Chương 50 (tt)
Chúng tôi chào tạm biệt thủ tướng và trở về nước để giải quyết một xung đột khác. Sáu ngày trước đó, chỉ mới ngày thứ hai mở lại các cuộc thanh tra của Liên hiệp quốc ở Iraq, một vài thanh sát viên đã từ chối không cho tiếp cận trụ sở của Đảng Ba'ath của Saddam. Vào ngày chúng tôi trở về Washington, trưởng đoàn thanh sát Liên hiệp quốc, Richard Butler, tường trình với Tổng thư ký Kofi Annan rằng Iraq đã không giữ đúng cam kết hợp tác với ông ta và thậm chí còn đặt ra thêm một số hạn chế đối với công việc của các thanh sát viên.
Ngày hôm sau, Mỹ và Anh bắt đầu không kích và bắn tên lửa hành trình vào các địa điểm tình nghi là phòng thí nghiêm hóa học, sinh học và hạt nhân và căn cứ quân sự của Iraq có thể đe dọa các nước láng giềng. Trong bài diễn văn với người dân Mỹ tối hôm đó, tôi nhấn mạnh rằng Saddam đã từng sử dụng vũ khí hóa học đối với người Iran và người Kurd ở miền bắc Iraq và phóng tên lửa Scud và các nước khác. Tôi nói rằng tôi đã kêu gọi không tấn công bốn tuầu trước đó bởi Saddam đã hứa hoàn toàn hợp tác. Thay vào đó, các thanh sát viên liên tiếp bị đe dọa, "do đó Iraq đã lạm dụng cơ hội cuối cùng của mình".
Vào thời điểm các cuộc oanh kích được khai hỏa, cơ quan tình báo của chúng tôi cho hay một lượng đáng kể các chất sinh học vi hóa học đã được Iraq sử dụng vào cuối giai đoạn Chiến tranh vùng Vịnh cũng như một số đầu đạn tên lửa hiện vẫn chưa biết được sử dụng vào mục đích nào, và rằng một số công việc tại phòng thí nghiệm sơ cấp nhằm tìm kiếm vũ khí hạt nhân cũng đã được tiến hành. Các chuyên gia quân sự của chúng tôi cảm thấy các loại vũ khí không thông thường thậm chí đã trở nên quan trọng hơn đối với Saddam, bởi lực lượng quân đội chính quy đã suy yếu hơn rất nhiều so với trước cuộc Chiến vùng Vịnh.
Nhóm phụ trách an ninh quốc gia của tôi nhất trí rằng chúng tôi cần phải tấn công Saddam ngay sau khi bản báo cáo của Butler được đệ trình, để giảm thiểu mọi cơ hội Iraq có thể phân tán lực lượng quân đội và bảo vệ các kho dự trữ vũ khí sinh học và hóa học. Tony Blair và cố vấn của ông ấy đồng tình với chúng tôi. Cuộc tấn công của liên quân Anh-Mỹ kéo dài bốn ngày, với 650 chuyến bay xuất kích và 400 tên lửa hành trình, tất cả đều được nhắm bắn kỹ càng để tấn công vào các mục tiêu quân sự và an ninh quốc gia và giảm thiểu thương vong thường dân. Sau cuộc tấn công, chúng tôi không có cách nào biết được bao nhiêu nguyên liệu cấm đã bị phá hủy, nhưng khả năng sản xuất và triển khai vũ khí nguy hiểm của Iraq chắc chắn đã suy giảm.
Mặc dù nói về Saddam như thể chính ông ta là quỷ dữ, một số thành viên Cộng hòa vẫn càu nhàu về các cuộc tấn công. Một vài người trong số họ, kể cả Thượng nghị sĩ Lott và Hạ nghị sĩ Dick Armey, chỉ trích về thời điểm diễn ra cuộc tấn công, nói rằng tôi đã sắp đặt mọi thứ nhằm trì hoãn cuộc bỏ phiếu bãi nhiệm của hạ viện. Ngày hôm sau, sau khi một số thượng nghị sĩ Cộng hòa bày tỏ sự ủng hộ cuộc tấn công, Lott rút lại lời bình luận trước đó. Armey thì không; ông ta, DeLay, và thuộc hạ của họ đã làm việc vất vả để lôi kéo thêm các đồng nghiệp ôn hòa đi theo đường hướng của mình, và họ vội vàng tiến hành bỏ phiếu bãi nhiệm trước khi một vài người bắt đầu nghĩ lại.
Ngày 19 tháng 12, không lâu trước khi hạ viện bắt đầu bỏ phiếu bãi nhiệm, Chủ tịch lâm thời hạ viện, Bob Livingston, tuyên bố từ chức trước hạ viện sau khi những chuyện riêng tư ông ta bị công khai. Sau này tôi được biết 17 thành viên Cộng hòa bảo thủ đã tới gặp ông ta và nói rằng ông ta phải từ chức, không phải tại những việc ông ta đã làm, mà bởi ông ta đã trở thành vật cản đối với việc phế truất tôi.
Chưa quá sáu tuần sau khi người Mỹ thẳng thắn gửi đi thông điệp chống bãi nhiệm tôi, hạ viện thông qua hai trong bốn điều khoản bãi nhiệm được ủy ban của Hyde chấp thuận. Điều một là, buộc tội tôi đã nói dối trước đại bồi thẩm đoàn, thông qua với số phiếu 228 so với 206, với năm thành viên Cộng hòa bỏ phiếu chống. Điều hai, kết án tôi đã cản trở công lý vì khai man và giấu nhẹm các khoản quà riêng thông qua với tỉ lệ phiếu 221-212, với 12 phiếu chống từ đảng Cộng hòa. Hai cáo buộc khá mâu thuẫn. Cáo buộc thứ nhất dựa trên những khác biệt giữa bản mô tả của Monica Lewinsky về chi tiết các cuộc gặp gỡ của chúng tôi trong bản báo cáo của Starr và lời chứng của tôi trước đại bồi thẩm đoàn; cáo buộc thứ hai bỏ qua sự thực là Lewinsky cũng đã khai rằng chưa bao giờ tôi yêu cầu cô ấy phải nói dối, một việc mà tất cả các nhân chứng khác đều ủng hộ. Đảng Cộng hòa rõ ràng chỉ tin cô ấy khi cô ấy bất đồng với tôi mà thôi.
Ngay sau cuộc bầu cử, Tom DeLay và các đồng sự bắt đầu dụ dỗ những người ôn hòa trong đảng Cộng hòa. Họ có được một vài phiếu bằng cách tước khỏi tay những người ôn hòa cơ hội bỏ phiếu quyết định cảnh cáo, rồi sau đó nói với họ rằng do họ muốn bằng cách nào đó khiển trách tôi, họ (những người ôn hòa) nên sẵn lòng bỏ phiếu phế truất tôi, vì tôi sẽ không bao giờ bị kết án và rời khỏi vị trí tổng thống, bởi đảng Cộng hòa không thể đạt được hai phần ba số phiếu thuận bãi nhiệm tại thượng viện. Một vài ngày sau khi hạ viện bỏ phiếu, bốn thành viên Cộng hòa ôn hòa tại hạ viện - Mike Castle của bang Delaware, James Greenwood của Pennsylvania, và Ben Gilman và Sherwood Boehlert của New York - đã viết trên tờ New York Times rằng phiếu bầu của họ đồng ý bãi nhiệm tôi không có nghĩa là họ nghĩ tôi nên rời bỏ vị trí tổng thống.
Tôi không biết hết từng cây gậy và củ cà rốt được dùng đối với những người ôn hòa, nhưng tôi cũng biết được một ít. Một chủ tịch ủy ban thuộc đảng Cộng hòa rõ ràng rất phiền muộn nói với một nhân viên Nhà Trắng, rằng ông ta không muốn bỏ phiếu phế truất tôi, nhưng ông sẽ bị mất chiếc ghế chủ tịch nếu bỏ phiếu chống. Jay Dickey, một đảng viên Cộng hòa của Arkansas, nói với Mack McLarty là ông ta có thể sẽ mất ghế tại ủy ban Phân bổ Ngân sách nếu ông ta không bỏ phiếu tán thành bãi nhiệm tôi. Tôi rất thất vọng khi Jack Quinn, một người Cộng hòa từ Buffalo, New York, vốn là vị khách khá thường xuyên của Nhà Trắng và đã từng nói với một số người, kể cả với tôi, rằng ông ta chống bãi nhiệm, cuối cùng trở mặt và tuyên bố sẽ bỏ phiếu ủng hộ ba điều khoản đó. Tôi đã từng giành thắng lợi áp đảo tại khu vực của ông ta hồi năm 1996, nhưng thiểu số cử tri lớn tiếng trong khu vực bầu cử rõ ràng đã trút hết giận dữ lên đầu ông ta. Mike Forbes, người Cộng hòa ở Long Island, đã từng ủng hộ tôi trong cuộc chiến chống bãi nhiệm, nay lại thay đổi khi được hứa hẹn một vị trí lãnh đạo mới trong nhóm của Livingston. Khi Livingston từ chức, lời mời gọi cũng tan biến theo.
Năm đảng viên Dân chủ cũng bỏ phiếu tán thành bãi nhiệm. Bốn trong số họ ở các khu vực bảo thủ. Người thứ năm nói là ông ấy chỉ muốn bỏ phiếu cảnh cáo, sau đó tin vào lập luận rằng ông đã thuận theo lựa chọn khả dĩ. Những thành viên Cộng hòa bỏ phiếu chống bãi nhiệm có Amo Houghton của New York và Chris Shays của Connecticut, hai trong số những thành viên Cộng hòa cấp tiến và độc lập nhất tại hạ viện; Connie Morelia của Maryland, cũng là một người cấp tiến và khu vực bầu cử của Morella đã bỏ phiếu áp đảo cho tôi hồi năm 1996; và hai thành viên bảo thủ, Mark Souder của Indiana và Peter King của New York, người từ chối sánh bước cùng với lãnh đạo đảng của họ muốn biến một vấn đề về hiến pháp thành một bài kiểm tra lòng trung thành đối với đảng của mình.
Peter King, từng cộng tác với tôi trong vấn đề Bắc Ireland, phải chịu đựng áp lực nặng nề kéo dài hàng tuần, có cả những lời đe dọa triệt hạ ông về chính trị nếu ông không bỏ phiếu tán thắnh phế truất. Trong một vài cuộc phỏng vấn trên truyền hình, King đưa ra lý lẽ đơn giản cho các đảng viên Cộng hòa: Tôi chống lại bãi nhiệm bởi vì nếu Tổng thống Clinton là người Cộng hòa, các bạn cũng sẽ phản đối. Những thành viên Cộng hòa ủng hộ bãi nhiệm cùng xuất hiện trên các chương trình với ông ta không bao giờ có phản ứng tương xứng với lời bình luận đó. Phe cánh hữu thì cho rằng ai cũng có thể bị mua hoặc bị ép được, và thường thì họ đúng, nhưng Peter King có một tâm hồn của người Ireland: ông yêu thơ của Yeats; ông không sợ phải đánh một trận chiến đã thua; và ông không phải là một thứ hàng hóa.
Mặc dù nghe nói lực lượng ủng hộ bãi nhiệm đã cùng cầu nguyện tại văn phòng của DeLay để tìm kiếm sự ủng hộ của Chúa cho sứ mệnh thiêng liêng của họ, nhưng động cơ bãi nhiệm lại không dựa trên nền tảng đạo đức hay quy định pháp luật, mà là vấn đề quyền lực. Newt Gingrich đã từng nói về tất cả những điều đó bằng một câu- họ làm việc đó đơn giản là vì "chúng tôi có thể". Phế truất tôi không phải là về hạnh kiểm cá nhân không thể bào chữa được của tôi; hạnh kiểm cá nhân của một số người phe họ cũng vậy, và những chuyện xấu xa ấy cũng đã bắt đầu phơi bày, mà không cần có vụ kiện hay một công tố viên đặc biệt nào để bới móc. vấn đề không phải là liệu tôi có nói dối hay không; khi Newt Gingrich bị phát hiện đã nhiều lần đưa lời khai gian dối khi ủy ban Đạo đức hạ viện điều tra hoạt động trái phép của ủy ban Hành động Chính trị của ông ta, thì chính cái đám đông vừa bỏ phiếu phế truất tôi ấy chỉ khiển trách và bắt ông ấy đóng phạt. Khi Kathleen Willey, người được Starr miễn tố chừng nào mà bà ta nói ra điều ông ta muốn nghe, dối trá, thì Starr lại tiếp tục miễn tố cho bà ta. Khi Susan McDougal không chịu nói dối, ông ta truy tố cô ấy. Khi Herby Branscum và Rob Hill không nói dối để phục vụ ông ta, ông ta cũng truy tố họ. Khi Webb Hubbell không chịu nói dối vì ông ta, Starr đã truy tố Hubbell tới lần thứ hai và lần thứ ba, thậm chí còn buộc tội cả vợ, luật sư và kế toán của ông ta, để rồi sau đó phải bãi nại. Khi lời khai đầu tiên về tôi của David Hale không được như ý, Starr để cho ông ta thay đổi cho tới khi cuối cùng Hale soạn ra một phiên bản mới không thể phủ nhận. Cựu đối tác của Jim McDougal và là bạn cũ của tôi, Steve Smith, đề nghị tiến hành một cuộc kiểm tra bằng máy phát hiện nói dối đối với lời khẳng định của ông là người của Starr đã chuẩn bị sẵn một bản tuyên bố được đánh máy để ông ấy đọc trước đại bồi thẩm đoàn và liên tục gây áp lực buộc ông ấy phải làm vậy, ngay cả sau khi ông nhắc đi nhắc lại với họ rằng đó hoàn toàn là bịa đặt. Bản thân Starr cũng không nói sự thật trước toà về việc cố tình yêu cầu Monica Lewinsky đeo máy ghi âm.
Cuộc bỏ phiếu của hạ viện chắc chắn không phải để quyết định liệu những lời buộc tội của những người đứng đầu hạ viện có đủ để cấu thành một tội danh bãi nhiệm như vẫn được hiểu theo lịch sử hay không. Nếu áp dụng tiêu chuẩn của vụ Watergate vào trường hợp của tôi, thì đã không có bãi nhiệm.
Cuộc bỏ phiếu là vấn đề về quyền lực, về việc những người lãnh đạo Cộng hòa tại hạ viện làm bởi họ có đủ khả năng, và bởi vì họ muốn theo đuổi một chương trình hành động mà tôi đã phản đối và ngăn cản. Tôi không nghi ngờ rằng rất nhiều người ủng hộ cho họ trong nước cho rằng việc đuổi cổ tôi khỏi văn phòng có gốc rễ từ giá trị đạo đức hoặc về luật pháp, và rằng tôi là một người tồi tệ đến mức hạnh kiểm của tôi có phù hợp hay không với định nghĩa hiến pháp về bãi nhiệm thì cũng chẳng quan trọng. Tuy nhiên, quan điểm của họ đã không vượt qua cuộc kiểm tra đầu tiên về mọi khía cạnh đạo đức và luật pháp công bằng: Mọi người đều phải theo những luật lệ như nhau. Như Teddy Roosevelt đã từng nói, không ai được đứng trên pháp luật, nhưng "cũng không ai bị đặt dưới pháp luật".
Trong các cuộc chiến đảng phái vốn bùng nổ từ giữa những năm I960, không bên nào hoàn toàn trong sạch. Tôi cũng từng cho rằng đảng Dân chủ đã sai khi bươi móc thị hiếu điện ảnh của thẩm phán Bork và thói quen uống rượu của Thượng nghị sĩ John Tower. Nhưng trong chuyện hủy hoại cá nhân, thì những thành viên Cộng hòa Tân Cánh hữu lại thuộc về một đẳng cấp khác. Đảng của tôi đôi khi dường như không hiểu được quyền lực, nhưng tôi tự hào rằng vẫn còn những thứ đảng Dân chủ sẽ không làm chỉ vì họ có khả năng.
Ngay trước khi hạ viện bỏ phiếu, Robert Healy viết một bài trên tờ Boston Globe về cuộc gặp gỡ giữa Chủ tịch hạ viện Tip O'Neill và Tổng thống Reagan tại Nhà Trắng cuối năm 1986. Vụ Iran-Contra đã bị tiết lộ; những phụ tá Nhà Trắng là John Poindexter và Oliver North đã vi phạm luật pháp và nói dối trước quốc hội. O'Neill không hỏi tổng thống có ra lệnh hay biết việc phạm pháp đó hay không, (ủy ban lưỡng đảng của Thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa John Tower sau này đã phát hiện Reagan có biết chuyện đó). Theo Healy, O'Neill chỉ nói với tổng thống rằng ông ta sẽ không cho phép quá trình bãi nhiệm tiếp diễn; ông nói ông đã trải qua vụ Watergate và sẽ không đẩy đất nước vào một thử thách như vậy nữa.
Tip O'Neill có thể là một người yêu nước hơn Gingrich và DeLay, nhưng họ và những đồng minh của họ giỏi tập trung quyền lực hơn, và sử dụng quyền lực đến giới hạn có thể để chống lại đối thủ của họ. Họ tin tưởng rằng, trong ngắn hạn, điều này có thể là đúng, và họ không hề quan tâm là họ đã đẩy đất nước rơi vào hoàn cảnh nào. Họ cũng chẳng mảy may quan tâm nếu thượng viện không phế truất tôi. Họ cho rằng nếu họ dúi tôi vào thùng rác đủ lâu, thì báo chí và công luận cuối cùng cũng sẽ lên án tôi vì cách cư xử tồi tệ của họ cũng như của tôi. Họ khao khát dán nhãn cho tôi bằng một chữ "tôi" lớn, và tin rằng từ giờ đến cuối đời tôi và kể cả sau đó, sự kiện bãi nhiệm tôi sẽ nổi cộm lên, thậm chí còn lớn hơn cả hoàn cảnh của nó, và chẳng bao lâu nữa thậm chí sẽ chẳng còn ai nhớ toàn bộ quá trình đó là một hũ mắm thối đạo đức giả như thế nào, và quá trình hàng năm trời Kenneth Starr và bè lũ tay sai hành xử một cách vô lương tâm như thê nào.
Ngay sau cuộc bỏ phiếu, Dick Gephardt đưa một nhóm đông đảng viên Dân chủ tại hạ viện, những người đã bảo vệ tôi, tới Nhà Trắng để tôi có thể cảm ơn họ và chúng tôi có thể biểu lộ tinh thần đoàn kết trong cuộc chiến phía trước. Al Gore nhiệt tình bảo vệ thành quả khi tôi làm tổng thống, và Dick đưa ra lời đề nghị mạnh mẽ đối với đảng Cộng hòa yêu cầu chấm dứt thứ chính trị triệt hạ cá nhân và quan tâm trở lại công việc điều hành đất nước. Hillary bình luận với tôi sau đó rằng sự kiện này có một cảm giác như cuộc tập hợp ăn mừng thắng lợi. về một mặt nào đó thì đúng là như vậy. Đảng Dân chủ đã đứng lên không chỉ bảo vệ tôi, mà quan trọng hơn là bảo vệ hiến pháp.
Chắc chắn tôi không hề muốn bị bãi nhiệm, nhưng tôi đã được an ủi bởi lần duy nhất xảy ra sự việc tương tự là đối với Andrew Johnson vào cuối những năm 1860, đã không có "tội ác nghiêm trọng và hành vi xấu xa"; đó là một hành động có động cơ chính trị của đảng chiếm đa số trong quốc hội đã không thể tự kiềm chế.
Hillary tỏ ra buồn phiền nhiều hơn tôi về bản chất chính trị của các đảng phái trong hoạt động của hạ viện. Hồi trẻ, lúc làm luật sư, cô ấy đã làm việc cho ủy ban Tư pháp hạ viện trong nhóm của John Doar trong thời gian diễn ra vụ Watergate, khi có một nỗ lực nghiêm túc, cân bằng và của cả hai đảng nhằm hoàn thành một nhiệm vụ được ủy quyền theo hiến pháp để định nghĩa và phát hiện tội ác nghiêm trọng và hành vi xấu xa trong các hoạt động chính thức của tổng thống.
Ngay từ đầu, tôi đã tin rằng cách tốt nhất để giành chiến thắng trong trận đối đầu cuối cùng với nhóm cực hữu chính là tôi sẽ tiếp tục công việc của mình và để những người khác bảo vệ mình. Trong suốt tiến trình ở hạ viện và thượng viện, tôi đã cố gắng làm như vậy, và rất nhiều người nói với tôi là họ đánh giá cao nỗ lực đó.
Chiến lược này đã có tác dụng tốt hơn dự tính. Việc công bố bản báo cáo của Starr và quyết tâm của phe Cộng hòa theo đuổi phế truất tổng thống đã làm thay đổi đáng kể nội dung các tin tức của báo chí. Như tôi đã nói, truyền thông không bao giờ cứng nhắc; bây giờ, ngay cả những tờ báo trước đây sẵn sàng để Starr tự do hoành hành cũng bắt đầu chỉ ra sự liên can của các nhóm cánh hữu trong phe đảng, thủ thuật lừa gạt của Văn phòng công tố độc lập (OIC), và bản chất chưa có tiền lệ của những việc đảng Cộng hòa đã làm. Và các cuộc trò chuyện trên truyền hình bắt đầu cân bằng hơn, các bình luận viên như Greta Van Sustren và Susan Estrich, các vị khách mời như luật sư Lanny Davis, Alan Dershowitz, Julian Epstein, Vincent Bugliosi đảm bảo sao cho cả hai bên đều được đưa ra lập luận. Các thành viên quốc hội cũng tham gia vào sự việc này, trong đó có Thượng nghị sĩ Tom Harkin, thành viên ủy ban Tư pháp hạ viện, Sheila Jackson Lee, và cựu công tố viên Bill Delahunt. Các giáo sư Cass Sunstein của Đại học Chicago và Susan Bloch của Georgetown công bố một bức thư về tính vi hiến của quá trình bãi nhiệm được ký bởi 400 học giả ngành luật.
Khi chúng tôi bước vào năm 1999, tỉ lệ thất nghiệp đẵ giảm xuống còn 4,3% và thị trường chứng khoán đã phục hồi trở lại đạt mức cao nhất mọi thời đại. Hillary bị đau lưng trong khi thăm hỏi các công nhân tại Tòa nhà hành pháp cũ nhân dịp giáng sinh, nhưng đã đỡ hơn sau khi bác sĩ của cô ấy yêu cầu không đi giày cao gót trên sàn đá cứng. Chelsea và tôi trang trí cây Noel và đi chơi, mua sắm cho lê giáng sinh như mọi năm.
Những món quà giáng sinh có giá trị nhất đối với tôi là sự thể hiện lòng tốt và ủng hộ tôi của những người dân bình thường. Một bé gái 13 tuổi ở Kentucky viết thư cho tôi nói rằng tôi đã mắc sai lầm, nhưng tôi không được bỏ cuộc, bởi vì kẻ thù của tôi rất "bần tiện". Và một người đàn ông da trắng 86 tuổi ở New Brunswick, New Jersey, sau khi thông báo với gia đình là ông sẽ tới thành phố Atlantic ngày hôm đó, đã đi xe lửa tới Washington, nơi ông có thể bắt taxi tới nhà của mục sư Jesse Jackson. Khi ông được mẹ vợ của Jesse chào đón, ông đã nói với bà ấy rằng ông tới vì mục sư Jackson là người duy nhất ông ấy biết trong số những người đã nói chuyện với tổng thống, và ông ấy muốn chuyển tới tôi một thông điệp: "Hãy nói với tổng thống đừng bỏ cuộc. Tôi đã chứng kiến đảng Cộng hòa cố tiêu diệt Al Smith, ứng cử viên tổng thống năm 1928, vì ông ấy là một tín đồ công giáo. Ông ấy không thể chịu thua bọn họ". Sau đó người đàn ông leo lên taxi và trở về nhà ga Union, lên chuyến tàu tiếp theo để về nhà. Tôi đã gọi điện cho ông ấy để cảm ơn. Sau đó cả gia đình tôi đi dự kỳ nghỉ Cuối tuần Phục hưng và bước sang một năm mới.