Chương 50
Trong tuần bầu cử, hai chính trị gia Washington nổi bật tuyên bố không tái tranh cử, và chúng tôi phải đối đầu với cuộc khủng hoảng mới với Saddam Hussein. Newt Gingrich làm tất cả chúng tôi bất ngờ với tuyên bố rút khỏi vị trí chủ tịch và sẽ rời hạ viện. Rõ ràng, ông ấy đã trải qua một cuộc họp kín chia rẽ sâu sắc, đôi mặt với các chỉ trích vị trí lãnh đạo của ông ta do thất bại trong cuộc bầu cử, và không còn muốn tiếp tục đấu tranh nữa. Sau khi một số thành viên ôn hòa của đảng Cộng hòa khẳng định rằng, dựa trên kết quả cuộc bầu cử, bãi nhiệm đã đi vào bế tắc, tôi có những cảm giác lẫn lộn về quyết định của Người phát ngôn. Ông ấy đã ủng hộ tôi trong hầu hết các quyết sách đối ngoại, đã thẳng thắn nói về mục đích của nhóm họp kín của ông ấy đang định làm gì khi chúng tôi trò chuyện riêng với nhau, và, sau cuộc chiến đòi giải tán chính phủ, ông đã thể hiện sự linh hoạt trong việc đạt được những thoả hiệp đáng trân trọng với Nhà Trắng. Giờ đây, ông ấy nhận được những điều tệ hại nhất từ cả hai phe: những người Cộng hòa ôn hòa bảo thủ cảm thấy phiền lòng vì đảng của họ đã không đưa ra chương trình làm việc tích cực nào trong cuộc bầu cử năm 1998, và trong cả năm trời ông chẳng làm được gì ngoài việc công kích tôi; những người cánh hữu cùng hệ tư tưởng với ông thì phiền lòng bởi họ nghĩ rằng ông đã hợp tác với tôi quá nhiều và bêu riếu tôi quá ít.
Sự bạc bẽo của nhóm cánh hữu đảng Cộng hòa, hiện nắm quyền kiểm soát nhóm họp kín, chắc hẳn đã xúc phạm tới lòng tự trọng của Gingrich; họ nắm quyền chủ yếu là nhờ chiến lược sáng suốt của Gingrich trong cuộc bầu cử năm 1994 và những năm tháng ông tổ chức và thuyết giảng chính sách này trước và sau đó.
Tuyên bố của Newt chiếm nhiều giấy bút của báo chí hơn nhưng sự rút lui của Thượng nghị sĩ Pat Moynihan của thành phố New York lại có tác động lớn hơn tới gia đình tôi. Tối ngày Moynihan nói ông sẽ không tái tranh cử, Hillary nhận được một cuộc điện thoại từ người bạn của chúng tôi, Charlie Rangel, nghị sĩ của Harlem và là thành viên cao cấp của ủy ban Tài chính Thuế khóa của hạ viện, hối thúc cô ấy tranh cử vào vị trí của Moynihan. Hillary nói với Charlie rằng cô ấy rất lấy làm vui mừng nhưng không thể tưởng tượng sẽ làm một việc như vậy.
Cô ấy không khép cánh cửa hoàn toàn, và tôi rất vui. Ý tưởng này có vẻ khá hay đối với tôi. Chúng tôi đã tính chuyển đến New York sau khi tôi kết thúc nhiệm kỳ, còn tôi thì sẽ dành khá nhiều thời gian ở Arkansas để xây dựng thư viện của tôi. Dân New York dường như hay muốn có những thượng nghị sĩ nổi bật như Moynihan, Robert Kennedy, Jacob Javits, Robert Wagner, và rất nhiều người khác nữa được coi như đại diện không chỉ của dân New York mà còn của quốc gia. Tôi nghĩ Hillary sẽ làm được chuyện lớn ở thượng viện và cô ấy sẽ yêu thích công việc này. Nhưng còn nhiều tháng nữa mới có quyết định ấy.
Ngày 8 tháng 11, tôi đưa nhóm phụ trách an ninh quốc gia tới Trại David để thảo luận về vấn đề Iraq. Một tuần trước, Saddam đã lại trục xuất các thanh tra của Liên hiệp quốc, và dường như chắc chắn rằng chúng tôi sẽ phải thực hiện hành động quân sự. Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc đã bỏ phiếu đồng thuận cáo buộc Iraq "vi phạm trắng trợn" các nghị quyết của Liên hiệp quốc, Bill Cohen đã bay tới Trung Đông để kêu gọi sự ủng hộ cho các cuộc không kích, và Tony Blair đã sẵn sàng tham chiến.
Vài ngày sau cộng đồng quốc tê tiến một bước dài trong nỗ lực của chúng tôi nhằm ổn định tình hình tài chính toàn cầu với gói viện trợ 42 tỉ đôla cho Brazil, 5 tỉ đôla trong số đó là tiền của dân đóng thuế Mỹ. Không giống với gói viện trợ cho Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia và Nga, gói viện trợ được chuyển đến trước khi đất nước này đứng bên bờ vực vỡ nợ, phù hợp với chính sách mới của chúng tôi trong nỗ lực ngăn ngừa thất bại và ảnh hưởng lan sang các quốc gia lân cận. Chúng tôi làm hết sức mình để thuyết phục các nhà đầụ tư quốc tế rằng Brazil đã cam kết cải tổ và họ có đủ tiền mặt để đẩy lui những kẻ đầu cơ. Và lần này, điều kiện vay của IMF được nới lỏng, duy trì các chương trình giúp người nghèo và khuyến khích các ngân hàng Brazil tiếp tục cho vay. Tôi không rõ liệu việc này có hiệu quả hay không, nhưng tôi đặt rất nhiều niềm tin vào Tổng thống Fernando Henrique Cardoso, và với tư cách là đối tác thương mại chính của Brazil, Mỹ có phần đóng góp không nhỏ vào thành công của ông. Đó lại là một rủi ro khác trong số những rủi ro rất đáng thử sức này.
Ngày 14, tôi đề nghị Al Gore đại diện Mỹ tham dự cuộc gặp thường niên APEC ở Malaysia, bước đầu tiên của chuyến thăm châu Á đã được lên kế hoạch từ lâu. Tôi không thể đi được, bởi Saddam vẫn tiếp tục đưa ra những điều kiện không thể chấp nhận được để cho phép các thanh tra của Liên hiệp quốc trở lại Iraq; đáp lại, chúng tôi đang chuẩn bị các cuộc không kích vào những địa điểm mà tình báo của chúng tôi cho là có liên hệ với chương trình vũ khí của ông ta, cũng như những mục tiêu quân sự khác. Ngay trước khi cuộc tấn công được phát động, khi các phi cơ đã sẵn sàng cất cánh, chúng tôi nhận được bức thư đầu tiên trong ba bức thư từ Iraq báo cáo về các mục tiêu tấn công. Trong vài giờ đồng hồ, Saddam đã nhượng bộ hoàn toàn, và cam kết giải quyết tất cả các vấn đề nổi cộm do các thanh tra đưa ra, dành cho họ quyền tiếp cận tự do tới tất cả các khu vực mà không bị cản trở, giao nộp tất cả các tài liệu liên quan, và chấp nhận mọi nghị quyết của Liên hiệp quốc về vũ khí hủy diệt hàng loạt. Tôi cảm thấy hoài nghi, nhưng vẫn quyết định cho ông ta thêm một cơ hội nữa.
Ngày 18, tôi lên đường đi Tokyo và Seoul. Tôi muốn tới Nhật Bản để thiết lập mối quan hệ công việc với Keizo Obuchi, thủ tướng mới, và cố gắng tác động đến ý kiến của người dân Nhật Bản nhằm ủng hộ những cuộc cải tổ cứng rắn cần thiết để chấm dứt hơn năm năm đình trệ kinh tế. Tôi rất mến Obuchi và cho là ông có cơ hội chế ngự bối cảnh chính trị sóng gió tại Nhật Bản và trụ được trong vài năm. Ông ấy tỏ ra quan tâm tới kiểu chính trị thực hành kiểu Mỹ. Hồi còn trẻ, trong những năm I960, ông ấy đã tới Mỹ và thuyết phục được gặp mặt Robert Kennedy, lúc đó là bộ trưởng tư pháp, thần tượng chính trị của ông ấy. Sau cuộc gặp, Obuchi đưa tôi tới những con phố ở Tokyo nơi chúng tôi bắt tay các học sinh cầm cờ Nhật Bản và cờ Mỹ. Tôi cũng có cuộc gặp mặt được truyền hình trực tiếp tại tòa thị chính, nơi những người Nhật Bản nổi tiếng kín đáo đã làm tôi ngạc nhiên bằng những câu hỏi cởi mở và thẳng thắn, không chỉ về những thách thức hiện thời của Nhật Bản, mà còn hỏi tôi có bao giờ đến thăm các nạn nhân ở Hiroshima và Nagasaki hay chưa; nước Nhật cần làm gì để cha mẹ dành nhiều thời gian hơn cho con cái, như tôi đã dành cho Chelsea; mỗi tháng tôi dùng bữa tối bao nhiêu lần với gia đình; tôi đối phó với các áp lực của việc làm tổng thống như thê nào; và tôi đã xin lỗi Hillary và Chelsea ra sao.
Ở Seoul, tôi ủng hộ những nỗ lực không ngừng của Kim Dae Jung nhằm đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh-tế, cũng như nỗ lực tiếp cận Bắc Triều Tiên của ông, miễn là cả hai chúng tôi đều không cho phép phổ biến tên lửa, vũ khí hạt nhân, hay bất cứ loại vũ khí hủy diệt hàng loạt nào. Chúng tôi đều quan tâm tới các vụ thử tên lửa tầm xa gần đây của Bắc Triều Tiên. Tôi đã đề nghị Bill Perry dẫn đầu một nhóm nhỏ đánh giá lại chính sách với Triều Tiên của chủng tôi, và đưa ra một lộ trình cho tương lai trong đó tăng tối đa các cơ hội để Bắc Triều Tiên từ bỏ chương trình phát triển vũ khỉ và tên lửa, và tái hòa hợp với Hàn Quốc, nhưng giảm thiểu mọi nguy cơ thất bại.
Cuối tháng 11, Madeleine Albright và tôi tổ chức một cuộc họp tại Bộ Ngoại giao để ủng hộ phát triển kinh tế cho Palestine, với Yasser Arafat, Jim Wolfensohn của Ngân hàng Thế giới, và các đại diện của Liên minh châu Âu, Trung Đông và châu Á. Nội các và quốc hội Israel ủng hộ thỏa thuận sông Wye, và đã đến lúc phải đầu tư vào Gaza và khu Bờ Tây, để những người Palestine đang bị bao vây được hưởng những lợi ích của hòa bình.
Trong khi tất cả những việc này diễn ra, Henry Hyde và các cộng sự tiếp tục thúc đẩy kế hoạch của họ, gửi cho tôi 81 câu hỏi họ yêu cầu trả lời "chấp nhận hoặc từ chối", và công bố 22 giờ đồng hồ trong cuốn băng Tripp-Lewinsky. Việc Tripp- thu băng các cuộc nói chuyện mà không được Lewinsky cho phép, sau khi luật sư của bà ta đã nói rõ ràng rằng thu băng là phạm tội và bà ta không được làm như vậy nữa, đã vi phạm hình luật của Marryland, vì vậy bà ta đã bị truy tố. Nhưng thẩm phán xét xử phiên tòa từ chối cho phép công tố viên gọi Lewinsky ra làm chứng để chứng minh rằng các cuộc nói chuyện đó có xảy ra Ông ta phán quyết, việc Starr trao cho Tripp quyền miễn tố vì để ra làm chứng về việc bà ta vi phạm sự riêng tư của Lewinsky đã ngăn không cho Lewinsky ra tòa làm chứng chống lại Tripp. Một lần nữa Starr đã thành công trong việc bảo vệ những kẻ phạm luật cánh hẩu với ông ta ngay cả khi ông ta truy tố những người vô tội nào không chịu nói dối vì ông ta.
Trong thời gian này, Starr truy tố Webb Hubbell lần thứ ba, cáo buộc Hubbell đã đánh lạc hướng các cơ quan liên bang về công việc mà ông và Công ty Luật Rose đã làm cho một tổ chức tài chính lụn bại khác. Đó là nỗ lực cuối cùng và gần như tuyệt vọng của Starr nhằm đánh Hubbell và buộc anh ấy phải nói ra điều gì đó gây hại cho Hillary và tôi.
Ngày 19 tháng 11, Kenneth Starr xuất hiện trước Hội đồng Tư pháp hạ viện, đưa ra những bình luận mà, cũng giống như bản báo cáo của ông ta, vượt ra ngoài trách nhiệm báo cáo các sự thực. Bản báo cáo của Starr đã bị chỉ trích vì bỏ qua một phần quan trọng của bằng chứng có lợi cho tôi: lời khẳng định chắc chắn của Monica Lewinsky rằng tôi chưa bao giờ yêu cầu cô ấy nói dối.
Có ba điều bất ngờ trong lời đối chứng của Starr. Điều đầu tiên là việc ông ta tuyên bố không tìm thấy bất cứ sai trái nào của tôi hay Hillary trong các cuộc điều tra của Bộ phận đi lại và hồ sơ FBI. Dân biểu Barney Frank của bang Massachusetts hỏi ông ta đã đi đến kết luận này từ khi nào, Starr đáp: "Một vài tháng trước". Frank lại hỏi tại sao ông ta chờ cho đến sau cuộc bầu cử mới chịu giải oan cho tôi khỏi những tội vạ đó, còn trước cuộc bầu cử, ông ta lại đệ trình bản báo cáo "với rất nhiều chi tiết tiêu cực về tổng thống". Câu trả lời ngắn ngủn của Starr rất lúng túng và tỏ ra lẩn tránh.
Điều thứ hai là Starr thừa nhận đã nói chuyện với báo chí, xét về tổng thể, là một vi phạm luật bảo mật của đại bồi thẩm đoàn. Sau cùng, sau khi đã tuyên thệ trước toà, ông ta từ chối rằng văn phòng của ông ta đã cô tình ép Monica Lewinsky đeo thiết bị ghi âm cuộc đối thoại với Vernon Jordan, tôi và những người khác. Khi phải đối mặt với những bằng chứng của FBI cho thấy ông ta đã làm việc đó, ông ta lẩn tránh. Tờ Washington Post viết, "Lời chối bỏ của Starr... đã bị chính các báo cáo FBI của ông ta vạch mặt".
Việc Starr thừa nhận đã vi phạm luật bảo mật của đại bồi thẩm đoàn và nói dối trong khi tuyên thệ không làm chùn bước óng ta cũng như những người phe Cộng hòa trong ủy ban. Họ cho rằng đội nhà được chơi theo luật riêng.
Ngày hôm sau, Sam Dash từ chức cố vấn đạo đức của Starr, nói rằng Starr đã dấn thân "một cách trái phép" vào quá trình bãi nhiệm bằng những tuyên bố trong cuộc điều trần trước quốc hội. Như mẹ tôi vẫn thường nói, Dash đã quá muộn bởi vì từ lâu Starr đã không hề quan tâm đến tính hợp pháp trong cách cư xử của mình.
Ngay trước ngày Lễ Tạ ơn, các nghị sĩ Cộng hòa trong hạ viện trở lại Washington và bầu Bob Livingston của bang Louisiana, chủ tịch ủy ban Phân bổ Ngân sách, làm tân Chủ tịch hạ viện. Ông ta sẽ nhậm chức vào tháng 1, khi bắt đầu phiên họp mới của quốc hội. Vào thời điểm đó, hầu hết mọi người đều cho rằng phong trào nhằm bãi nhiệm tôi đã bị chững lại. Nhiều người Cộng hòa ôn hòa đã tuyên bố họ chống lại việc này, và rằng cuộc bầu cử chính là thông điệp rõ ràng nhất cho thấy người dân Mỹ muốn quốc hội cảnh cáo hay khiển trách tôi và quay trở lại giải quyết các vấn đề của đất nước.
Giữa tháng; tôi dàn xếp vụ kiện của Paula Jones với một khoản tiền rất lớn nhưng không xin lỗi. Tôi không thích thú gì việc đó bởi tôi đã giành thắng lợi rõ ràng về pháp luật và cả chi tiết trong một vụ kiện mang động cơ chính trị. Các luật sư của Jones kháng án lên Tòa phúc thẩm lưu động khu vực thứ 8, nhưng luật về trường hợp như thế này rất rõ: nếu Tòa phúc thẩm theo đúng quyết định của họ, thì tôi sẽ thắng. Thật không may, ban hội thẩm gồm ba thẩm phán giải quyết vụ kiện này lại có người đứng đầu là Pasco Bowman, chính là thẩm phán bảo thủ cực đoan từng rút thẩm phán Henry Woods ra khỏi một trong những vụ kiện Whitewater dựa trên những bài báo sai sự thật, sau khi Woods đưa ra một quyết định mà Starr ưa. Cũng giống như thẩm phán David Sentelle ở Washington, Pasco Bowman cho thấy ông ta sẵn sàng tạo ra ngoại lệ cho những quy định thông thường của pháp luật trong những vụ việc liên quan đến Whitewater.
Một phần tôi muốn thua trong phiên phúc thẩm để tôi có thể ra trước tòa, công khai mọi tài liệu và các bản khai, cho công chúng biết âm mưu kẻ thù của tôi. Nhưng tôi đã hứa với người dân Mỹ sẽ dành hai năm tiếp theo để làm việc vì họ; tôi không việc gì phải tốn thêm năm phút vào vụ kiện của Jones nữa. Vụ dàn xếp đã lấy đi của tôi môt nửa số tiền tích góp cả đời tôi và chúng tôi đã lâm vào cảnh nợ nần vì án phí, nhưng tôi biết nếu vẫn khoẻ mạnh, tôi có thể kiếm đủ tiền để trang trải cho gia đình và thanh toán hết số tiền đó sau khi rời nhiệm sở. Vì vậy, tôi dàn xếp vụ kiện mà tôi đã thắng và trở lại với công việc.
Lời hứa sẽ bỏ lại phía sau vụ kiện của Jones còn bị thử thách thêm một lần nữa, và rất khắc nghiệt. Tháng tư năm 1999, thẩm phán Wright đã tuyên phạt tôi do vi phạm những nguyên tắc điều tra của bà ấy và yêu cầu tôi thanh toán chi phí đi lại cho bà và chi phí lấy lời khai cho các luật sư của Jones. Tôi hoàn toàn không tán thành với quan điểm của Wright, nhưng cũng không thể tranh cãi về điều đó mà không phải lâm vào các vấn đề mà tôi đã cố tình né tránh và lấy đi nhiều thời gian làm việc của tôi. Tôi bị kiệt quệ vì phải thanh toán các khoản chi cho các luật sư của Jones; họ đã lạm dụng việc lấy lời khai bằng những câu hỏi có ỷ đồ xấu và câu kết với Starr, và họ đã nhiều lần vi phạm lệnh không được tiết lộ của thẩm phán. Thẩm phán không hề có hành động nào về việc này.
Ngày 2 tháng 12, Mike Espy được tuyên bố trắng án trong vụ kiện của công tố viên độc lập Donald Smaltz. Smaltz đã đi theo phương cách của Starr trong vụ điều tra Espy, tiêu tốn hơn 17 triệu đôla và truy tố tất cả những ai có thể để ép họ phải nói ra điều gì đó xấu xa chống lại Mike. Sự khiển trách nghiêm khắc của bồi thẩm đoàn đã khiến Smaltz và Starr trở thành hai công tố viên độc lập duy nhất thua trong phiên xét xử có bồi thẩm đoàn.
Vài ngày sau, Hillary và tôi bay tới Nashville tham dự lễ tưởng niệm cha của Al Gore, Thượng nghị sĩ Albert Gore Sr. Ông mất ở tuổi 90 tại quê nhà ở Carthage, Tennessee. Hội trường Tưởng niệm Chiến tranh chật kín người từ nhiều tầng lớp đến đây để tỏ lòng tôn kính với người mà trong thời gian phục vụ ở thượng viện đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng hệ thống đường cao tốc liên bang, từ chối ký vào Tuyên ngôn Miền Nam của những người theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc năm 1956, và thái độ chống đối dũng cảm của ông đối với cuộc chiến Việt Nam. Tôi đã ngưỡng mộ Thượng nghị sĩ Gore từ khi còn trẻ, và tôi luôn tận hưởng mọi cơ hội có được khi làm việc cùng Al để tiếp xúc với ông. Ngài Thượng nghị sĩ Gore và phu nhân đã vận động mạnh mẽ cho Al và tôi hồi năm 1992, và tôi đã được khích lệ rất nhiều khi nghe bài diễn văn phải trái phân minh và có lửa của ông.
Âm nhạc tại buổi lễ rất xúc động, đặc biệt khi chúng tôi được nghe qua một đoạn băng cũ Thượng nghị sĩ Gore chơi violin tại sảnh Phòng Hiến pháp năm 1938 khi ông còn là một chính trị gia trẻ mới nổi. Bài điếu văn của Al chính là sự thán phục và lòng kính trọng đầy tình yêu thương dành cho một người cha, một con người, và một đầy tớ của dân. Sau buổi lễ, tôi nói với Hillary tôi mong sao toàn dân Mỹ được nghe bài điếu văn đó.
Giữa tháng, ngay khi tôi sắp lên đường đi Israel và Gaza để thực hiện những cam kết trong Hiệp ước sông Wye, ủy ban Tư pháp hạ viện đã bỏ phiếu, lại theo đúng quan điểm của từng đảng, ủng hộ bãi nhiệm tôi vì đã khai man trong phiên lấy lời khai và điều trần trước đại bồi thẩm đoàn, và vì đã cản trở công lý. Họ cũng thông qua điểm thứ tư buộc tội tôi đã trả lời gian dối trước các câu hỏi của họ. Đây thực sự là một qui trình kỳ quặc. Chủ tịch Hyde từ chối đặt ra tiêu chuẩn cấu thành việc bãi nhiệm, hay từ chối gọi bất cứ nhân chứng nào hiểu biết rõ những vấn đề trong cuộc tranh chấp. Quan điểm của ông ta là việc bổ phiếu bãi nhiệm chỉ đơn giản là bỏ phiếu chấp thuận chuyển bản báo cáo của Starr lên thượng viện, nơi sẽ ra phán quyết cuối cùng liệu bản báo cáo có thực sự chính xác hay không, và liệu tôi có bị truất khỏi vị trí tổng thống hay không.
Một nhóm công tố viên lưỡng đảng nói với ủy ban rằng không một công tố viên bình thường nào lại buộc tội tôi đã khai man trong trường hợp này, và một nhóm các nhà sử học lỗi lạc, trong đó có Arthur Schlesinger của Đại học thành phố New York, C. Vann Woodward của trường Yale và Sean Wilontz của trường Princeton, nói là những gì họ cho rằng tôi đã làm không hội đủ những tiêu chuẩn cơ bản để bị bãi nhiệm - đó là, một "phạm tội nghiêm trọng hay một hành vi xấu xa" khi đang thực thi quyền lực hành pháp. Đây là một quan điểm đã được thừa nhận từ lâu, và lời diễn giải của họ được ủng hộ bởi một bức thư ngỏ gửi quốc hội có chữ ký của 400 sử gia. Ví dụ như, trong vụ Watergate, ủy ban Tư pháp hạ viện đã bỏ phiếu chống bãi nhiệm Tổng thống Nixon vì bị cho là trốn thuế, vì việc này chẳng hề liên quan đến công việc của ông ấy trong văn phòng tổng thống. Nhưng Hyde, cũng như viên luật sư đầy thù địch không kém của ông ta là David Schippers, và những người cánh hữu đang nắm giữ hạ viện, không đếm xỉa gì đến tất cả những thứ đó.
Kể từ cuộc bầu cử, Tom DeLay và cộng sự của ông ta hối thúc mạng lưới cánh hữu yêu cầu bãi nhiệm tôi. Các cuộc nói chuyện trên đài phát thanh cũng nằng nặc đòi như vậy, và phe ôn hòa bắt đầu lắng nghe những nhà hoạt động chống Clinton tại khu vực của họ. Họ tin sẽ lôi kéo đủ số thành viên ôn hòa tại quốc hội quên đi việc chống bãi nhiệm bằng cách khiến họ lo sợ bị kẻ căm thù Clinton đang thất vọng trả đũa.
Trong bối cảnh chiến lược này, cuộc bỏ phiếu của ủy ban do Hyde đứng đầu chống lại giải pháp cảnh cáo tôi cũng quan trọng như cuộc bỏ phiếu ủng hộ bãi nhiệm. Cảnh cáo là lựa chọn được 75% người dân Mỹ ủng hộ; nếu đề nghị cảnh cáo được đưa ra trước hạ viên, các nghị sĩ Cộng hòa ôn hòa sẽ bỏ phiếu ủng hộ và sẽ không có bãi nhiệm. Hyde tuyên bố quốc hội không có quyền cảnh cáo tổng thống; hoặc bãi nhiệm hoặc không làm gì. Trên thực tế, cả hai Tổng thống Andrew Jackson và James Polk cũng đã từng bị quốc hội cảnh cáo. Giải pháp cảnh cáo không được ủy ban chấp thuận, một lần nữa với tỷ lệ bỏ phiếu theo quan điểm của từng đảng. Toàn bộ hạ viện đã không thể bỏ phiếu cho những gì hầu hết người dân Mỹ mong muốn. Bây giờ vấn đề là có bao nhiêu thành viên Cộng hòa ôn hòa có thể bị "thuyết phục".
Sau cuộc bỏ phiếu của ủy ban, Hillary và tôi bay tới Trung Đông. Chúng tôi gặp gỡ và dự tiệc tối với Thủ tướng Netanyahu, thắp nến tại đền thờ Hanukkah, viếng mộ Rabin cùng gia đình ông. Ngày hôm sau,
Madeleine Albright, Sandy Berger, Dennis Ross, Hillary và tôi bay trực thăng tới thành phố Gaza đông đúc để cắt băng khánh thành sân bay mới, và dùng bữa trưa với Arafat trong khách sạn nhìn ra bờ biển Địa Trung Hải trải dài rất đẹp của Gaza. Và tôi có bài diễn văn tại Hội đồng Quốc gia Palestine mà tôi đã từng hứa tại sông Wye. Ngày trước khi tôi đứng lên phát biểu, hầu hết tất cả các đại biểu giơ tay ủng hộ việc bỏ điều khoản kêu gọi tiêu diệt Israel trong hiến chương của họ. Đó là khoảnh khắc khiến toàn bộ chuyến công du trở nên có giá trị. Bạn cũng có thể nghe thấy những tiếng thở phào nhẹ nhõm ở Israel; có lẽ cuối cùng thì người dân Israel và Palestine cũng có thể chia sẻ đất đai và cả tương lai của họ. Tôi cảm ơn các đại biểu, nói với họ rằng tôi mong muốn người dân của họ được tận hưởng những lợi ích rất cụ thể của hòa bình, và đề nghị họ tiếp tục duy trì tiến trình hòa bình.
Đó không phải là lời đề nghị suông. Chưa đầy hai tháng sau thắng lợi ở sông Wye, các cuộc đàm phán lại rơi vào khó khăn. Mặc dù nội các của Netanyahu đã chật vật thông qua bản thỏa thuận, nhưng liên minh cầm quyền của ông không hoàn toàn ủng hộ nó, và đã khiến ông không thể tiến hành bước tiếp theo là tái triển khai quân đội và phóng thích tù nhân, hoặc tiếp tục tiến tới những vấn đề hóc búa về tình trạng cuối cùng, trong đó có vấn đề tư cách nhà nước của Palestine, và liệu khu phía đông của Jerusalem có trở thành thủ đô của Palestine hay không. Việc điều chỉnh hiến chương Palestine ngày hôm trước đã giúp Netanyahu được lòng công chúng Israel, nhưng chính liên minh của ông mới là những người khó bị thuyết phục nhất. Có vẻ như ông sẽ phải thành lập một chính phủ nhiều thành phần hơn để thống nhất đất nước hoặc phải kêu gọi các cuộc bầu cử.
Buổi sáng sau khi tôi đọc diễn văn với người dân Palestine, Netanyahu, Arafat và tôi gặp nhau tại cửa khẩu biên giới Erez để củng cố việc triển khai thỏa thuận sông Wye và quyết định các bước tiếp theo tới các vấn đề về tình trạng cuối cùng. Sau đó, Arafat đưa Hillary và tôi tới Bethlehem. Ông ấy rất tự hào khi được canh giữ khu vực thiêng liêng của những người Thiên Chúa giáo, và ông ấy biết rằng chuyến thăm có ý nghĩa rất lớn đối với chúng tôi khi lễ giáng sinh đang tới gần.
Sau khi tạm biệt Arafat, chúng tôi cùng Thủ tướng Netanyahu thăm Masada. Tôi rất ấn tượng trước khối lượng công việc họ đã thực hiện kể từ chuyến thăm đầu tiên của Hillary và tôi hồi năm 1981 khôi phục tàn tích của pháo đài, nơi những thánh tử đạo Do Thái chiến đấu tới hơi thở cuối cùng vì niềm tin của mình. Bibi tỏ ra trầm lắng và yên lặng. Ông ấy đã vượt qua vùng an toàn chính trị ở sông Wye, và tương lai của ông đang bất ổn. Không thể biết được liệu những cơ hội ông đã tận dụng sẽ đưa người Israel lại gần hơn với nền hòa bình lâu dài hay đặt dấu chấm hết cho chính phủ của ông.