Chương 39
Vào tháng 6, Robert Fiske đã có một hành động thực sự. Ông quyết định tiến hành một cuộc điều tra độc lập về cái chết của Vince Foster vì đây là một vụ việc được báo chí và các nghị sĩ Cộng hòa tại quốc hội đặt ra rất nhiều câu hỏi. Tôi cũng rất hài lòng khi Fiske quan tâm đến việc này. Những người muốn dựng lên một cuộc xìcăngđan rất muốn tạo ra được máu từ một cây củ cải đỏ, và việc làm này có thể làm cho họ câm mồm lại và tạo ra một sự an ủi nào đó cho gia đình Vince.
Một số lời cáo buộc và trò hề tạo ra trông rất buồn cười ngoại trừ tính bi kịch của vụ việc. Một trong những nhân vật lớn tiếng và có vẻ rất đạo mạo nhất trong nhóm các nhân vật lên tiếng tố cáo "Foster đã bị giết" là nghị sĩ Cộng hòa Dan Burton của bang Indiana. Trong một cố gắng để chứng minh là Vince không thể tự sát được, Burton đã bước ra sân nhà ông và dùng súng ngắn bắn vào một trái dưa hấu. Thật là quái gở. Tôi chưa bao giờ có thể hiểu được ông ta muốn chứng minh cái gì.
Fiske đã tiến hành phỏng vấn tôi và Hillary. Đây là cuộc đối chất thẳng thắn và rất chuyên nghiệp, và sau đó tôi biết ông ta đã rất cẩn thận và tin tưởng rằng ông có thể kết thúc được cuộc điều tra một cách đúng lúc. Vào ngày 30 tháng 6, ông cho công bố những phát hiện ban đầu về cái chết của Vince cũng như những cuộc đối thoại được làm rùm beng giữa Bernie Nussbaum và Roger Altman. Fiske cho rằng cái chết của Fiske là một vụ tự tử và không thấy có một bằng chứng nào liên hê đến Whitewater. Ông cũng không phát hiện một cái gì đáng ngờ trong các việc làm của Nussbaum và Altman.
Từ đó, Fiske đã bị những người bảo thủ của đảng Cộng hòa và các đồng minh của họ tỏ ra coi thường trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tờ Wall Street Journal bắt đầu kích động báo chí viết những bài đả kích tôi và Hillary một cách ác liệt hơn; thế nhưng hầu hết những bài viết này sau đó đã bị "các sự việc khác" bác bỏ. Một số nhà bình luận và thành viên quốc hội bắt đầu kêu gọi Fiske từ chức. Thượng nghị sĩ Lauch Faircloth của bang Bắc Carolina là một người phát biểu đặc biệt lớn tiếng, do sự tác động của David Bossie, một nhân viên tham mưu mới, và là cộng tác viên của Floyd Brown trong nhóm Citizens United, một tổ chức cánh hữu từng cho phổ biến rất nhiều câu chuyện không đúng sự thật về tôi.
Cùng ngày với việc Fiske công bố bản báo cáo của ông ta, tôi lại tự đóng thêm một cây đinh vào chiếc quan tài của chính mình (tự hại mình - ND) khi ký thông qua luật mới về công tố viên độc lập. Luật này cho phép Fiske được tái bể nhiệm, nhưng "Tiểu ban đặc biệt" của tòa Thượng thẩm Washington DC mới cũng có thể bãi nhiệm ông và chỉ định một công tố viên khác, và do đó quá trình điều tra sẽ được tái khởi động lại. Theo cách làm này, các thẩm phán của Tiểu ban đặc biệt sẽ được Chánh án Tòa tối cao là Rehnquist lựa chọn. Ông này từng là một nhà hoạt động cực hữu của đảng Cộng hòa trước khi được vào làm tại Tòa án tối cao.
Tôi muốn trường hợp của Fiske không bị chi phối bởi đạo luật mới này, nhưng người đứng đầu các vấn đề lập pháp của tôi là Pat Griffin cho rằng một số thành viên của đảng Dân chủ lo ngại việc này sẽ không ổn. Lloyd Cutler cho rằng không có gì phải lo lắng vì rõ ràng Fiske là một nhà điều tra độc lập và sẽ không có lý do gì để ông sẽ phải bị thay thế. Ông nói với Hillary là ông sẽ "đi đầu xuống đất" nếu việc này xảy ra.
Vào đầu tháng 7, tôi trở lại châu Âu để tham dự Hội nghị thượng đỉnh G-7 tại Naples. Trên đường đi, tôi ghé qua Latvia để gặp lãnh đạo các quốc gia Baltic và chào mừng việc các đơn vị quân đội Nga rút ra khỏi Lithuania và Latvia. Đây là cuộc rút quân được thúc đẩy nhanh với sự giúp đỡ của chúng tôi bằng việc tài trợ một số tiền lớn để mua nhà cho các sĩ quan Nga muốn trở về quê hương, vẫn còn các lực lượng Nga đóng tại Estonia, và Tổng thống Lennart Meri, một nhà làm phim và là một người luôn luôn chống đối sự thống trị của người Nga đối với đất nước mình, đã tỏ ra kiên quyết trong việc đưa họ về nước càng sớm càng tốt. Sau buổi lễ míttinh, là một cuộc tuần hành chào mừng tại Quảng trường Tự do của Riga, nơi mà tôi được sự chào đón của khoảng 40.000 người vẫy cờ cảm ơn nước Mỹ về sự hỗ trợ kiên quyết cho tự do mà họ mới giành lại được.
Bước kế tiếp là đến Warsaw gặp Tổng thống Lech Walesa để nhấn mạnh sự cam kết giúp Ba Lan gia nhập khối NATO. Bằng việc lãnh đạo cuộc nổi dậy của công nhân xưởng đóng tàu Gdansk chống lại chủ nghĩa cộng sản từ hơn một thập niên, Walesa đã trở thành một người hùng và là tổng thống từ sự lựa chọn của một nước Ba Lan tự do. Ông tỏ ra rất cảnh giác với nước Nga và mong muốn Ba Lan được gia nhập khối NATO càng sớm càng tốt. Ông cũng muốn có sự đầu tư ngày càng nhiều hơn của Mỹ vào Ba Lan. Ông cho rằng tương lai của Ba Lan cần ngày càng nhiều các tướng Mỹ hơn, "bắt đầu bằng General Motors và General Electric" (chơi chữ - trong tiếng Anh từ general cũng có nghĩa là tướng - ND).
Trong đêm hôm đó Walesa tổ chức một buổi tiệc mời tất cả những người đứng đầu các quan điểm chính trị. Tôi lắng nghe một cách say mê cuộc tranh luận nóng bỏng giữa bà Walesa - một bà mẹ năng động của tám người con và một nhà lãnh đạo quốc hội xuất thân là một người trồng khoai tây. Bà Walesa đả kích mạnh mẽ chủ nghĩa cộng sản trong khi ông ta cho rằng dưới thời cộng sản, người nông dân có cuộc sống tốt hơn cuộc sống ngày nay. Cuộc tranh luận căng thẳng đến nỗi tôi lo rằng họ sẽ đi đến ẩu đả với nhau. Tôi đã tìm cách giúp giải quyết cuộc tranh luận bằng cách nhắc nhở nhà lập pháp rằng ngay dưới thời chính thể cộng sản, các nông trại Ba Lan cũng trong tay tư nhân; tất cả những gì người cộng sản Ba Lan làm là mua lại các sản phẩm của ông và bán sang Ukraina và Nga. Ông ta đã nhượng bộ ở luận điểm này nhưng nói rằng ông ta luôn có được một thị trường và giá cả tốt cho các sản phẩm của mình. Tôi nói thêm với ông là ông chưa bao giờ sống dưới một chính thể cộng sản hoàn toàn như ở nước Nga, nơi mà các trang trại cũng được tập thể hóa. Sau đó tôi đã giải thích cách vận hành của nền kinh tế Mỹ và làm thế nào tất cả những nền kinh tế thị trường thành công cũng có một số hình thức hợp tác trong việc tiếp thị và trợ giá. Nhà lập pháp chủ trang trại này đã có vẻ nghi ngờ, và bà Walesa vẫn tỏ ra kiên định. Nếu biểu hiện của nền dân chủ là những cuộc tranh luận tự do và không bị kềm chế, thì điều đó chắc chắn là đã có ở tại Ba Lan.
Ngày đầu tiên của tôi tại Hội nghị thượng đỉnh Naples được dành cho các vấn đề châu Á. Lãnh tụ Kim Nhật Thành đã vừa chết ngày hôm trước, chỉ ngay sau khi những cuộc hội đàm với Bắc Triều Tiên vừa được nối lại tại Geneva, làm cho tương lai của những thỏa thuận của chúng ta với Bắc Triều Tiên trở nên càng không rõ ràng. Một thành viên G-7 khác có nhiều quan tâm đến vấn đề này là Nhật Bản. Đã có nhiều sự căng thẳng giữa người Nhật và người Triều Tiên từ nhiều thập kỷ qua, ngay cả trước Thế chiến hai. Nếu Bắc Triều Tiên sở hữu vũ khí hạt nhân, Nhật Bản sẽ bị một sức ép rất lớn là phải phát triển vũ khí hạt nhân, một hành động mà, vì kinh nghiệm đau thương của mình, Nhật Bản đã không muốn tiến hành. Ngài Thủ tướng mới của Nhật, Tomijchi Murayama, là vị thủ tướng đầu tiên của Nhật theo đảng Xã hội nhờ vào sự liên minh với đảng Tự do Dân chủ, đã trấn an tôi rằng sự đoàn kết giữa Mỹ và Nhật về vấn đề Bắc Triều Tiên là không có gì lay chuyển. Để tỏ lòng tôn kính Kim Nhật Thành, cuộc hội đàm ở Geneva được hoãn lại một tháng.
Các quyết định quan trọng nhất mà chúng tôi đạt được tại Naples là đóng góp một khoản hỗ trợ trọn gói cho Ukraina và mời nước Nga tham gia vào những buổi họp chính trị trong tất cả các lần họp thượng đỉnh tương lai. Đưa nước Nga vào nhóm các quốc gia đầy thanh thế này tạo điều kiện cho Yeltsin và các nhà cải cách khác ở Nga có một sức đẩy mạnh mẽ để thắt chặt hơn nữa các mối quan hệ với phương Tây, đảm bảo cho các cuộc họp trong tương lai trở nên phong phú hơn. Yeltsin lúc nào cũng hoan nghênh sự hội nhập này.
Chelsea, Hillary và tôi rất yêu mến thành phố Naples và sau những cuộc họp, chúng tôi đã bỏ ra một ngày để đến thăm Pompeii; đây là nơi người Ý đã làm được một điều kỳ diệu là bốc đi cầc lớp tro bụi đã chôn vùi thành phố cổ này vào năm 79 sau công nguyên. Chúng tôi được thấy các bức tranh đầy màu sắc trên các bức tường giữ lại được các nội dung phong phú, kể cả những bức tranh mang nội dung chính trị của thế kỷ thứ nhất sau công nguyên; những cửa hàng ăn ngoài trời là tiền thân của các nhà hàng thức ăn nhanh hiện nay; và nhiều di hài được lớp tro núi lửa bảo quản lại, trong đó có một người đang ở tư thế che mặt người vợ đang có bầu, cùng với hai người con khác bên cạnh họ. Đây là một sự nhắc nhở mạnh mẽ về tính chất mong manh và phù du của cuộc sống.
Chuyến công tác châu Âu được kết thúc tại Đức. Thủ tướng Helmut Kohl mời chúng tôi đến thăm thành phố quê hương của ông là Ludwigshafen, trước khi tôi bay đến Căn cứ Không quân Ramstein để gặp binh lính của chúng ta; rất nhiều người trong số họ sẽ sớm rời quân ngũ trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh. Các nam và nữ binh sĩ tại Ramstein, cũng như các đồng nghiệp của họ đang phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ mà tôi được gặp tại Naples, chỉ đặt với tôi một vấn đề mà họ quan tâm ở tại quê nhà: việc chăm sóc sức khỏe. Hầu hết họ đều có con, và khi ở trong quân đội, việc chăm sóc được quân đội đảm bảo. Bây giờ khi mà công tác quốc phòng không còn đóng một vai trò quan trọng nữa, thì khi trở về quê hương, ai sẽ lo về sức khỏe cho con cái của họ.
Thành phố Berlin đang có một sự bùng nổ về mặt xây dựng, cần cẩu mọc lên khắp nơi, và đang chuẩn bị lấy lại vai trò của nó là thủ đô của một nước Đức thống nhất. Hillary và tôi cùng với ông bà Kohl rời khỏi Tòa nhà quốc hội (Reichstag) đi dọc theo con đường mà Bức tường Berlin từng được xây dựng và bước ngang qua cổng Brandenburg tuyệt đẹp. Các Tổng thống Kennedy và Reagan đã có những bài phát biểu rất nổi tiếng bên ngoài cổng trên phần đất phía tây của bức tường này. Bây giờ tôi đang đứng trên một cái bục bên phần phía đông của thành phô Berlin thống nhất, trước mặt là một đám đông khoảng 50.000 người Đức rất phấn khởi; rất nhiều người là thanh niên trẻ đang nhìn về tương lai trong một thế giới rất khác thế giới mà cha mẹ họ đã trải qua.
Tôi động viên người Đức nên lãnh đạo châu Âu tiến đến một sự thông nhât to lớn hơn. Tôi hứa với ho bằng tiếng Đức rằng nếu họ làm như vậy, "Amerika steht an Ihrer Seite jetzt und fur immer". (Hoa Kỳ sẽ luôn ở bên cạnh họ, bây giờ và mãi mãi), cổng Brandeburg đã từ lâu trở thành biểu tượng của thời đại mà nó chứng kiến, đôi lúc là biểu tượng của một thể chế độc tài, một cuộc chinh phục, nhưng bây giờ chính là một biểu tượng mà những người xây dựng ra nó đã mong mỏi, đó là một chiếc cổng đi vào tương lai.
Khi trở về nhà, công tác đối ngoại được tiếp tục thực hiện. Cuộc đàn áp gia tăng ở Haiti dẫn đến một đợt di tản mới của các thuyền nhân cũng như việc ngưng toàn bộ các chuyến bay thương mại. Vào cuối tháng, Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc thông qua cho phép một hành động quân sự để đánh đổ chế độ độc tài; một hành động mà ngày càng cho thấy là không thể tránh được.
Vào ngày 22 tháng 7, tôi thông báo gia tăng mạnh mẽ sự giúp đỡ khẩn cấp cho người tị nạn Rwanda, bằng việc chỉ đạo không lực Hoa Kỳ thiết lập một căn cứ tại Uganda nhằm thực hiện 24/24 giờ các chuyến bay cứu trợ đến các trại tị nạn cho một số lượng đông khủng khiếp những người tị nạn tại biên giới Rwanda. Tôi cũng chỉ đạo quân đội thiết lập một đường tiếp tế nước sạch nhằm phân phối càng nhiều nước càng tốt ở những nơi có nguy cơ bệnh dịch tả và những loại bệnh tật khác. Tôi cũng thông báo Hoa Kỳ sẽ cung cấp 20 triệu gói thuốc tái Hydrat-hóa (để chữa bệnh tiêu chảy) trong vòng hai ngày tới để ngăn chặn bệnh dịch tả bùng phát. Chỉ trong vòng một tuần, chúng tôi đã chuyển đến hơn 1.300 tấn lương thực, thuôc men, và những mặt hàng trợ giúp khác. Chúng tôi cũng phân phối 100.000 gallon nước sạch trong một ngày. Để hoàn thành một khối lượng công tác lớn như vậy, 4000 binh lính đã được huy động và phải chi tiêu hết 500 triệu đôla, nhưng việc làm này đã cứu được rất nhiều sinh mạng, mặc dù nó chỉ được thực hiện sau khi cuộc thảm sát đã xảy ra.
Vào ngày 25 tháng 7, Vua Hussein và Thủ tướng Rabin đến Washington để ký vào bản Tuyên ngôn Washington, chính thức chấm dứt tình trạng chiến tranh giữa Jordan và Israel và bắt đầu những cuộc thương lượng để đi đến một nền hòa bình lâu dài. Trước đó, họ đã vài lần bí mật tiếp xúc với nhau và Ngoại trưởng Warren Christopher đã phải làm việc cật lực để tạo điều kiện hoàn thành được bản thỏa thuận. Ngày hôm sau, hai nhà lãnh đạo này đến phát biểu trước lưỡng viện quốc hội, cả ba chúng tôi cùng tổ chức một cuộc họp báo để tái khẳng định sự cam kết của chúng tôi cho một nền hòa bình toàn diện bao gồm tất cả mọi phe phái trong cuộc tranh chấp Trung Đông.
Thỏa thuận giữa Isarel và Jordan đi ngược lại hoàn toàn với những cuộc tấn công khủng bố chống lại các trung tâm của người Do Thái tại Buenos Aires, Panama và London. Hezbollah được cho là phải chịu trách nhiệm cho tất cả những cuộc tấn công kể trên. Hezbollah được Iran vũ trang và được Syria giúp đỡ trong việc tiến hành những cuộc tấn công chống Israel trong vùng nam Libăng. Khi quá trình đàm phán hòa bình không thể kết thúc được giữa Israel và Syria, các hoạt động của Hezbollah tạo ra một trở ngại rất nghiêm trọng. Tôi đã gọi cho Tổng thống Assad để thông báo cho ông biết về thông cáo chung giữa Israel và Jordan, yêu cầu ông ủng hộ thỏa thuận này, và tôi cũng đảm bảo với ông là Israel và Hoa Kỳ vẫn quan tâm đến những cuộc thương lượng đi đến thành công với đất nước của ông. Thủ tướng Rabin vẫn để ngỏ những cuộc thương lượng với Syria bằng cách nói rằng Syria có thể hạn chế chứ không thể nào làm chấm dứt được các hoạt động của Hezbollah. Vua Hussein trả lời không những Syria mà cả toàn khối Ảrập nên theo gương Syria để giảng hòa với Israel.
Tôi kết thúc cuộc họp báo bằng cách nói rằng cả Vua Hussein và Thủ tướng Rabin phải cùng nhau làm cho "Hòa bình được phấp phới khắp nơi trên thế giới". Boris Yeltsin vừa thông báo cho chúng tôi biết là ông cùng Tổng thống Meri đã thống nhất để toàn bộ quân đội Nga rút ra khỏi Estonia vào ngày 31 tháng 8.
Vào tháng 8, thời tiết trở nên rất nóng ở Washington và thường là quốc hội hay đi nghỉ vào thời gian này. Vào năm 1994, quốc hội gần như vẫn họp đủ tháng để thảo luận về các vấn đề tội ác và chăm sóc y tế. Cả thượng và hạ nghị viện đã thông qua đạo luật chống tội ác, tạo điều kiện cho việc tuyển thêm 100.000 cảnh sát, với những qui định về sự trừng phạt nặng nề hơn đối với người tái phạm tội, cung cấp ngân sách để xây dựng thêm nhà tù, và các chương trình ngăn chặn thanh thiếu niên phạm tội.
Khi ủy ban nghị sự họp để giải quyết các sự khác biệt giữa thượng và hạ nghị viện về đạo luật chống tội ác, các nhà lập pháp của đảng Dân chủ đã đưa qui định cấm sử dụng vũ khí tấn công vào đạo luật dung hòa. Như tôi đã nói, việc cấm này được hạ viện thông qua như một đạo luật riêng biệt chỉ với cách biệt hai phiếu, trước sự chống đối quyết liệt Hiệp hội Súng trường Quốc gia (NRA). NRA đã gần như bị đánh bại trong cuộc chiến để ngăn chặn đạo luật Brady và họ quyết tâm để giành thắng lợi với lần thông qua đạo luật này, để người Mỹ có thể giữ lại quyền để "giữ và mang" các loại vũ khí với băng đạn dài mang nhiều đạn chỉ với một mục đích: giết nhiều người trong trường hợp khẩn cấp. Khi các loại vũ khí này được sử dụng; các nạn nhân bị bắn với loại vũ khí này có khả năng ba lần dễ chết hơn các nạn nhân bị những kẻ tấn công bắn bằng loại súng ngắn bình thường.
Hội nghị quyết định đưa luật cấm sử dụng vũ khí này lồng vào đạo luật chống tội ác, vì trong khi chúng tôi có một đa số áp đảo tại thượng viện, nhưng chúng tôi không có đủ 60 phiếu cần thiết để đánh bại sự ngăn cản việc thông qua đạo luật này của những người ủng hộ NRA. Các thành viên quốc hội phe Dân chủ trong cuộc tranh luận đã biết rõ là ngăn cản việc thông qua toàn bộ đạo luật chống tội ác khó hơn nhiều so với việc ngăn cản bộ luật chỉ cấm sử dụng vũ khí. Vấn đề đối với chiến lược vận động là gây sức ép với những thành viên quốc hội của dảng Dân chủ từ những khu nông thôn ủng hộ việc sử dụng súng bỏ phiếu một lần nữa để thông qua đạo luật cấm sử dụng loại súng trường tấn công, làm gia tăng sự rủi ro của việc đạo luật sẽ bị đánh bại, và làm cho các nghị sĩ có nguy cơ sẽ bị thất cử nếu họ bỏ phiếu ủng hộ luật này.
Vào ngày 11 tháng 8, hạ nghị viện đã đánh bại đạo luật chống tội ác mới, với sô phiếu 225- 210 trong một cuộc bỏ phiếu, với 58 nghị sĩ Dân chủ bỏ phiếu chống lại dự luật này và chỉ có 11 nghị sĩ Cộng hòa ủng hộ nó. Một số ít nghị sĩ Dân chủ bỏ phiếu chống là những người theo khuynh hướng tự do chống lại việc mở rộng việc áp dụng án tử hình, nhưng hầu hết các nghị sĩ Dân chủ bỏ phiếu chống vì họ chống đối nhóm NRA. Một nhóm quan trọng các nhà lập pháp Cộng hòa nói rằng họ muốn ủng hộ dự luật này, kể cả việc cấm sử dụng các loại súng tấn công, nhưng họ nghĩ dự luật này đòi hỏi quá nhiều chi phí, đặc biệt trong các chương trình phòng chống tội ác. Chúng tôi đang gặp khó khăn trong việc thực hiện một trong các lời hứa quan trọng nhât của chúng tôi khi vận động tranh cử, và tôi phải làm một cái gì đó để mà xoay chuyển tình hình.
Ngày hôm sau, trước Hiệp hội quốc gia các sĩ quan cảnh sát tại Minneapolis, cùng với các thị trưởng thành phố New York Rudy Giuliani và Philadelphia Ed Rendell, tôi cố gắng phân tích phải có một sự lựa chọn một bên là luật pháp của cảnh sát và người dân còn một bên là luật pháp dành cho Hiệp hội NRA và những người khác. Chắc chắn là chúng ta không thể nào để xảy ra tình trạng các vị nghị sĩ cố giữ ghế của họ tại quốc hội nhưng mặt khác lại đẩy dân chúng và các cảnh sát Hoa Kỳ vào tình trạng nguy hiểm.
Ba ngày sau, tại một buổi lễ ở Vườn Hồng, vấn đề này lại được nhấn mạnh khi vợ của ông Steve Sposato, một nhà kinh doanh thuộc đảng Cộng hòa bị giết chết bởi một người đàn ông loạn trí sử dụng súng tấn công bắn bừa vào văn phòng nơi bà làm việc tại San Francisco. Spọsato dắt theo cô con gái, Megan đưa ra một lời kêu gọi quyết liệt cấm sử dụng các loại súng tấn công.
Vào cuối tháng, dự luật chống tội ác lại được đưa ra biểu quyết một lần nữa. Không giống như dự luật vế chăm sóc y tế, chúng tôi làm việc về dự luật chống tội ác bằng các cuộc thảo luận tay đôi. Lần này thì chúng tôi thắng, tỷ lệ 235-195, nhờ vào việc vận động thành công 20 nghị sĩ Cộng hòa bằng cách phải cắt đi một phần quan trọng chi phí của đạo luật. Một số nghị sĩ Dân chủ theo khuynh hướng cấp tiến đã bị thuyết phục để thay đổi lập trường của họ trong việc bỏ phiếu ủng hộ các chương trình ngăn chặn tội ác của đạo luật, và một số nghị sĩ Dân chủ từ những khu vực ủng hộ sử dụng súng, đã xuất đầu lộ diện. Bốn ngày sau, Thượng nghị sĩ Joe Biden bảo trợ đạo luật chống tội ác tại thượng viện, và được thông qua với tỷ lệ 61-38, nhờ vào lá phiếu của sáu nghị sĩ đảng Cộng hòa đánh bại ý đồ ngăn cản việc thông qua đạo luật này. Đạo luật chống tội ác đã có một ảnh hưởng rất sâu sắc, tạo điều kiện làm giảm đi nhanh chóng số vụ phạm pháp hình sự.
Ngay trước khi bỏ phiếu tại hạ viện, chủ tịch hạ nghị viện Tom Foley và người đứng đầu khối đa số Dick Gephardt còn đưa ra một lời kêu gọi cuối cùng muốn ngăn cản dự luật là đưa việc cấm sử dụng súng tấn công ra khỏi dự luật. Họ lý luận rằng nhiều nhà lập pháp Dân chủ đại diện cho các khu vực bị chia rẽ trẫm trọng rất khó có thể bỏ phiếu được cho các chương trình phát triển kinh tế, và chính họ cũng đã từng một lần thách thức NRA qua cuộc bầu phiếu về đạo luật Brady. Họ cho rằng nếu chúng ta không bỏ lại việc cấm sử dụng vũ khí tấn công một lần nữa, toàn bộ dự luật có thể sẽ không được thông qua, và nếu như nó được thông qua, rất nhiều, thì các nghị sĩ đã thông qua nó sẽ không thể tái đắc cử trong cuộc tuyển cử vào tháng 11. Jack Brooks, dân biểu bang Texas, Chủ tịch ủy ban Tư pháp Hạ viện, cũng nói với tôi như vậy. Ông Brooks đã vào hạ nghị viện từ hơn 40 năm nay và là một trong các dân biểu rất ủng hộ tôi. Ông là một người đại diện cho một khu vực bầu cử có rất nhiều thành viên của NRA và là người lãnh đạo những cố gắng chống lại việc thông qua dự luật ngăn cấm việc sử dụng súng tấn công khi nó được đưa ra biểu quyết. Jack thực sự nghĩ nếu chúng tôi không bỏ dự luật ngăn cấm này, NRA sẽ đánh bại rất nhiều đảng viên đảng Dân chủ bằng cách xách động và hù dọa những người có sở hữu loại súng tấn công này.
Tôi rất phiền về những gì Foley, Gephardt và Brooks đã nói, nhưng tôi tin những người ủng hộ chúng tôi sẽ thắng trong cuộc tranh luận với NRA về vấn đề này ở hậu trường. Dale Bumpers và David Pryor biết cách để giải thích về quyết định của lá phiếu đối với những công dân bang Arkansas. Thượng nghị sĩ Howell Heflin của bang Alabama, một người mà tôi đã biết gần 20 năm nay, đã có một sự giải thích tuyệt vời về việc ủng hộ cho đạo luật chống tội ác. Ồng nói ông chưa bao giờ bỏ phiếu ủng hộ việc cấm sử dụng vũ khí, nhưng luật chống tội ác chỉ ngăn cấm sử dụng 19 loại súng tấn công, và không biết ai là người sở hữu những loại súng kể trên. Mặt khác, đạo luật tuyệt đối ngăn cấm việc hạn chế sở hữu hàng trăm loại vũ khí khác, kể cả "tất cả những loại vũ khí mà tôi đã quen thuộc".
Đây là một luận điểm rất thuyết phục, nhưng không phải mọi người có thể phát biểu như ông Howell Heflin. Foley, Gephardt và Brooks đã nói đúng và tôi đã sai. Họ đã phải trả giá rất đắt cho việc họ đã ủng hộ cho một nước Mỹ an toàn hơn bằng việc thông qua luật chống tội ác.
Có thể tôi đã gây một sức ép quá lớn lên quốc hội, đất nước, và cả chính phủ. Tại cuộc họp báo tổ chức vào ngày 19 tháng 8, một phóng viên đã đặt ra một câu hỏi rất sâu sắc với tôi: "Tôi rất lấy làm ngạc nhiên không biết ông có suy nghĩ như thê này không, với tư cách là một tổng thống được bầu lên với tỷ lệ 43%, có thể ông đã đi quá xa, quá nhanh... vượt quá quyền lực được trao cho ông", bằng việc gây sức ép thông qua rất nhiều đạo luật với một sự ủng hộ của một số rất nhỏ các thành viên của đảng Cộng hòa. Cho dù chúng ta đã làm được rất nhiều việc, tôi cũng rất lấy làm ngạc nhiên. Tôi không nghi là việc này sẽ tiếp tục kéo dài.
Trong khi chúng tôi thắng ở đạo luật chống tội ác, chúng tôi lại tiếp tục thua ở đạo luật về chăm sóc sức khỏe. Vào đầu tháng 8, George Mitchell đã đệ trình quốc hội một đạo luật dung hòa để gia tăng tỷ lệ dân số được bảo hiểm lên đến 95% mà không cần đến hợp đồng của người sử dụng lao động, mở đường cho việc áp đặt một đạo luật cho phép 100% dân chúng được bảo hiểm y tế, nếu các thủ tục tự nguyện của đạo luật này không được thành công khi đi vào thực tế. Vào ngày hôm sau, tôi thông báo ủng hộ dự luật của ông Mitchell, và chúng tôi đem ra tham khảo các thành viên ôn hòa của đảng Cộng hòa, nhưng việc làm này đã trở nên vô ích. Nghị sĩ Dole tỏ ra quyết tâm đánh bại bất cứ một sự cải cách nào có ý nghĩa; chính trị đúng là như thế. Vào ngày đạo luật chống tội ác được thông qua, thượng viện đã nhượng bộ trong vòng hai tuần bằng cách không có thêm một động thái chổng đạo luật về chăm sóc sức khỏe. Dole đã thất bại trong việc đánh bại dự luật chống tội ác, nhưng ông ta đã thắng lợi trong việc bác bỏ luật về chăm sóc sức khỏe.
Một diễn biến quan trọng khác vào tháng 8, vẫn là vụ Whitewater, đang tiếp diễn. Sau khi tôi đã ký ban hành Quy chế công tố viên độc lập, Chánh án Tòa án tối cao Rehnquist chỉ định thẩm phán David Sentelle đứng đầu ủy ban đặc biệt có trách nhiệm bổ nhiệm các công tố viên độc lập theo quy định mới của pháp luật. Sentelle là một nhân vật cực kỳ bảo thủ được Thượng nghị sĩ Jesse Helms bảo trợ, là một người công khai chỉ trích ảnh hưởng của "những kẻ dị giáo cánh tả" muốn biến nước Mỹ trở thành một "quốc gia tập thể, theo chủ nghĩa bình quân, duy vật, mang ý thức sắc tộc, với một tư tưởng thế tục thái quá, và xã hội buông thả. Ủy ban đặc biệt gồm ba người cũng có một nhân vật bảo thủ khác, cho nên Sentelle có thể làm tất cả những gì ông ta muốn.
Vào ngày 5 tháng 8, Ủy ban đặc biệt của Sentelle đã bãi nhiệm Robert Fiske và thay thế ông này bằng Kenneth Starr, người từng là thẩm phán Tòa phúc thẩm và cố vấn luật pháp chính của chính phủ Tổng thống Bush cha. Không như Fiske, Starr không có kinh nghiệm công tố, nhưng ông ta có một cái khác quan trọng hơn: ông ta là một người có đầu óc bảo thủ hơn và trung thành với đảng hơn. Trong một lời phát biểu ngắn gọn, thẩm phán Sentelle nói là ông đã thay thế Fiske bằng Starr để đảm bảo "tính độc lập" của ngành tư pháp, một thử thách mà Fiske không thể làm tròn được vì ông này có "những mối quan hệ với chính phủ đương nhiệm". Đúng là một lý lẽ vô lý. Fiske là một người của đảng Cộng hòa được Bộ trưởng Tư pháp Janet Reno đề cử vào một chức vụ mà ông ta không hề muốn có. Nếu Fiske được ủy ban đặc biệt tái bổ nhiệm, thì chắc chắn sẽ không còn một mối quan hệ nào nữa.
Để thay chỗ của Fiske, ủy ban đặc biệt của thẩm phán Sentelle đã bổ nhiệm một người có sự xung đột về quyền lợi không chỉ rõ ràng mà còn cực kỳ lớn là đằng khác. Starr đã là người công khai đề xuất vụ kiện tụng của Paula Jones tố cáo tôi có những hành động quấy rối tình dục. Ông ta đã xuất hiện trên truyền hình và thậm chí đã viết một bản tóm tắt hồ sơ vụ kiện nhân danh cô ta. Ba cựu chủ tịch Hiệp hội luật gia Mỹ lên tiếng phê phán việc bổ nhiệm Starr vì những thiên kiến về mặt chính trị quá rõ ràng. Tờ New York Times cũng chỉ trích sự việc này sau khi có bằng chứng rõ ràng là thẩm phán Sentelle đã dùng cơm trưa với người chỉ trích Fiske nặng nề nhất là các thượng nghị sĩ Lauch Faircloth và Jesse Helms khoảng hai tuần trước khi việc thay đổi chức vụ này diễn ra. Cả ba vị này đều nói rằng họ đã thảo luận về vấn đề kín.
Tất nhiên là Starr không có ý định đứng sang một bên. Định kiến của ông ta chính là lý do rõ ràng để ông ta được bổ nhiệm vào chức vụ này và tại sao ông ta lại nhận nhiệm vụ đó. Vào lúc này thì chúng ta đã có một định nghĩa rất kỳ quặc về thế nào là một công tố viên "độc lập": người đó phải là một người độc lập đối với tôi, nhưng rất là gắn bó với các đối thủ chính, trị và pháp lý của tôi.
Việc bổ nhiệm Starr là một sự việc vô tiền khoáng hậu. Trong quá khứ, đã có những cô gắng để đảm bảo các công tố viên đặc biệt không những được độc lập mà còn thẳng thắn và rất được tổng thống nể phục. Leon Jaworski, công tố viên đặc biệt trong vụ án Watergate, là một đảng viên Dân chủ theo khuynh hướng bảo thủ đã ủng hộ Tổng thống Nixon trong cuộc bầu cử năm 1972. Laurence Walsh, công tố viên trong vụ án Iran-Contra, là một đảng viên đảng Cộng hòa của bang Oklahoma từng ủng hộ Tổng thống Reagan. Tôi không bao giờ muốn cuộc điều tra của vụ Whitewater biến thành một "trò chơi xử lý nội bộ" theo cách nói của Doug Sosnik, nhưng tôi cho là ít nhất tôi cũng phải được điều tra từ một quan điểm trung lập. Sự thực đã không diễn ra được như vậy. Chính vì Whitewater không có vấn đề gì, nên cách duy nhất để vận dụng cuộc điều tra nhằm mục đích chống lại tôi là biến nó trở thành một "trận đấu trên sân khách" lê thê. Robert Fiske đã hành động quá trung thực và quá nhanh. Ông ta phải ra đi thôi.
Không đầy một tuần sau khi Starr được bổ nhiệm, Lloyd Cutler cũng rời khỏi nhiệm vụ, sau khi đã làm xong lời hứa là phục vụ hết mình trong một thời gian ngắn tại văn phòng luật sư. Tôi bổ nhiệm Abner Mikva, một cựu nghị sĩ bang Illinois và là một thẩm phán Tòa phúc thẩm thay thế Lloyd với một uy tín tuyệt vời cùng với một cách nhìn rõ ràng về các thế lực mà chúng tôi phải đối đầu. Tôi rất lấy làm hối tiếc là sau một sự nghiệp lâu năm và rất thành công, Lloyd đã phải nhận ra rằng những con người mà ông được biết và tin tưởng đã sử dụng các quy tắc hoàn toàn khác với những quy tắc của ông.
Khi quốc hội tạm nghỉ, chúng tôi lại bay đến Vườn nho Martha. Hillary cần một thời gian để nghỉ ngơi. Al Gore cũng thế. Trước đó vài ngày, Al bị đứt dây chằng Achilles trong một trận đấu bóng rổ. Đây là một chấn thương rất đau đớn, đòi hỏi một sự nghỉ ngơi kéo dài. Khi bình phục, Al trở nên mạnh mẽ hơn trước. Anh ấy đã tận dụng thời gian phải nghỉ bất động để tập tạ. Trong khi đó, di chuyển bằng đôi nạng, anh ấy đã đi qua 40 tiểu bang và bốn quốc gia, kể cả Ai Cập, nơi anh làm trung gian cho một sự thống nhất dung hòa về một vấn đề nhạy cảm là kiểm soát dân số tại Hội nghị Cairo bàn về sự phát triển bền vững. Anh ấy cũng tiếp tục giám sát Chương trình Sáng kiến Cải cách Chính phủ. Vào giữa tháng 9, chúng tôi đã tiết kiệm được 47 tỷ đôla, đủ để tài trợ cho toàn bộ đạo luật chống tội ác; cùng các nhà sản xuất xe ô tô bắt đầu một chương trình mang nhiều tính cạnh tranh là phát triển một loại xe "nhiên liệu sạch"; cắt giảm thủ tục xin vay để phát triển Doanh nghiệp nhỏ (SBA) từ 100 trang xuống còn chỉ một trang; cải tổ Cơ quan liên bang xử lý tình trạng khẩn cấp (FEMA) để nó từ là một cơ quan liên bang ít người biết đến nhất trở thành một cơ quan được nhiều người nể phục nhất, nhờ vào sự cống hiến của James Lee Witt; và đã tiết kiệm được hơn một tỷ đôla bằng việc hủy bỏ các kế hoạch xây dựng không cần thiết dưới sự lãnh đạo của Roger Johnson tại Cơ quan tổng quản lý các dịch vụ. Al Gore đã làm được rất nhiều việc với việc đi lại chỉ bằng một chân.
Một tuần lễ nghỉ ngơi tại Vườn nho Martha trở nên rất hấp dẫn vì nhiều lý do. Vernon Jordan đã sắp xếp một trận chơi golf với Warren Buffett và Bill Gates, những người giàu nhất Hoa Kỳ. Tôi rất quí cả hai, và đặc biệt là rất có ấn tượng với Buffett, là một đảng viên Dân chủ rất trung kiên luôn luôn tin vào quyền con người, chính sách thuế má công bằng, và quyền được lựa chọn của phụ nữ.
Buổi tối đáng nhớ nhất đối với tôi là buổi ăn tối tại nhà của Bill và Rose Styron với các vị khách danh dự là Nhà văn Mexico Carlos Fuentes và vị anh hùng văn học của tôi, Gabriel García Marquez. García Marquez là bạn của Fidel Castro. Castro trong một cố gắng để đẩy các rắc rối của mình sang Mỹ đã gây nên những đợt di tản hàng loạt của những người Cuba vào đất Mỹ, gây ra cho tôi rất nhiều vấn đề trong những năm 1980. Hàng nghìn người Cuba, bất chấp tính mạng, đã ra đi trên những chiếc thuyền và bè nhỏ vượt đường biển dài 90 hải lý đến bang Florida.
García Marquez chống lại cuộc cấm vận của Hoa Kỳ đối với Cuba và đã cố gắng đặt vấn đề này với tôi. Tôi cho Marquez biết là tôi sẽ không bãi bỏ cuộc cấm vận, nhưng tôi ủng hộ Đạo luật Dân chủ cho Cuba. Đạo luật này cho phép tổng thống quyền được cải thiện quan hệ với Cuba để đổi lại có những bước tiến lớn đi đến tự do và dân chủ trên đảo quốc này. Tôi cũng nhờ ông ta chuyển đến Fidel Castro rằng nếu đợt di tản của người Cuba còn tiếp tục, sẽ có một phản ứng từ Hoa Kỳ khác với phản ứng vào năm 1980 từ Tổng thống Carter. Tôi nói: "Castro đã làm cho tôi phải trả giá bằng một cuộc bầu cử". "Ông ây không thể làm lại lần thứ hai". Tôi cũng đã gửi lại cùng lời nhắn này thông qua Tổng thống Mexico Salinas. Không lâu sau, Hoa Kỳ và Cuba đạt đến một thỏa thuận, qua đó Castro cam kết ngăn chặn di tản, và chúng ta hứa sẽ nhận thêm 20.000 người Cuba mỗi năm thông qua tiến trình thông thường. Castro đã giữ đúng lời cam kết này cho đến hết nhiệm kỳ của tôi. Sau này, García Marquez nói đùa rằng, ông ta là con người duy nhất vừa là bạn của cả Castro và Bill Clinton.
Sau khi nói chuyên về Cuba, García Marquez đã đặt sự quan tâm của mình đến Chelsea. Con gái tôi nói đã đọc hai trong số các cuốn sách của ông. Ông ta nói với tôi là ông không tin một cô gái 14 tuổi có thể hiểu được các tác phẩm của mình. Vì vậy ông đã lao vào một cuộc thảo luận sôi nổi với con gái tôi về cuốn Trăm năm cô đơn. Ông ta rất có ấn tượng với cuộc thảo luận này, nên sau đó, ông đã gửi cho Chelsea một tập toàn bộ các tiểu thuyết của mình.
Công việc làm duy nhất mà tôi thực hiện khi nghỉ hè có liên hệ đến Ireland. Tôi đồng ý cấp visa cho Joe Cahill, một người anh hùng Cộng hòa Ireland, 76 tuổi. Năm 1973, Cahill đã bị kết án vì buôn lậu súng ở Ireland, và ông ta tiếp tục đẩy mạnh việc sử dụng bạo lực nhiều năm sau. Tôi đồng ý cấp visa cho ông vì vào lúc này ông ta muốn tiếp xúc với những người ủng hộ IRA ở Mỹ để thiết lập một nền hòa bình, như là một phần để tạo ra một sự hiểu biết lẫn nhau, và qua đó cuối cùng, IRA sẽ thông báo một cuộc đình chiến. Cahill đến Hoa Kỳ vào ngày 30 tháng 8, và ngày hôm sau tổ chức IRA, sau một thời gian chờ đợi rất lâu, tuyên bố ngưng bắn, mở đường cho Sinn Fein tham gia vào các cuộc đàm phán hòa bình. Đây là một thắng lợi cho Gerry Adams và chính phủ Ireland.
Khi chúng tôi nghỉ hè trở về, chúng tôi chuyển đến tạm trú tại nhà khách Blair House, là nhà khách của Chính phủ Hoa Kỳ, trong ba tuần lễ, trong thời gian mà hệ thống điều hòa nhiệt độ của Nhà Trắng được sửa chữa. Một cuộc sửa chữa toàn diện, phục chế từng viên gạch một mặt bên ngoài của tòa nhà được xây gần 200 năm, được bắt đầu từ thời Tổng thống Reagan, vẫn còn đang tiếp diễn. Một phần của Nhà Trắng được bao quanh bởi hệ thống giàn giáo trong suốt nhiệm kỳ đầu của tôi.
Gia đình chúng tôi luôn luôn rất thích thú với những lần đến ở Blair House, và lần đến cư ngụ tạm ở đây cũng không phải là một ngoại lệ, cho dù nó làm cho chúng tôi phải mất một số thời gian để băng qua bên kia đường. Vào ngày 12 tháng 9, một người đàn ông say xỉn vì chán đời đã lái một chiếc máy bay nhỏ bay về hướng trung tâm Washington và Nhà Trắng. Có thể anh ta dự tính tự sát bằng cách đâm vào Nhà Trắng, hoặc là đáp xuống Bãi cỏ phía Nam, tương tự như một phi công trẻ người Đức đã đáp xuống Quảng trường đỏ ở Moscow trước đó vài năm. Nhưng không may là chiếc máy bay Cessna của anh đã chạm đất quá trễ, nảy bật lên hàng irào, phía dưới một cây hoa mộc lan khổng lồ nằm bên phía tây của cổng vào, rồi sau đó va đập vào khối nền bằng đá của Nhà Trắng, làm cho anh ta chết ngay lập tức. Vài năm sau, một người đàn ông có vấn đề về tâm thần đã nhảy qua hàng rào cây xanh với một khẩu súng ngắn trong tay trước khi các thành viên mặc sắc phục của cơ quan Mật vụ bắn bị thương và bắt giữ. Ngoài những người có tham vọng về mặt chính trị ra, Nhà Trắng cũng vẫn là một thỏi nam'châm có sức hút nhiều loại người khác nữa.
Cuộc khủng hoảng ở Haiti lên đến đỉnh cao vào tháng 9. Tướng Cedras cùng với những tay côn đồ hung hãn của ông ta gia tăng việc cai trị bằng khủng bố, xử tử trẻ em mồ côi, cưỡng hiếp những em gái nhỏ, giết chết những người tu hành, chặt chân tay thường dân và công khai phơi bày những phần thân thể này để khủng bố tinh thần dân chúng, rạch mặt các bà mẹ bằng dao mác trước chứng kiến của con cái họ. Vào lúc đó, đã hai năm tôi tìm kiếm một giải pháp hòa bình, và tôi đã quá mệt mỏi với việc này. Hơn một năm trước, Cedras đã ký vào một bản thỏa thuận đồng ý từ bỏ quyền hành, nhưng khi đến ngày giờ đúng hẹn để ra đi, thì ông ta chỉ có một động thái đơn giản là từ chối giao lại quyền hành.
Đã đến lúc phải bứng ông ta đi thôi, nhưng dư luận trong quần chúng và tại quốc hội chống đối mãnh liệt biện pháp này. Cho dù tôi được sự ủng hộ của nhóm Họp kín đen và các thượng nghị sĩ Tom Harkin và Chris Dodd, các thành viên của đảng Cộng hòa chống đối mạnh mẽ, và hầu hết các thành viên của đảng Dân chủ, kể cả George Mitchell lo rằng tôi đang đẩy họ xuống một vực thẳm khác mà không được sự ủng hộ của dân chúng hoặc sự cho phép của quốc hội. Thậm chí trong chính phủ cũng có sự chia rẽ. Al Gore, Warren Christopher, Bill Gray, Tony Lake, và Sandy Berger ủng hộ hành động này. Bill Berry và Lầu năm góc không ủng hộ nó, nhưng họ vẫn lên phương án xâm chiếm trong trường hợp tôi ra lệnh cho họ tiến hành.
Tôi cho rằng chúng ta phải ra tay. Người dân vô tội đang bị tàn sát ngay tại sân sau của chúng ta, và chúng ta đã phải chi một số tiền để lo cho những người tị nạn Haiti. Liên hiệp quốc đã nhất trí hoàn toàn trong việc ủng hộ việc lật đổ Cedras.
Vào ngày 16 tháng 9, trong cố gắng lần cuối để tránh một cuộc xâm lược, tôi gửi Tổng thống Carter, Colin Powell, và Sam Nunn đến Haiti để tìm cách thuyết phục tướng Cedras và những người ủng hộ ông ta trong quân đội cũng như quốc hội chấp nhận việc trở lại của Aristide trong hòa bình cùng với việc Cedras rời khỏi Haiti. Vì những lý do khác nhau, tất cả những vị trên đều không thống nhất với lập trường kiên quyết của tôi sử dụng vũ lực để đưa Aristide trở lại cầm quyền. Cho dù Trung tâm Carter đã giám sát và ghi nhận thắng lợi áp đảo của Aristide trong cuộc tuyển cử, Tổng thống Carter có quan hệ với Cedras và tỏ vẻ nghi ngừ sự gắn bó của Aristide đối với nền dân chủ. Nunn thì phản đối sự trở lại của Aristide cho đến khi nào các cuộc bầu cử quốc hội được diễn ra, vì ông không tin Aristide sẽ báo vệ quyền của những người thiểu số nếu không có được các lực lượng đối lập để cân bằng ở quốc hội. Còn Powell cho rằng chỉ có quân đội và cảnh sát mới có thể cầm quyền được tại Haiti, và do đó các lực lượng sẽ không bao giờ cộng tác với Aristide được.
Các sự kiện diễn biến sau đó chứng minh các luận điểm của họ cũng có cơ sở. Haiti bị phân chia một cách sâu sắc về mặt kinh tế và chính trị, không có được những kinh nghiệm về nền dân chủ, không có một tầng lớp trung lưu đủ mạnh, và khả năng điều hành các định chế chính trị còn rất kém. Cho dù Aristide có trở lại đúng như kế hoạch, không có gì cản trở, ông ta cũng không thể thành công được. Ông đã được đắc cử với một số phiếu áp đảo, và Cedras cùng với bè cánh vẫn đang giết người dân vô tội. ít nhât, chúng ta có thể ngăn chặn được việc này.
Cho dù có những sự dè dặt, nhưng ba vị chính khách rất uy tín trên vẫn hứa sẽ truyền đạt chính sách của tôi. Họ chỉ muốn tránh một cuộc can thiệp đầy bạo lực của Hoa Kỳ, có thể làm xấu đi mọi chuyện. Nunn nói chuyện với các thành viên của quốc hội Haiti; Powell thông báo cho các lãnh đạo quân sự Haiti một cách đầy hình ảnh những gì sẽ xảy ra khi Hoa Kỳ mở một cuộc xâm lược; còn Tổng thống Carter làm việc trực tiếp với Cedras.
Ngày hôm sau, tôi đến Lầu năm góc để duyệt lại phương án cuộc tấn công với tướng Shalikashvili và các chỉ huy liên quân, và hội ý bằng vô tuyến với đô đốc Paul David Miller, tổng chỉ huy chiến dịch, và trung tướng Hugh Shelton, chỉ huy trưởng Sư đoàn 18 Không vận, là người sẽ chỉ huy cuộc đổ quân vào đảo quốc này. Kế hoạch xâm lược đòi hỏi một cuộc hành quân phối hợp bao gồm tất cả các binh chủng của quân đội. Hai chiếc hàng không mẫu hạm đã có mặt trong vùng Haiti, một chiếc chở các lực lượng đặc biệt, và chiếc kia chở binh lính của Sư đoàn 10 Sơn cước. Không lực được giao nhiệm vụ yểm trợ từ trên không. Thủy quân lục chiến được phân công đánh chiếm Cap Haitien, thành phố lớn thứ nhì của Haiti. Máy bay chở binh sĩ nhảy dù của Sư đoàn không vận số 82 cất cánh từ Bắc Carolina và thả họ xuống đảo này khi cuộc tấn công bắt đầu. Lực lượng đặc biệt của Hải quân (SEAL) sẽ đến đó trước và trinh sát những vùng đã được chỉ định. Ngay sáng ngày hôm đó, lực lượng này đã tiến hành tập dượt, trồi lên khỏi mặt nước và đổ bộ lên bờ mà không gặp một trở ngại nào. Hầu hết binh lính và trang thiết bị sẽ tiến đến Haiti trong một cuộc hành quân được gọi là "RoRo", viết tắt của các từ "Roll on" (chạy lên tàu), "Roll off" (rời khỏi tàu); Binh lính và xe quân sự sẽ lên tàu đổ bộ lên đường sang Haiti, rồi rời khỏi tàu để bộ lên Haiti. Khi hoàn thành nhiệm vụ, tiến trình lại được làm ngược lại. Bên cạnh các lực lượng quân sự của Mỹ, chúng tôi còn được sự hỗ trợ của 25 nước khác tham gia lực lượng liên minh dưới lá cờ Liên hiệp quốc.
Khi gần đến giờ hành động, Tổng thống Carter gọi cho tôi yêu cầu cho thêm thời gian để thuyết phục Cedras ra đi. Carter rất muốn tránh một cuộc xâm lược. Tôi làm theo lời yêu cầu của ông ấy. Haiti thực ra không có sức mạnh quân sự; cuộc hành quân này chỉ giống như bắt cua trong lỗ mà thôi. Tôi đồng ý gia hạn thêm ba tiếng đồng hồ nữa, nhưng tôi nói rõ cho Carter biết bất cứ một sự thỏa thuận nào với vị tướng này không thể bao gồm một sự trì hoãn việc bàn giao quyền hành cho Aristide. Cedras không thể có thêm thời gian để tàn sát trẻ em, cưỡng hiếp các em gái, và rạch mặt các bà mẹ. Chúng ta đã chi ra 200 triệu đôla để giúp đỡ những người Haiti đã rời bỏ đất nước quê hương họ. Tôi muốn những người này trở về đất nước họ.
Tại Port-au-Prince, khi ba tiếng đồng hồ gia hạn đã quạ đi, một đám đông giận dữ tập hợp bên ngoài tòa nhà, nơi những người Mỹ vẫn còn đang đàm phán. Mỗi lần tôi nói chuyện với Carter, Cedras lại đưa ra một đề nghị mới, tạo cho ông ta được một khoảng thời gian chết để câu giờ và làm chậm trễ sự trở lại của Aristide. Tôi bác bỏ tất cả những đề nghị trên. Với sự nguy hiểm đang rình rập bên ngoài và thời hạn chót cho một cuộc xâm lược đã gần kề, Carter, Powell và Nunn vẫn kiên trì thuyết phục Cedras, nhưng kết quả không được bao nhiêu. Một lần nữa, Carter đề nghị tôi trì hoãn cuộc đổ quân. Tôi đồng ý một lần nữa đến 17 giờ. Các máy bay chở quân nhảy dù theo kế hoạch sẽ bay đến đảo vào lúc 18 giờ ngay sau khi mặt trời lặn. Nếu ba nhân vật người Mỹ vẫn còn ở đó để thương lượng, họ sẽ gặp nhiều sự nguy hiểm từ đám đông tụ tập bên ngoài.
Vào lúc 17 giờ 30, họ vẫn còn ở tại chỗ và đã trong tình trạng nguy hiểm, vì Cedras biết là cuộc hành quân đã bắt đầu. Ông ta có người thám thính tại các đường băng của sân bay Bắc Carolina, khi mà 61 máy bay chở quân nhảy dù cất cánh. Tôi gọi điện cho Tổng thống Carter và yêu cầu ông, Colin và Sam lập tức rời khỏi nơi đó. Cả ba vị ra lời kêu gọi đến người đứng đầu về mặt danh nghĩa của Haiti là ông Tổng thống 81 tuổi Emile Ionassaint. Cuối cùng ông này thông báo với họ là ông chọn hòa bình chứ không phải chiến tranh. Khi tất cả các thành viên trong nội các trừ một người, nhât trí với Tổng thống Jonassaint, cuối cùng Cedras nhượng bộ, không đến một giờ trước khi bầu trời của Port-au-Prince sẽ bị những chiếc dù phủ đầy. Tôi ra lệnh máy bay quay trở về.
Ngày hôm sau, tướng Shelton dẫn đầu một lực lượng đa quốc gia gồm 15.000 quân tiến vào Haiti, mà không phải tốn một phát súng. Shelton có một tướng tá rất ấn tượng. Ông ta cao khoảng l,93m, với một nét mặt rất gây ấn tượng, và giọng lè nhè vùng phía nam nước Mỹ. Cho dù ông ta lớn hơn tôi hai tuổi, ông vẫn thường xuyên nhảy dù với binh lính của mình. Hình dáng to lớn này làm cho người khác có thể suy nghĩ là chính ông ta đã hạ bệ được Cedras. Tôi đã đến thăm tướng Shelton không lâu trước đó ở Fort Bragg, khi một chiếc máy bay quân sự rơi gần Căn cứ Không quân Pope Air Force làm chết nhiều quân nhân. Trên tường phòng làm việc có treo ảnh của hai vị tướng Liên minh trong thời kỳ nội chiến của nước Mỹ là Robert E. Lee va Stonewall Jackson. Khi tôi nhìn thấy tướng Shelton trên truyền hình lúc ông ta đổ bộ lên bờ, tôi nói với một trong các nhân viên của tôi là nước Mỹ đã trải qua một khoảng thời gian dài nếu một người tôn kính tướng Stonewall Jackson lại là người giải phóng cho đảo quốc Haiti.
Cedras hứa hợp tác với tướng Shelton và giao lại quyền hành vào ngày 15 tháng 10, ngay khi luật ân xá theo yêu cầu của bản thỏa thuận của Liên hiệp quốc được thông qua. Cho dù chính tôi đã gần như cưỡng chế rút họ ra khỏi Haiti, Carter, Powell và Nunn đă thực hiện một công việc trong những điều kiện hết sức khó khăn và nguy hiểm. Một sự phối-hợp của những hoạt động ngoại giao kiên cường và những hành động gần như đi đến việc sử dụng sức mạnh quân sự đã giúp tránh khỏi một cuộc đổ máu. Bây giờ thì đến lượt Aristide thực hiện lời hứa là "không sử dụng bạo lực, không trả thù, và tiến hành hòa giải". Cũng giống như rất nhiều lời tuyên bố, lời hứa ấy nói thì dễ nhưng làm thì khó.
Vì việc vãn hồi nền dân chủ ở Haiti được tiến hành mà không có một rắc rối nào, do đó sự lo sợ của các thành viên đảng Dân chủ về một ảnh hưởng xấu đã không xảy ra. Chúng tôi đang có được những điều kiện tốt nhất để bước vào cuộc bầu cử: nền kinh tế đã tạo ra được 250.000 công ăn việc làm một tháng, với tỷ lệ thất nghiệp từ hơn 7% xuống dưới 6%; thâm thủng trên đà giảm xuống; chúng tôi đã thông qua được nhiều đạo luật về chống tội ác, giáo dục, dịch vụ toàn quốc, thương mại, và nghỉ phép việc gia đình; và tôi cũng đã đạt được những sự tiến bộ trong chính sách đối ngoại với Nga, châu Âu, Trung Quốc, Nhật, Trung Đông, Bắc Ireland, Bosnia, và Haiti. Nhưng cho dù có những thành tích và kết quả kể trên, chúng tôi đang gặp khó khăn khi bước vào giai đoạn sáu tuần lễ cuối của đợt bầu cử, do nhiều lý do khác nhau: nhiều người đã không cảm nhận được những sự tiến bộ trong nền kinh tế; không tin là nạn thâm thủng đang giảm xuống; hầu hết dân chúng đều không để ý đến những thắng lợi trên lĩnh vực lập pháp và không biết hoặc là không quan tâm đến những tiến bộ trong chính sách ngoại giao; đảng Cộng hòa và giới truyền thống của họ và những liên minh do quyền lợi của họ đã tấn công tôi một cách thường xuyên và có hiệu quả. Họ cho tôi là một nhà chính trị theo khuvnh hướng tự do muốn đánh thuế họ để đưa họ vào những nhà tế bần, và tước đoạt các bác sĩ và súng ống của họ; và nói chung là việc tin của giới truyền thông là hoàn toàn tiêu cực đối với tôi.
Trung tâm Truyền thông và các vấn đề công cộng đã cho phát hành một bản báo cáo nói rằng trong 18 tháng đầu tiên tôi cầm quyền, trung bình hàng đêm có gần năm lời phê bình không tốt đối với tôi trên hệ thống các chương trình thời sự, nhiều hơn số lời phê bình mà Tổng thống Bush cha đã nhận được trong hai năm đầu của nhiệm kỳ ông. Tay giám đốc trung tâm - Robert Lichter - tuyên bố tôi không được may mắn khi làm tổng thống vào buổi bình minh của một giai đoạn có sự phối hợp giữa báo chí chó săn với thể loại báo lá cải. Tất nhiên cũng có những nhà báo có quan điểm ngược lại. Jacob Weisberg viết: "Bill Clinton là một người biết giữ lời hứa hơn bất cứ người đứng đầu hành pháp nào khác trong những năm gần đây", nhưng "cử tri đã không tin tưởng Clinton một phần vì giới truyền thông đã nói với họ là đừng tin ông ấy". Jonathan Alter đã viết trên tờ Newsweek như sau: "Trong vòng không đến hai năm, Bill Clinton đã có nhiều sự đóng góp cho nội địa nước Mỹ hơn là các nhiệm kỳ của các Tổng thống John F. Kennedy, Gerald Ford, Jimmy Carter và George Bush cộng lại. Cho dù Richard Nixon và Ronald Reagan thường có những cách quan hệ với quốc hội, nhưng tờ Congressional Quarterly (Tạp chí hàng quý của quốc hội) viết rằng chính Tổng thống Clinton mới là người có được nhiều sự thành công với quốc hội nhất từ thời Tổng thống Lyndon Johnson. Tiêu chuẩn để đo lường kết quả về các hoạt động quốc nội không phải là sự gắn kết với nhau của quá trình làm việc mà là ảnh hưởng của các hoạt động này đối với cuộc sống thực tiễn, tạo được những dấu ấn và thay đổi lên cuộc sống này. Nếu dựa trên tiêu chuẩn này, ông Clinton đã làm tốt nhiệm vụ".
Alter có thể nói đúng, nhưng nếu đúng như vậy thì đó vẫn là một điều bị giữ kín như bí mật vậy.