← Quay lại trang sách

Chương 45 (tt)

Ngày 22 tháng 11, sau 21 ngày bị cô lập tại Dayton, Holbrooke và nhóm công tác của ông trở về Nhà Trắng để được tôi chúc mừng và thảo luận về những bước đi kế tiếp của chúng tôi. Chúng tôi còn phải tìm cách để thuyết phục được quốc hội và cả nhân dân Mỹ, vì theo những lần thăm dò dư luận mới nhất, người Mỹ rất phấn khởi với Hiệp ước Hòa bình, nhưng một số lớn vẫn chống đối việc gửi quân Mỹ đến Bosnia. Sau khi Al Gore mở đầu cuộc họp bằng cách nói rằng phe quân đội cho tới lúc đó chưa có ủng hộ gì nhiều, tôi liền nói với tướng Shalikashvili rằng tôi biết ông ủng hộ việc can dự của chúng ta vào Bosnia nhưng nhiều sĩ quan cấp dưới của ông còn rất phân vân. Al và tôi cùng nhau phối hợp đưa ra những lời bình phẩm để nhấn mạnh đây là thời điểm mà tất cả mọi người trong chính phủ, chứ không chỉ riêng quân đội, phải bắt tay thực hiện kế hoạch hòa bình. Cách làm này của tôi và Al đã đạt được kết quả mong muốn.

Chúng tôi đã có được sự ủng hộ mạnh mẽ từ một số thành viên quan trọng trong quốc hội, đặc biệt là các Thượng nghị sĩ Lugar, Biden và Lieberman. Một số khác tán thành có điều kiện hơn, nói rằng họ cần thấy một chiến lược rõ ràng để rút quân khỏi đó khi cần. Để tăng thêm sự ủng hộ từ quốc hội, tôi mời các nghị sĩ đến Nhà Trắng, và phái Christopher, Perry, Shalikashvili, và Holbrooke đến quốc hội. Thách thức của chúng tôi còn thêm phức tạp do cuộc tranh luận về ngân sách đang diễn ra; hoạt động của chính phủ đang được mở lại, nhưng phe Cộng hòa lại đang dọa sẽ lại làm cho chính phủ phải đóng cửa vào ngày 15 tháng 12.

Ngày 27 tháng 11, tôi giải thích sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Bosnia cho nhân dân Mỹ. Nói chuyện từ Phòng Bầu dục, tôi nói rằng công tác ngoại giao của chúng ta đã tạo ra được Hiệp ước Dayton và binh sĩ của chúng ta được yêu cầu đến đó không phải để đánh nhau, mà để giúp các bên hoàn thiện kế hoạch hòa bình, phục vụ cho những quyền lợi chiến lược cũng như các giá trị cơ bản của chúng ta.

Vì đã có 25 nước khác đồng ý tham gia một lực lượng 60.000 quân, nên lính Mỹ sẽ chỉ chiếm một phần ba tổng số. Tôi cam kết họ sẽ được gửi đến đó với một nhiệm vụ rõ ràng, có giới hạn, có thể kết thúc được và họ sẽ được huấn luyện kỹ và trang bị mạnh để giảm đến mức tối đa các tổn thất có thể xảy ra. Sau thông điệp này, tôi cảm thấy mình đã làm tất cả những gì có thể được để giải thích về trách nhiệm của chúng ta trong việc lãnh đạo các lực lượng của hòa bình và tự do, và hy vọng thúc đẩy được công luận đủ để ít nhất thì quốc hội cũng sẽ không ngăn cản việc tôi gửi binh lính đến Bosnia.

Bên cạnh các lập luận được đưa ra trong bản thông điệp của tôi, việc ủng hộ những người Bosnia còn đem lại một lợi thế khác cho Hoa Kỳ: nó chứng tỏ cho người Hồi giáo trên khắp thế giới thấy Hoa Kỳ quan tâm đến họ, tôn trọng đạo Hồi, và sẽ ủng hộ họ nếu họ từ bỏ bạo lực để chấp nhận các khả năng kiến tạo hòa bình và hòa giải.

Ngày 28 tháng 11, sau khi ký dự luật cung cấp hơn năm tỷ đôla cho các dự án giao thông, trong đó có tiêu chuẩn "tuyệt đối không du di" cho các lái xe có uống rượu dưới 21 tuổi, tôi đi Anh và Ireland để tiếp tục theo đuổi một sáng kiến hòa bình quan trọng khác. Dù phải hoạt động nhiều cho Trung Đông, Bosnia và tranh cãi về chuyện ngân sách, chúng tôi vẫn tiếp tục làm việc cật lực về vấn đề Bắc Ireland Vào tối ngày tôi đi, sau khi chúng tôi hối thúc, các Thủ tướng Major và Bruton công bố một đột phá trong tiến trình hòa bình Ireland: một sáng kiến "song song" cho phép tổ chức đàm phán riêng rẽ về giải giáp vũ khí và giải quyết các vấn đề chính trị; tất cả các bên, bao gồm cả Sinn Fein, sẽ được mời tham dự các cuộc đàm phán dưới sự giám sát của một ủy ban quốc tế mà George Mitchell đồng ý làm chủ tịch. Bay đến nơi có tin tốt lành thật là dễ chịu.

Ngày 29, tôi gặp John Major và nói chuyên với quốc hội Anh. Tôi cám ơn người Anh vì đã ủng hộ tiến trình hòa bình Bosnia và đã sẵn sàng đóng vai trò tích cực trong lực lượng của NATO. Tôi khen ngợi Major vì ông đã theo đuổi hòa bình ở Bắc Ireland, trích dẫn ra câu nói tuyệt hay của John Milton, "Hòa bình cũng có những thắng lợi của riêng nó, và cũng vinh quang chẳng kém gì thắng lợi trong chiến tranh". Tôi còn gặp lần đầu tiên với người lãnh đạo đối lập trẻ tuổi, Tony Blair, lúc đó đang chấn hưng Công đảng bằng một cách tiếp cận khá giống với những gì chúng tôi từng làm với Hội đồng Lãnh đạo đảng Dân chủ. Trong khi đó, ở Mỹ, phe Cộng hòa đã đảo ngược quan điểm về cải cách vận động hành lang, và hạ viện thông qua dự luật này mà không có phiếu chống, với tỷ lệ 421 - 0.

Ngày kế tiếp, tôi bay qua Belfast với tư cách tổng thống Mỹ đầu tiên đến thăm Bắc Ireland. Đó là mở đầu của hai ngày tốt đẹp nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của tôi. Trên đường từ sân bay về, người dân đứng vẫy cờ Mỹ và cám ơn tôi đã làm việc cho hòa bình. Khi tới Belfast, tôi dừng ở đường Shajkill, trung tâm của phe Hợp nhât Tin Lành và là nơi 10 người từng bị IRA đánh bom giết chết năm 1993. Điều duy nhất phần lớn người Tin Lành Bắc Ireland biết về tôi là lần cấp visa cho Adams. Tôi muốn họ biết rằng tôi còn làm việc để có được một nền hòa bình công bằng với họ nữa. Khi ghé một cửa hàng tại chỗ để mua ít hoa và cam, tôi nói chuyện với dân chúng và bắt tay vài người.

Vào buổi sáng tôi nói chuyện với nhân viên và những, người khác tại hãng Mackie International, một nhà sản xuất máy dệt có nhân viên vừa Tin Lành vừa Công giáo. Sau khi được hai em bé, một Công giáo, một Tin Lành, giới thiệu, tôi đề nghị đám đông lắng nghe những đứa trẻ ấy: "Chỉ có bạn mới quyết định nên chia rẽ hay đoàn kết, nên chọn đời sống cực khổ hay hy vọng cao vời". Khẩu hiệu của IRA là "Ngày của chúng ta rồi sẽ tới". Tôi thúc giục người Ireland hãy nói với những ai vẫn còn bám víu vào bạo lực: "Các anh là quá khứ rồi, ngày của các anh đã hết".

Sau đó, tôi dừng ở đường Falls, trung tâm của cộng đồng Công giáo Belfast. Tôi ghé vào một tiệm bánh và bắt đầu bắt tay đám đông dân chúng bỗng nhiên túm tụm lại đó mỗi lúc một đông. Một trong số họ là Gerry Adams. Tôi bảo ông rằng tôi đang đọc cuốn The Street - Con phố, cuốn tuyển truyện ngắn của ông ấy về đường Falls, và cuốn sách làm tôi cảm được nhiều hơn những gì người Công giáo ở đây phải chịu đựng. Lần ấy là lần đầu tiên chúng tôi cùng xuất hiện trước công chúng, và nó cho thấy tầm quan trọng của cam kết của ông ấy với tiến trình hòa bình. Đám đông nhiệt tình vừa mới tụ lại xung quanh rõ ràng là thấy hài lòng với chiều hướng tiến triển của tình hình.

Vào buổi chiều Hillary và tôi bay trực thăng tới Derry, thành phố đông dân Công giáo nhất ở Bắc Ireland và là quê nhà của John Hume. 25.000 người cổ vũ nhiệt tình đứng đầy Quảng trường Guildhall và các con phố lân cận. Sau khi Hume giới thiệu, tôi hỏi đám đông một câu đơn giản: "Liệu các bạn có muốn là người được phán xét bằng những gì mình ủng hộ và chống đối hay không? Liệu các bạn có muốn mình là người được phán xét bằng những yếu tố bạn có và không có chăng? Đã đến lúc những người yêu hòa bình chiến thắng ở Bắc Ireland, và Hoa Kỳ sẽ ủng hộ họ trong chiến thắng ấy".

Hillary và tôi kết thúc ngày hôm đó bằng cách quay trở về Belfast để dự lễ thắp đèn chính thức trên cây thông Noel ngay bên ngoài tòa thị chính, trước một đám đông khoảng 50.000 người, sôi động hẳn lên nhờ tiếng hát của ca sĩ người Ireland Van Morrison: "Ô, mẹ bảo rồi sẽ có ngày như thẽ này". Cả hai chúng tôi đẽu phát biểu; Hillary nói đến hàng ngàn bức thư chúng tôi nhận được từ trẻ em viết tới để biểu lộ hy vọng hòa bình, và tôi trích ra một lá thư của một bé gái 14 tuổi ở hạt Armagh: "Cả hai bên đều bị tổn thương. Cả hai bên đều phải biết tha thứ". Rồi tôi kết thúc bài phát biểu bằng câu nói rằng đối với Chúa Jesus, người mà hôm đó chúng tôi đang kỷ niệm ngày sinh, "không có lời nào quan trọng hơn lời này: Phúc đức thay những kẻ mang lại hòa bình, vì họ sẽ thừa hưởng Trái đất".

Sau lễ thắp đèn cây thông, chúng tôi dự tiệc chiêu đãi với tất cả các lãnh đạo phe phái đều được mời. Thậm chí mục sư Ian Paisley, nhà lãnh đạo dữ dội của đảng Dân chủ Hợp nhât, cũng tới dự. Dù ông không chịu bắt tay với các lãnh đạo Công giáo, ông ấy lại khoái lên lớp cho tôi về những sai lầm của tôi. Sau vài phút nghe ông ấy "giảng đạo", tôi nhận ra ngay là phe Công giáo đã may mắn hơn tôi trong thỏa thuận này.

Hillary và tôi rời tiệc để nghỉ đêm ở khách sạn Europa. Trong chuyến đi đầu tiên tới Ireland đó, thậm chí lựa chọn khách sạn nào để ở cũng mang tính biểu trưng rất lớn. Khách sạn Europa từng bị đánh bom hơn một lần trong thời đen tối; bây giờ nó đủ an toàn để tổng thống Hoa Kỳ ngủ lại.

Đó là kết thúc của một ngày hoàn hảo, thậm chí hôm đó còn có tin tốt từ Mỹ bay qua, khi tôi ký đạo luật phân bổ ngân sách cho Bộ Quốc phòng, trong đó các lãnh đạo quốc hội có cung cấp chi phí cho việc triển khai quân Mỹ ở Bosnia. Dole và Gingrich cuối cùng đã chịu, để đổi lấy khoản cắt giảm vài tỷ đôla mà ngay cả Lầu năm góc cũng nói là không cần thiết lắm.

Sáng hôm sau chúng tôi bay tới Dublin, nơi đường phố đầy ngập nhữrìg đám đông còn lớn và nhiệt tình hơn ở phía bắc. Hillary và tôi gặp Tổng thống Mary Robinson và Thủ tướng Bruton, rồi đến một địa điểm bên ngoài Ngân hàng Ireland ở Trinity College Green, nơi tôi diễn thuyết trước khoảng 100.000 người vẫy cờ Ireland và Mỹ. Tới lúc đó đã có rất nhiều nghị sĩ Mỹ gốc Ireland cùng đến tham dự với tôi; Bộ trưởng Dick Riley và Giám đốc Tổ chức Thiện nguyện Hòa bình Mark Gearan; các thị trưởng người Mỹ gốc Ireland của các thành phố Chicago, Pittsburgh và Los Angeles; người chồng sau của mẹ tôi, một người hoàn toàn gốc Ireland, Dick Kelley; Bộ trưởng Thương mại Ron Brown, người cùng với cố vấn đặc biệt của tôi là Jim Lyons, đã vạch ra các sáng kiến phát triển kinh tế cho Bắc Ireland và hay đùa với chúng tôi rằng ông ấy là "người da đen gốc Ireland". Một lần nữa, tôi đề nghị biển người này hãy làm gương cho thế giới.

Khi buổi gặp mặt chấm dứt, Hillary và tôi trở vào trụ sở nguy nga của Ngân hàng Ireland để chào Bono và vợ anh ấy là Ali và những thành viên khác của ban nhạc rock Ireland U2. Bono là một người ủng hộ nhiệt thành cho tiến trình hòa bình, và để cảm ơn các nỗ lực của tôi, anh ta tặng tôi một món quà mà anh biết chắc là tôi sẽ đánh giá rất cao: một tuyển tập kịch của William Butler Yeats do chính tác giả và Bono ký tặng. Họ viết một cách hết sức ngang ngược, "Bill, Hillary, Chelsea - Gã này viết lời hay đấy - Bono và Ali". Người Ireland không nổi tiếng về tài nói giảm di, nhưng Bono lần này đã rất thành công.

Tôi rời Trinity College Green để đến phát biểu tại quốc hội Ireland, nhắc nhở họ là mọi người chúng ta cần phải làm nhiều hơn nữa để mang lại những thành quả cụ thể hơn của hòa bình đối với những người công dân Ireland bình thường; vì như Yeats từng viết: "Hy sinh quá lâu có thể làm trái tim chai đá".

Sau đó tôi đến quán rượu Cassidy's Pub, nơi chúng tôi mời một vài người họ hàng xa của bà ngoại tôi, có quê quán ở vùng Fermanagh.

Cảm thấy mang trong mình một tính chất thật là Ireland, tôi rời quán rượu để đến tư gia của đại sứ Hoa Kỳ, nơi bà Jean Kennedy Smith đã sắp xếp một cuộc gặp mặt ngắn với người đứng đầu phe đối lập, Bertie Ahern, người không lâu sau đó trở thành thủ tướng và là đối tác mới của tôi cho hòa bình. Tôi cũng có một cuộc gặp với Seamus Heaney, một thi sĩ được tặng giải thưởng Nobel, mà tôi đã có trích một câu thơ của ông tại Derry ngày hôm trước.

Sáng ngày hôm sau, khi lên đường đến thăm binh sĩ Mỹ đóng tại Đức, tôi có cảm nhận là chuyến viếng thăm của tôi đã làm thay đổi cán cân tâm lý tại Ireland. Cho đến lúc đó, những người cổ vũ cho hòa bình phải cố thuyết phục những người có đầu óc hoài nghi, trong khi những đôi thủ của họ chỉ cần nói không là đủ. Sau những ngày viếng thăm của tôi, gánh nặng lại đổ lên những người chống đối hòa bình, bây giờ họ phải phân bua về lập trường của họ.

Tại Baumholder, tướng George Joulwan, tư lệnh các lực lượng NATO, báo cáo với tôi kế hoạch quân sự và trấn an tôi rằng tinh thần các binh sĩ sắp được cử đến Bosnia rất cao. Tôi có một cuộc gặp ngắn với Helmut Kohl để cảm ơn ông về cam kết gửi đến Bosnia 4.000 lính Đức, sau đó tôi bay đến Tây Ban Nha để cảm ơn Thủ tướng Tây Ban Nha Felipe Gonzalez, đương kim chủ tịch EU, về sự ủng hộ của châu Âu. Tôi cũng đánh giá cao sự lãnh đạo của tổng thư ký mới của NATO, là vị cựu ngoại trưởng Tây Ban Nha Javier Solana, một con người cởi mở và đặc biệt có tài, tạo được sự tin tưởng của tất cả các nhà lãnh đạo NATO, dù bản ngã họ có lớn như thế nào đi nữa.

Ba ngày sau khi tôi trở về nhà, tôi phủ quyết Dự luật Cải cách cổ phiếu Tư nhân, vì nó giới hạn khả năng nhờ đến tòa án của những nhà đầu tư tư nhân là nạn nhân của lừa đảo chứng khoán. Quốc hội tái phủ quyết quyền phủ quyết của tôi, nhưng vào năm 2001, khi các vụ như Enron và WorldCom bùng nổ, tôi biết rõ là tôi đã hành động đúng. Tôi cũng phủ quyết một dự thảo ngân sách nữa của phe Cộng hòa. Họ đã có một vài sửa đổi và làm cho dự thảo này khó bị phủ quyết hơn khi gắn thêm vào dự luật về cải cách an sinh xã hội, nhưng nó vẫn giữ các sự cắt giảm về y tế và giáo dục, tăng thêm thuế đánh vào giới lao động nghèo, và nới lỏng các luật lệ vốn dùng để đảm bảo không làm suy yếu quỹ hưu vì các mục đích ngoài việc cung cấp lương hưu, không đầy một năm sau khi quốc hội do đảng Dân chủ kiểm soát đã ổn định được hệ thống lương hưu.

Ngày hôm sau, tôi đệ trình quốc hội kế hoạch ngân sách bảy năm của mình. Các đảng viên Cộng hòa chỉ trích nó gay gắt vì nó không chấp nhận tất cả các dự toán của họ về các khoản thu và chi. Các dự toán của chúng tôi và dự toán của họ sai số cách nhau 300 tỷ USD cho bảy năm; đó không phải là một sự cách biệt không thể vượt qua được với một ngân sách hàng năm lên 1.600 tỷ USD. Tôi tin tưởng rằng rồi chúng tôi sẽ đạt được một bản thỏa thuận, cho dù phải chịu thêm một lần chính phủ bị đóng cửa nữa để đạt được điều đó.

Vào giữa tháng, Shimon Peres đến thăm tôi lần đầu tiên với tư cách là thủ tướng, một lần nữa tái khẳng định ý định của Israel trao trả Gaza, Jericho, một số thành phố quan trọng khác và 450 làng cho người Palestine trước giáng sinh, và phóng thích ít nhất thêm 1.000 tù nhân Palestine trước cuộc bầu cử sắp tới ở Israel. Chúng tôi cũng trao đổi về Syria, và những điều Shimon nói khiến tôi phân khởi đến mức gọi cho Tổng thống Assad và đề nghị ông tiếp Warren Christopher để bàn thêm.

Vào ngày 14, tôi bay đến Paris một ngày để dự buổi chính thức Hiệp ước chấm dứt cuộc chiến tranh Bosnia. Tôi gặp các tổng thống Bosnia, Croatia và Serbia, và dùng cơm trưa với họ do Jacques Chirac chiêu đãi tại Điện Elysée. Slobodan Milosevic ngồi đối diện với tôi, chúng tôi nói chuyện với nhau một lúc. Ông ta là một con người thông minh, ăn nói lưu loát và thân mật, nhưng đôi mắt của ông ta lạnh lùng chưa từng thấy. Ông ta còn mắc bệnh hoang tưởng nữa; ông nói với tôi là ông chắc chắn rằng cuộc ám sát Rabin là do có sự phản bội trong hàng ngũ an ninh Israel. Sau đó, ông ta nói rằng mọi người đều biết rõ vụ ám sát Tổng thống Kennedy cũng y như thế, nhưng "người Mỹ đã ém nhẹm vụ việc thành công". Sau một lúc nói chuyện với ông, tôi không còn ngạc nhiên vì ông ta ủng hộ những cuộc tàn sát ở Bosnia, và tôi có cảm nhận rồi chẳng chóng thì chày tôi sẽ lại hục hặc với ông ta mà thôi.

Khi tôi trở về Hoa Kỳ và lao vào cuộc chiến ngân sách, các nghị sĩ Cộng hòa lại đóng cửa chính phủ một lần nữa và chắc chắn là tôi không cảm nhận được mùa giáng sinh đến gần gì cả, cho dù tâm trạng tôi vui lên được chút ít khi đi xem Chelsea múa trong vở The Nutcracker. Lần này việc đóng cửa chính phủ không nghiêm trọng bằng lần trước vì khoảng 500.000 nhân viên chính phủ được xem là "không thể thiếu" vẫn được phép làm việc không có lương cho đến khi nào hoạt động của chính phủ được mở trở lại. Nhưng trợ cấp cho các cựu chiến binh và trẻ em nghèo vẫn chưa được chi trả. Đây chắc chắn không phải là một món quà giáng sinh dành cho nhân dân Hoa Kỳ.

Ngày 18, tôi phủ quyết hai dự luật phân bổ ngân sách nữa, một của Bộ Nội vụ, một của Bộ các vấn đề cựu chiến binh và Nhà ở và Phát triển đô thị. Ngày hôm sau tôi ký đạo luật Công khái hóa vận động hành lang, sau khi các dân biểu Cộng hòa thay đổi quan điểm của họ, và tôi cũng phủ quyết bản dự luật thứ ba về phân bổ ngân sách cho các Bộ Thương mại, Ngoại giao và Tư pháp. Bản phân bổ ngân sách này đúng là ghê gớm: nó loại bỏ chương trình COPS (Community Oriented Policing Services) cho dù thực tế rõ ràng cho thấy có nhiều cảnh sát hơn đã làm giảm các vụ phạm tội; nó loại bỏ các tòa án ma túy, tương tự như các tòa án mà bà Janet Reno đã đẩy mạnh khi bà còn làm ủy viên công tố; những tòa án này đã từng làm giảm các vụ án hình sự và lạm dụng ma túy; nó loại bỏ Chương trình Công nghệ cao của Bộ Thương mại, chương trình mà rất nhiều nhà kinh doanh của đảng Cộng hòa ủng hộ vì nó giúp cho việc kinh doanh của họ được thêm tính cạnh tranh, và nó cũng loại bỏ nghiêm trọng ngân sách cho các dịch vụ tư pháp dành cho người nghèo và các hoạt động ở nước ngoài.

Trước giáng sinh, tôi có suy nghĩ nếu để cho tôi và Thượng nghị sĩ Dole lo thì trở ngại về ngân sách đã được giải quyết một cách dễ dàng, nhưng Dole phải hết sức cẩn thận. Ông đang có ý định ra tranh cử tổng thống, và Thượng nghị sĩ Phil Gramm đang cạnh tranh với ông và ăn nói kiểu y như Gingrich, trong các cuộc bầu sơ bộ của đảng Cộng hòa với một khối cử tri thiên quá nhiều về cánh hữu.

Sau khi nghỉ lễ giáng sinh, tôi phủ quyết thêm một dự luật ngân sách khác, đó là Đạo luật ủy quyền Quốc phòng. Đây là một quyết đinh khó khăn, vì dự luật này còn bao gồm việc tăng lương cho binh sĩ cũng như tăng trợ cấp nhà ở cho quân nhân; cả hai đều là những khoản tôi ủng hộ mạnh mẽ. Thế nhưng, tôi cảm thấy cần phải phủ quyết nó vì dự luật này buộc thiết lập hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia hoàn chỉnh trước năm 2003, thời điểm mà một hệ thống phòng thủ khả thi chưa thể được chế tạo và cũng chưa cần thiết; hơn nữa một hành động như vậy sẽ vi phạm cam kết của chúng ta theo Hiệp ước Chống tên lửa đạn đạo (ABM) và gây khó khăn cho việc Nga thực hiện Hiệp ước START I và phê chuẩn hiệp ước START II. Dự luật này cũng hạn chế khả năng của tổng thống trong việc triển khai binh sĩ trong trường hợp khẩn cấp và can thiệp quá sâu vào các đặc quyền điều hành quan trọng của bộ quốc phòng, kể cả khả năng hành động nhanh để đối phó với hiểm họa vũ khí hủy diệt hàng loạt trong khuôn khổ chương trình Nunn- Lugar. Không một tổng thống có trách nhiệm nào, dù là của đảng Dân chủ hay Cộng hòa, lại có thể cho dự luật đó thành luật được.

Trong ba ngày cuối của năm, lực lượng Mỹ triến khai tại Bosnia, và tôi làm việc với các nhà lãnh đạo của quốc hội về vấn đề ngân sách, trong đó có một buổi làm việc kéo dài đến bảy giờ đồng hồ. Chúng tôi có đạt được một số tiến bộ, nhưng cho đến ngày đầu năm mới vẫn chưa đạt được thỏa thuận nào về ngân sách cũng như chấm dứt việc đóng cửa chính phủ. Trong kỳ họp đầu của quốc hội nhiệm kỳ lần thứ 104, quốc hội mà đảng Cộng hòa chiếm đa số chỉ ban hành có 67 dự luật so với 210 dự luật của quốc hội tiền nhiệm. Sau ba tháng của năm tài khóa mới, chỉ có sáu trong số 13 dự luật được biến thành luật. Khi gia đình tôi đến đảo Hilton Head để nghỉ cuối tuần, tôi tự hỏi không biết những lá phiếu bầu của người Mỹ năm 1994 có tạo ra được những gì họ muốn hay không.

Và tôi suy nghĩ về hai tháng làm việc nhọc nhằn, vô cùng mệt mỏi, với một chương trình làm việc chật ních, và các sự kiện vô cùng quan trọng - cái chết của Rabin, hòa bình tại Bosnia, việc triển khai quân đội của chúng ta, những tiến bộ đạt được tại Bắc Ireland, cuộc chiến đấu cực kỳ gian nan trong vấn đề ngân sách - Tất cả những điều ấy đã không hề làm chậm lại công việc cần mẫn của các chú ong thợ trong vụ Whitewater.

Ngày 29 tháng 11, khi tôi đang trên đường đến Ireland, ủy ban của Thượng nghị sĩ D'Amato đã mời L.Jean Lewis làm chứng một lần nữa về việc điều tra của bà về công ty Madison Guaranty bị ngăn trở sau khi tôi trở thành tổng thống. Khi bà xuất hiện trước ủy ban của Nghị sĩ Leach vào tháng 8 trước, lời khai của bà ấy đã bị các tài liệu của chính phủ cũng như băng ghi âm các cuộc trao đổi của chính bà với luật sư April Breslaw của Công ty Resolution Trust Corporation đã làm mất uy tín bà đến mức tôi thấy kinh ngạc khi D'Amato cho gọi bà trở lại. Mặt khác, gần như chẳng có ai biết đến những bê bối trong lời chứng của Lewis, nên cũng như Leach, D'Amato rất được chú ý chỉ bằng cách lên tiếng buộc tội vu vơ mà không có bằng chứng cụ thể, và thậm chí còn bị những lời chứng sau này bác bỏ.

Lewis một lần nữa lặp lại rằng sau khi tôi trúng cử thì cuộc điều tra của bà bị phá ngang. Richard Ben-Veniste, luật sư phe thiểu số của ủy ban, đưa ra cho bà ta bằng chứng rằng, trái với lời chứng có tuyên thệ của bà ta, bà ta đã nhiều lần cố thúc đẩy thẩm quyền liên bang phái thi hành lệnh mà bà ta đưa ra để gọi Hillary và tôi ra làm chứng trong vụ Whitewater trước khi cuộc bầu cử diễn ra, chứ không phải sau khi tôi trở thành tổng thống; và bà ta từng nói với một nhân viên FBI rằng bà "đang làm thay đổi lịch sử" bằng các hành động của mình. Khi Thượng nghị sĩ Paul Sarbanes đọc cho Lewis nghe một bức thư viết vào năm 1992 của ủy viên công tố Liên bang Chuck Banks nói rằng hành động theo đề nghị của bà là "vi phạm nguyên tắc công tố", rồi sau đó dẫn ra bản đánh giá năm 1993 của Bộ Tư pháp nhận định Lewis không đủ hiểu biết về luật ngân hàng liên bang. Lúc ấy bà ta bật khóc, ngã quỵ xuống ghế ngồi, và được dẫn ra ngoài, không bao giờ quay trở lại.

Không đầy một tháng sau, giữa tháng 12, toàn bộ nội dung của vụ việc Whitewater được đưa ra ánh sáng khi các cuộc điều tra của RTC từ Pillsbury, Madison & Sutro được công bố. Bản báo cáo này được viết bởi Jay Stephens, cũng như Chuck Banks, là một cựu chưởng lý, người của đảng Cộng hòa mà tôi đã từng thay thế. Bản báo cáo này, cũng giống như bản báo cáo sơ bộ vào tháng 6, kết luận không có cơ sở để tiến hành một cuộc khởi kiện dân sự chống lại chúng tôi trong vụ Whitewater, và càng không thể có một biện pháp hình sự nào, và báo cáo này yêu cầu cuộc điều tra phải nên được kết thúc.

Đó là những gì hai tờ báo New York Times và Washington Post từng muốn biết khi họ kêu gọi cần một cuộc điều tra độc lập. Tôi rất mong đợi các bài báo của họ về diễn biến mới nhât này. Thế nhưng sau khi báo cáo được công bố, tờ Post chỉ nhắc sơ đến diễn biến này, trong đoạn thứ 11 của một bài báo ở trang đầu nói về một đề tài chẳng hề có liên quan đến vụ kiện là trận chiến về trát hầu tòa của chúng tôi với Starr; còn tờ New York Times chẳng thèm viết lấy một chữ. Các tờ Los Angeles Times, Chicago Tribune, và Washington Times đăng bản tin khoảng 400 từ của hãng thông tấn AP ở các trang trong. Các chương trình truyền hình cũng không loan tin về bản báo cáo của RTC. Phóng viên Tel Koppel của hãng truyền hình ABC đề cập đến nó trong chương trình Nightline, nhưng coi chuyên này không quan trọng vì bấy giờ lại có quá nhiều câu hỏi "mới" được đặt ra. Vụ Whitewater không còn là chuyện những gì xảy ra trong vụ Whitewater nữa. Bấy giờ nó là bất cứ chuyện gì mà Ken Starr có thể bới lên đối với bất cứ một người nào ở Arkansas hoặc trong chính phủ của tôi. Trong khi đó, một số phóng viên viết về vụ Whitewater rõ ràng là đang che đậy các bằng chứng hiển nhiên về sự vô can của chúng tôi. Để có được sự công bằng, một số ít các nhà báo đã lên tiếng. Nhà báo Howard Kutz của tờ Washington Post đã có một bài viết phơi bày rõ bản báo cáo của RTC đã bị ém nhẹm đi như thế nào và Lars-Erik Nelson, một cây viết của tờ New York Daily News, từng là một phóng viên tại Liên Xô, viết: "Phán quyết bí mật như sau: không có một cái gì để ông bà Clinton phải che giấu... trong một vụ xử án kỳ lạ với một quy trình hoàn toàn ngược lại với các vụ xử dưới thời Stalin, khi mà những người vô tội đã bị kết án một cách bí mật; còn tổng thống và đệ nhất phu nhân bị cáo buộc điều tra một cách công khai và được bí mật xử vô tội".

Tôi thực sự thấy bối rối về cách báo giới chính thống đưa tin vụ Whitewater; nó có vẻ như không phù hợp với cách tường thuật cẩn thận và công bằng của báo chí đối với các vấn đề khác, ít nhất là kể từ khi đảng Cộng hòa chiến thắng tại quốc hội vào năm 1994. Một hôm, sau cuộc họp của chúng tôi bàn về vấn đề ngân sách vào tháng 10, tôi mời Thượng nghị sĩ Alan Simpson của Wyoming ở lại một lúc để trao đổi. Simpson là một nghị sĩ Cộng hòa bảo thủ, nhưng chúng tôi có một mối quan hệ bằng hữu rất tốt với nhau vì cả hai chúng tôi cùng đều có quan hệ bạn bè rất tốt với thống đôc của bang ông là Mike Sullivan. Tôi hỏi Alan xem ông có cho rằng tôi có làm điều gì không đúng trong vụ Whitewater hay không. Ông trả lời ngay: "Tất nhiên là không, vấn đề không nằm ngay ở chỗ vụ việc Whitewater. Vấn đề là làm cho công chúng nghĩ rằng ông đã sai phạm một cái gì đó. Bất cứ một người nào nhìn vào các bằng chứng đều nghĩ là ông không có làm gì sai trái cả". Simpson cười nhạo việc báo chí "ưu tú" sẵn sàng tin ngay bất cứ một thông tin tiêu cực nào ở những vùng nhỏ bé, đồng quê như Wyoming hoặc Arkansas; ông có một nhận xét rất đáng chú ý: "Anh biết đấy, trước khi anh được bầu vào chức vụ tổng thống, phe Cộng hòa chúng tôi nghĩ báo chí là cấp tiến. Bây giờ chúng tôi lại có một cái nhìn tinh tế hơn. Họ phóng khoáng một cách riêng biệt. Hầu hết giới báo chí đã dồn phiếu cho anh, nhưng họ lại có những suy nghĩ giống như những người chống lại anh thuộc cánh hữu, và điều đó mới quan trọng hơn nhiều". Khi tôi đề nghị ông ây giải thích, ông nói: "Các đảng viên Dân chủ như anh và Sullivan tham gia chính quyền để giúp dân. Các nhân vật cực hữu không tin chính phủ có thể làm được gì nhiều để cải thiện bản chất con người, nhưng họ rất thích quyền lực. Giới báo chí cũng thế. Và từ khi anh là tổng thống, cả hai giới này đều đạt được quyền lực bằng cách giống nhau, tức là đả phá anh". Tôi đánh giá rất cao nhận định ngay thẳng của Simpson và những gì ông nói làm tôi phải suy nghĩ trong nhiều tháng. Trong vòng một thời gian dài, mỗi lần tôi cảm thấy nổi giận về cách tường thuật vụ Whitewater của báo chí, tôi lại kể cho những người đối thoại với tôi nghe về sự phân tích của Simpson. Và cuối cùng khi tôi thấy nhận định này của ông là chính xác, tôi cảm thấy được giải phóng khỏi tâm trạng uất ức, và chuẩn bị sẵn cái đầu mình cho cuộc chiến đấu.

Mặc dù tôi rất giận về vụ việc Whitewater, cùng với tâm trạng phân vân về những gì đứng đằng sau cách tường thuật của báo chí, tôi bước sang năm 1996 với một tâm trạng khá lạc quan. Trong năm 1995, chúng tôi đã giúp cứu được Mexico, vượt qua cơn khủng hoảng của vụ khủng bố thành phố Oklahoma, chú ý hơn đến chủ nghĩa khủng bố, giữ gìn và cải cách chương trình hành động tích cực, chấm dứt được cuộc chiến Bosnia, tiếp tục tiến trình tìm kiếm hòa bình cho vùng Trung Đông, giúp đạt được các tiến bộ tại Bắc Ireland. Nền kinh tế tiếp tục được được cải thiện, và tôi đang đạt được một số thắng lợi trong cuộc chiến về ngân sách với các đảng viên Cộng hòa, một cuộc chiến mà khi bắt đầu, có vẻ như có thể làm sụp đổ nhiệm kỳ tổng thống của tôi. Nó vẫn còn có thể làm như thế, nhưng khi chúng ta bước vào năm 1996, tôi đã sẵn sàng đấu đến cùng. Như tôi từng nói với Dick Armey, tôi không muốn làm tổng thống khi cái giá phải trả cho nó là những đường phố nghèo nàn hơn, chăm sóc y tế kém hơn, ít cơ hội cho giáo dục hơn, không khí bẩn hơn, và nhiều sự nghèo khó hơn. Tôi dám đánh cược rằng nhân dân Hoa Kỳ cũng không muốn những chuyện ấy xảy ra.