản ứng này.
Tổng thống Carter gọi điện thoại cho tôi vào ngày 1 tháng 6 cho biết ông muốn đến Bắc Triều Tiên đã cố gắng giải quyết căng thẳng. Tôi cử đại sứ Bob Gallucci, người đang theo dõi vấn đề này, đến gặp Carter tại Plains, Georgia để thông báo về mức độ nghiêm trọng của những vi phạm của Bắc Triều Tiên. Nhưng Tổng thống Carter vẫn muốn đi. Sau khi hỏi ý kiến của Al Gore và nhóm cố vấn an ninh quốc gia, tôi quyết định việc này cũng đáng thử một phen. Khoảng ba tuần trước tôi có nhận được một bản ước tính đầy bi quan về những tổn thất kinh hoàng mà cả hai bên đều phải gánh chịu nếu chiến tranh nổ ra. Vì tôi đang tham dự lễ kỷ niệm ngày D-day tại châu Âu nên Al Gore thay mặt tôi thông báo với Carter là tôi không phản đối chuyến đi của ông đến Bắc Triều Tiên, miễn là Chủ tịch Kim Jong II hiểu được rằng tôi sẽ không đồng ý chấm dứt cấm vận nếu Bắc Triều Tiên vẫn ngăn cản thanh tra vũ khí làm việc, chưa đồng ý dừng chương trình hạt nhân và cam kết tham gia một vòng đàm phán mới với Mỹ về việc xây dựng một tương lai phi hạt nhân.
Ngày 16 tháng 6 Tổng thống Carter gọi điện cho tôi từ Bình Nhưỡng và sau đó trả lời phổng vấn trực tiếp trên kênh truyền hình CNN cho biết Chủ tịch Kim hứa không trục xuất các thanh sát viên ra khỏi các tổ hợp hạt nhân nếu có các nỗ lực thiện chí nhằm giải quyết các bất đồng liên quan đến việc thanh tra vũ khí. Carter nói rằng, vì bước tiến "rất tích cực" này, chính quyền Mỹ nên giảm bớt các nỗ lực cấm vận và mở ra các cuộc đàm phán cấp cao với Bắc Triều Tiên. Tôi hồi đáp rằng nếu Bắc Triều Tiên sẵn sàng đóng băng chương trình hạt nhân thì Mỹ sẽ quay lại bàn đàm phán, nhưng tôi không rõ Bắc Triều Tiên có đồng ý điều này chưa.
Dựa trên kinh nghiệm của mình, tôi không sẵn lòng tin tưởng ngay Bắc Triều Tiên và quyết định vẫn tiếp tục cấm vận Bắc Triều Tiên cho đến khi nước này chính thức xác nhận sẽ thay đổi chính sách. Lời xác nhận này đến một tuần lễ sau. Trong một lá thư gửi cho tôi, Chủ tịch Kim khẳng định những điều ông đã nói với Tổng thống Carter và chấp nhận các điều kiện tiên quyết của Mỹ để bắt đầu đàm phán. Tôi cảm ơn những nỗ lực của Tổng thống Carter và thông báo rằng Bắc Triều Tiên đã đồng ý với các điều kiện của chúng tôi, cũng như Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc đã đồng ý thảo luận về khả năng tổ chức một cuộc gặp giữa hai vị nguyên thủ quốc gia. Ngược lại, tôi tuyên bố Mỹ sẵn sàng bắt tay đối thoại với Bắc Triều Tiên tại Geneva vào tháng sau. Trong thời gian diễn ra hội đàm, Mỹ sẽ tạm ngưng các nỗ lực cấm vận.
Đến cuối tháng 6, tôi công bố một số thay đổi nhân sự mà tôi hy vọng sẽ giúp chúng tôi xử lý tốt hơn tiến trình làm luật nặng nề cũng như chiến dịch tranh cử mà chỉ bốn tháng nữa sẽ diễn ra. Trước đó vài tuần Mack McLarty cho tôi biết đã đến lúc ông thay đổi công việc. Trong cương vị chánh văn phòng Nhà Trắng, ông đã phải chịu đựng áp lực nặng nề, bị báo chí chỉ trích rất nhiều vì quá trình ra quyết định của chúng tôi. Mack gợi ý tôi chỉ định Leon Panetta làm chánh văn phòng, vì ông này nắm rõ quốc hội cũng như báo chí, và sẽ đảm bảo quản lý tốt. Nhiều người khi nghe tin về Mack cũng ủng hộ Leon vào chức vụ này. Mack nói ông sẽ cố gắng xây cầu nối giữa những đảng viên Cộng hòa ôn hòa và đảng viên Dân chủ bảo thủ trong quốc hội, và trông nom công tác chuẩn bị cho Hội nghị thượng đỉnh châu Mỹ, sẽ được tổ chức tại Miami vào tháng 12.
Theo tôi, Mack đã hoàn thành công việc của mình xuất sắc hơn nhiều người nghĩ. Ông đã quản lý tốt một Nhà Trắng rất nhỏ với một khối lượng công việc rất đồ sộ và đóng vai trò then chốt trong các chiến thắng của chúng tôi về kế hoạch kinh tế và NAFTA. Như Bob Rubin thường nói, Mack đã tạo nên một môi trường đại học trong lòng Nhà Trắng với một nội các mà nhiều trào tổng thống trước đây chưa bao giờ đạt được. Chính môi trường này đã giúp chúng tôi hoàn thành rất nhiều việc, cả trong trong quốc hội lẫn các cơ quan chính phủ. Nó cũng khuyến khích các cuộc tranh luận mở và tự do, từ đó chúng tôi nghe được nhiều chỉ trích về quá trình ra quyết định của mình mà nhờ vậy chúng tôi có những quyết định tốt hơn để đương đầu với rất nhiều thử thách vừa phức tạp vừa mới mẻ.
Hơn nữa, tôi nghĩ chúng tôi hầu như không thể làm gì hơn để tránh cái nhìn tiêu cực của báo chí, trừ việc nỗ lực giảm các nguồn thông tin rò rỉ. Giáo sư Thomas Patterson, một chuyên gia về vai trò của truyền thông với bầu cử, gần đây xuất bản quyển sách nhan đề Out Of Order. Quyển sách này đã giúp tôi hiểu rõ hơn những gì đang diễn ra và không còn quá dằn vặt mình nữa. Giáo sư Patterson cho rằng cách báo chí đưa tin về các chiến dịch tranh cử tổng thống đã trở nên càng lúc càng tiêu cực trong vòng 20 năm trở lại, và báo chí đã tự xem mình là "nhà trung gian" giữa ứng viên và công chúng, có trách nhiệm định hướng suy nghĩ của cử tri về ứng viên và vạch ra những điểm sai của ứng viên. Vào năm 1992, cả Bush, Perot và tôi đều nhận được nhiều bài viết tiêu cực hơn là tích cực.
Trong quyển Out Of Order xuất bản năm 1994, Patterson viết trong phần lời nói thêm rằng sau đợt bầu cử năm 1992, lần đầu tiên giới truyền thông đã chuyển thành kiến tiêu cực từ chiến dịch tranh cử sang cách họ đưa tin về chính quyền. Ông viết, hiện nay, cách đưa tin về một tổng thống "ít tùy thuộc vào năng lực tại chức thật sự mà chủ yếu dựa trên thành kiến tiêu cực của báo giới. Báo giới gần như luôn phóng đại điểm xấu và xem nhẹ điểm tốt". Chẳng hạn, tổ chức trung lập Trung tâm Truyền thông và các Vấn đề Công chúng cho biết 60% tin tức về cách xử lý các vấn đề chính sách đối nội của tôi là tiêu cực, đa số xoáy vào các cam kết khi vận động bầu cử không được thực hiện, mặc dù, theo Patterson, tôi đã thực hiện khá nhiều cam kết tranh cử và tôi xứng đáng được xem là một tổng thống "có uy tín trong việc thực hiện lời hứa của mình", biểu hiện là chiến thắng tại Quốc hội với 88% phiếu bầu, cao hơn 1% so với Eisenhower năm 1953 và Johnson năm 1965. Patterson kết luận cách đưa tin tiêu cực của báo chí không chỉ làm giảm tỷ lệ ủng hộ của tôi mà còn cả tỷ lệ ủng hộ cho các chương trình do tôi đề xuất, trong đó có chăm sóc y tế, và như thế đã "khiến cho nhiệm kỳ tổng thống Clinton và lợi ích quốc gia phải chịu tổn thất to lớn".
Mùa hè năm 1994, quyển sách của Thomas Patterson đã giúp tôi nhận ra rằng có lẽ mình không thể làm gì để thay đổi cách nhìn của báo giới. Nếu đúng như vậy thì tôi phải học cách ứng phó tốt hơn. Leon Panetta đã sẵn sàng chấp nhận các thách thức từ vị trí mới. Ở Ban Quản trị và Tài chính của Nhà Trắng, ông đã đạt được những thành tích mà khó ai có thể làm tốt hơn. Hai bản dự toán ngân sách đầu tiên trong nhiệm kỳ của tôi được quốc hội thông qua theo đúng lịch trình - lần đầu tiên sau 17 năm. Thâm hụt ngân sách được cắt giảm trong ba năm liên tiếp - lần đầu tiên kể từ trào tổng thống Truman. Ấn tượng nhất là việc các kế hoạch ngân sách giúp cắt giảm được khoản công chi nội địa - lần đầu tiên sau 25 năm, trong khi vẫn đảm bảo tăng chi cho giáo dục, cho chương trình Head Start, đào tạo nghề, và các công nghệ mới. Hy vọng rằng với cương vị mới, Leon có thể truyền đạt tốt hơn những gì chúng tôi đang thực hiện và cố gắng đạt được cho nước Mỹ. Tôi đề cử ông và chỉ định Mack làm cố vấn tổng thống, là vai trò ông đã đề xuất.