← Quay lại trang sách

Chương 51

Ngày 7 tháng giêng, Chánh án Tòa tối cao William Rehnquit chính thức mở phiên tòa xét xử truất phế tại thượng viện, và Ken Starr truy tố Julie Hiatt Steele, một phụ nữ thuộc phe Cộng hòa đã không nói dối để ủng hộ câu chuyện của Kathleen Willey.

Một tuần sau, những người thực hiện bãi nhiệm của hạ viện trình bày vụ kiện trong ba ngày. Bây giờ họ muốn gọi các nhân chứng, việc họ chưa từng làm trong các cuộc điều trần, ngoại trừ trường hợp của Kenneth Starr. Một trong số đó là Asa Hutchinson của Arkansas, người đã từng truy tố em trai tôi vì tội buôn bán ma tuý khi còn làm công tố viên liên bang hồi thập niên 80, nói rằng thượng viện phải để họ có quyền được gọi nhân chứng, bởi vì nếu ông ta là công tố viên, ông ta không thể buộc tội tôi cản trở công lý, việc mà ông ta được giao xử lý, dựa trên hồ sơ sơ lược mà hạ viện đã gửi cho thượng viện! Mặt khác, những người thực hiện bãi nhiệm khác lập luận rằng, thượng viện không có quyền phán xét liệu các cáo buộc chống lại tôi có đủ để tiến hành bãi nhiệm theo hiến pháp hay không; ông ấy nói hạ viện đã quyết định rồi và thượng viện phải tuân theo kết luận của hạ viện, mặc dù ủy ban của Hyde đã từ chối làm rõ tiêu chuẩn phán xét hành vi nào có thể dẫn đến bị bãi nhiệm.

Trong kết luận của Henry Hyde trước thượng viện, cuối cùng ông ta cũng đưa ra diễn giải ý nghĩa theo hiến pháp của việc bãi nhiệm, nói rằng về cơ bản, việc cố gắng tránh nhục nhã cho bản thân vì chuyện cá nhân sai trái còn đáng bị bãi nhiệm hơn việc lừa dối đất nước về một vấn đề quan trọng nào đó. Mẹ đã dạy tôi phải biết nhìn vào mặt tốt của mọi người. Khi chứng kiến ông Hyde chửi rủa tôi đoán Tiến sỹ Jekyll đang đâu đó quanh đây, nhưng tôi phải khó khăn lắm mới tìm thấy ông ấy.

Ngày 19, nhóm luật sư của tôi bắt đầu ngày đầu tiên trong ba ngày phản ứng lại. Chuck Ruff, luật sư của Nhà Trắng, cựu công tố viên liên bang, mở đầu. Anh lập luận suốt hai tiếng rưỡi rằng các cáo buộc là không đúng sự thực, và rằng kể cả khi các thượng nghị sĩ nghĩ rằng các cáo buộc là đúng, thì các cáo buộc này cũng chưa hội đủ điều kiện để bãi nhiệm như hiến pháp quy định, chứ chưa nói đến chuyện phải rời nhiệm sở. Ruff là người hòa nhã, phải ngồi xe lăn hầu như suốt đời. Anh ấy cũng là người ủng hộ tôi mạnh mẽ, và cảm thấy bị xúc phạm bởi những gì mà những người đòi truất phế tôi ở hạ viện đã làm. Anh ấy bác bỏ các lập luận của họ và nhắc nhở thượng viện rằng ban hội thẩm hai đảng đã từng tuyên bố không công tố viên có trách nhiệm nào lại dám kết tộỉ khai man dựa trên những bằng chứng hiện có.

Tôi nghĩ giây phút tuyệt vời nhất của Ruff là khi anh ấy bắt tận tay Asa Hutchinson đang xuyên tạc sự thật. Hutchinson đã nói trước thượng viện về việc Vernon Jordan bắt đầu giúp đỡ Monica Lewinsky kiếm việc làm chỉ sau khi ông ấy biết cô ấy sẽ làm nhân chứng trong vụ của Jones. Bằng chứng cho thấy Vernon đã làm như vậy vài tuần trước khi ông ấy biết hoặc có thể biết điều đó, và vào lúc thẩm phán Wright đưa ra quyết định cho phép gọi Lewinsky ra làm nhân chứng (một quyết định sau này bà đã huỷ bỏ), thì Vernon đang trên máy bay đi châu Âu. Tôi không biết Asa lừa dối thượng viện vì anh ta nghĩ các thượng nghị sĩ sẽ không biết hay vì anh ta nghĩ rằng họ, cũng như những người thực hiện bãi nhiệm ở hạ viện, sẽ không quan tâm liệu những gì anh ta nói có chính xác hay không.

Hôm sau Greg Craig và Cheryl Mills đáp trả lại những lời cáo buộc cụ thể. Greg nói rằng cáo buộc tôi khai man trước tòa không có bằng chứng cụ thể nào, mà chỉ cố tìm mọi cách kéo lời khai của tôi trong vụ Jones vào, mặc dù hạ viện đã bỏ phiếu bãi bỏ điều khoản bãi nhiệm liên quan đến vấn đề này. Craig cũng chỉ ra rằng một số cáo buộc khai man đang được trình trước thượng viện chưa bao giờ được Starr hay bất cứ thành viên nào của hạ viện đưa ra trong các cuộc tranh luận ở ủy ban Tư pháp hay trong chương trình nghị sự của hạ viện. Trong quá trình thực hiện bãi nhiệm, làm đến đâu họ dựng chuyện đến đó.

Cheryl Mills, một sinh viên trẻ người Mỹ gốc Phi, tốt nghiêp trường Luật Stanford, lên tiếng vào ngày kỷ niệm 6 năm làm việc tại Nhà Trắng. Cô ấy xử lý rất thông thái hai cáo buộc cản trở công lý, đưa ra những sự kiện mà những người thực hiện bãi nhiệm ở hạ viện không thể chối cãi nhưng cũng không trình bày với thượng viện, và những chứng cứ đó cho thấy việc họ buộc tội cản trở công lý là vô nghĩa. Cao trào là lời kết luận của Cheryl. Đáp lại ý kiến của Linsey Graham, phe Cộng hòa, của tiểu bang Nam Carolina và những người khác rằng việc tha tội cho tôi sẽ gửi đi thông điệp rằng luật dân sự và quấy rối tình dục của chúng ta không quan trọng nữa, Cheryl nói: "Tôi không thể để những lời bình luận của họ yên được". Người da đen khắp nước Mỹ đều biết động cơ bãi nhiệm tôi chính là do những kẻ miền nam da trắng cánh hữu dẫn dắt, những kẻ mà chưa bao giờ đụng một ngón tay bảo vệ dân quyền.

Cheryl chỉ ra rằng Paula Jones đã ra tòa và cô ta không có lý gì để kiện cả. Cô ấy nói chúng ta kính trọng những người đàn ông như Jefferson, Kennedy và King, tất cả họ đều không hoàn hảo nhưng họ đã "dám đấu tranh cho những điều tốt đẹp cho nhân loại", và những đóng góp của tôi để bảo vệ dân quyền và nữ quyền là "không thể bác bỏ được": "Tôi đứng đây trước các vị hôm nay bởi vì Tổng thống Bill Clinton tin rằng tôi có thể đại diện cho ông ấy... Sẽ là sai lầm khi buộc tội ông ấy vì chuyên này".

Ngày thứ ba và cũng là ngày cuối cùng, David Kendall bác bỏ một cách lạnh lùng, hợp lý và có hệ thống những cáo buộc tôi đã cản trở công lý. Anh đưa ra lời khẳng định của Monica Lewinsky là tôi chưa bao giờ yêu cầu cô ấy nói dối, và một lần nữa chỉ ra một cách chi tiết những tuyên bố cố ý sai hoặc bỏ sót yếu tố quan trọng của những người thực hiện bãi nhiệm ở hạ viện.

Dale Bumpers là người bào chữa cuối cùng cho tôi. Tôi yêu cầu Dale làm việc này bởi vì ông ấy là một luật sư giỏi, một người nghiên cứu hiến pháp cẩn thận, và là một trong những nhà hùng biện giỏi nhất ở Mỹ. Ông ấy cũng đã biết tôi từ lâu và vừa mới rời khỏi thượng viện sau 24 năm phục vụ. Sau khi giải trí cho các đồng nghiệp cũ của mình bằng vài câu chuyên đùa, Dale nói rằng ông ấy đã do dự khi đến đây bởi vì ông ấy và tôi là bạn thân trong suốt 25 năm và đã cùng làm việc vì những chung mục đích chung. Ông nói, mặc dù biết rõ thượng viện có thể sẽ coi những lời biện hộ của ông chỉ là lời nói tốt cho bạn bè, nhưng ông ấy đến đây không phải để biện hộ cho tôi mà biện hộ cho hiến pháp, "văn bản thiêng liêng nhất đối với tôi sau Kinh thánh".

Bumpers bắt đầu lập luận bằng cú tấn công vào cuộc điều tra của Starr: "Nếu so ra thì việc Javert săn đuổi Jean Valjean trong Những người khốn khổ chẳng thấm vào đâu". Ông ấy nói: "Sau biết bao nhiêu năm... Tổng thống không có tội gì, về đời công cũng như đời tư... vậy mà chúng ta lại ở đây hôm nay vì tổng thống phải chịu đựng một sai lầm khủng khiếp về đạo đức".

Ông ấy trách cứ những người thực hiện bãi nhiệm không có lòng trắc ẩn. Và giây phút cao trào nhất của bài diễn văn của Dale: "Hãy đặt mình vào vị trí của tổng thống... chúng ta không ai hoàn hảo cả... Tổng thống lẽ ra phải nghĩ đến điều đó từ trước. Và thật sự tổng thống nên như thế, cũng như Adam và Eve nên làm" - rồi ông chỉ vào các thượng nghị sĩ - "như anh và anh và anh và anh và hàng triệu người khác bị bắt gặp trong trường hợp tương tự nên nghĩ về điều đó trước tiên. Như tôi đã nói, không ai trong chúng ta hoàn hảo cả".

Sau đó Dale nói rằng tôi đã bị trừng phạt thích đáng cho lỗi lầm của tôi, rằng người dân không muốn tôi bị bãi nhiệm, và rằng thượng viện nên lắng nghe các nhà lãnh đạo trên thế giới đang ủng hộ cho tôi, trong đó có Havel, Mandela và Vua Hussein.

Ông ấy kết thúc bài diễn văn của mình bằng lịch sử chi tiết và uyên bác của Hiệp ước Hiến pháp về các điều khoản bãi nhiệm. Ông nói, khung hiến pháp của chúng ta được lấy từ luật pháp Anh, trong đó quy định rõ ràng về các hành vi phạm tội "mang tính chính trị rõ ràng chống lại đất nước". Ông ấy đề nghị thượng viện đừng làm vẩn đục hiến pháp, mà thay vào đó phải lắng nghe người dân nước Mỹ 'kêu gọi các ngài đứng trên chính trị... và làm tròn trách nhiệm trang trọng của mình".

Bài diễn văn của Bumpers thật tuyệt diệu, thay đổi liên tục, lúc uyên bác mà tình cảm, lúc trần tục mà sâu sắc. Nếu lúc này thượng viện tổ chức bỏ phiếu thì ắt hẳn sẽ không có nhiều người bỏ phiếu thuận bãi nhiệm. Thay vào đó, quá trình xét xử kéo dài thêm ba tuần nữa, vì những người thực hiện bãi nhiệm ở hạ viện và đồng minh cố tìm cách thuyết phục thêm nhiều thượng nghị sĩ phe Cộng hòa bỏ phiếu cùng họ. Sau khi hai bên đã trình bày xong, có thể thấy rằng tất cả thượng nghị sĩ phe Dân chủ và một vài người phe Cộng hòa sẽ bỏ phiếu không chấp thuận.

Trong khi thượng viện họp lại để xét xử, thì tôi đang làm những việc vẫn thường làm vào thời điểm đó hằng năm - chuẩn bị bài diễn văn Thông điệp Liên bang và thúc đẩy các sáng kiến mới có thể có trong thông điệp. Theo kế hoạch bài diễn văn diễn ra vào ngày 19, cùng ngày với ngày tôi bào chữa trước thượng viện. Một số thượng nghị sĩ Cộng hòa đã giục tôi hoãn bài diễn văn, nhưng tôi không định làm điều đó. Bãi nhiệm đã làm người dân nước Mỹ mất rất nhiều đôla tiền thuế mà họ chật vật mới kiếm ra, làm quốc hội xao nhãng thúc đẩy công việc và làm suy yếu kết cấu hiến pháp. Nếu tôi hoãn bài diễn văn của mình chẳng khác nào đã gửi thông điệp đến người dân nước Mỹ rằng công việc của họ đã bị bỏ qua một bên.

Nếu có thể, bầu không khí trong dịp công bố Thông điệp Liên bang này thậm chí còn khác thường hơn năm trước. Như thường lệ, tôi đến tòa nhà quốc hội và được đưa đến khu vực của Chủ tịch hạ viện, lúc này là Dennis Hastert của tiểu bang Illinois, một cựu huấn luyện viên đấu vật với thân hình chắc nịch, là người bảo thủ nhưng ít hung hăng và hiếu chiến hơn Gingrich, Armey và DeLay. Chẳng bao lâu, đoàn đại biểu lưỡng đảng gồm các thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ đến đưa tôi đến phòng hạ viện. Chúng tôi bắt tay nhau và nói chuyện như thể không có chuyện gì xảy ra. Khi tôi được giới thiệu và bắt đầu đi xuống lối đi ở giữa, những người Dân chủ lớn tiếng cổ vũ trong khi hầu hết những người bên phe Cộng hòa lịch sự vỗ tay. Vì lối đi ngăn cách phe Cộng hòa và Dân chủ nên vừa đi xuống diễn đàn tôi vừa chìa tay với những người phía bên Dân chủ, và thật ngạc nhiên, cho dù lý do gì đi nữa, một vài thành viên hạ viện phe Cộng hòa cũng đưa tay ra.

Tôi bắt đầu bằng một lời chào Chủ tịch hạ viện mới, người đã nói ông ấy muốn làm việc với những người phe Dân chủ với một tinh thần văn minh và lưỡng đảng. Có thể đúng là ông ấy có ý như vậy, bởi việc bỏ phiếu bãi nhiệm ở hạ viện diễn ra trước khi ông ấy lên làm chủ tịch. Vì thế, tôi chấp nhận lời đề nghị của ông ấy.

Cho tới năm 1999, nền kinh tế của chúng ta phát triển mạnh nhất trong lịch sử, với 18 triệu việc làm kể từ khi tôi nhậm chức, tiền lương thực sự tăng lên, khoảng cách về thu nhập cuối cùng đã được thu hẹp chút ít, và đây là thời kỳ có tỷ lệ thất nghiệp thời bình thấp nhất kể từ năm 1957. Đất nước thống nhất hơn bao giờ hết, và tôi vạch ra một chương trình tận dụng tốt nhất điều này, bắt đầu bằng một loạt sáng kiến nhằm bảo đảm chê độ hưu trí xứng đáng cho thế hệ baby-boom. Tôi đề nghị cam kết dành 60% số thặng dư trong 15 năm tiếp theo để tăng cường khả năng thanh toán cho Quỹ ủy thác an sinh xã hội đến năm 2055, một sự gia tăng trong hơn 20 năm, một phần nhỏ trong đó sẽ được đầu tư cho các quỹ khác; xóa bỏ giới hạn những thứ người hưởng an sinh xã hội có thể kiếm được mà không bị phạt; và chi trả rộng rãi hơn cho phụ nữ già yếu, số người này gấp đôi nam giới cùng độ tuổi phải sống trong nghèo đói. Tôi cũng đề nghị sử dụng 16% số thặng dư để kéo dài hoạt động của Quỹ ủy thác Medicare thêm 10 năm nữa; một khoản tín dụng thuế dài hạn trị giá 1.000 đôla Mỹ cho người già và người tàn tật; dành cho người ở độ tuổi 55 đến 65 quyền lựa chọn tham gia chương trình Medicare; và một sáng kiến tiền lương hưu mới, Tài khoản nước Mỹ, sẽ chiếm khoảng 11% số thặng dư nhằm cung cấp các khoản tín dụng thuế cho những công dân mở tài khoản hưu trí, và tăng tiền tiết kiệm của công nhân có thu nhập khiêm tốn hơn. Đây có lẽ là đề nghị lớn nhất từng được đưa ra nhằm giúp các gia đình có nhu nhập khiêm tốn tiết kiệm và làm giàu.

Tôi cũng đề nghị một gói lớn dành cho cải cách giáo dục, với lập luận rằng chúng ta nên thay đổi cách thức chi tiêu hơn 15 tỷ đôla mỗi năm cho trợ cấp giáo dục để "hỗ trợ những gì có hiệu quả và không ủng hộ cho những gì không có hiệu quả" bằng việc yêu cầu các tiểu bang chấm dứt nạn "cứ đến tuổi thì cho lên lớp", hồi phục hoặc đóng cửa các trường thất bại, cải thiện chất lượng của đội ngũ giáo viên, phát hành các thẻ báo cáo cho mỗi trường, và thông qua các chính sách kỷ luật hợp lý. Một lần nữa tôi yêu cầu quôc hội cung câp tài chính để xây dựng hoặc hiện đại hoá 5.000 trường học và thông qua việc tăng sáu lần số học bổng đại học và cao đẳng cho các sinh viên cam kết dạy ở các vùng còn thiếu thốn.

Nhằm hỗ trợ thêm cho các gia đình, tôi đề nghị tăng lương tối thiểu, gia tăng ngày nghỉ cho gia đình, tín dụng thuế để chăm sóc trẻ em, và khóa cò súng/hạn chế súng để trẻ em không thể vô ý bắn súng. Tôi cũng yêu cầu quốc hội thông qua đạo luật Bình đẳng Lương và Tuyển dụng; thành lập một Công ty Đầu tư Tư nhân Mỹ mới nhằm giúp quyên 15 tỷ đôla để tạo ra cơ hội làm ăn và việc làm mới ở các cộng đồng nghèo khó; ban hành đạo luật Thương mại và Phát triển châu Phi nhằm mở rộng thị trường cho các sản phẩm của châu Phi; và tài trợ một tỷ đôla cho sáng kiến Di sản Đất nhằm bảo vệ gia tài thiên nhiên, và trọn gói cắt giảm thuế, và tiền nghiên cứu trọn gói để chống lại hiện tượng nóng lên toàn cầu.

Về an ninh quốc gia, tôi yêu cầu chi ngân sách để bảo vệ mạng máy tính trước khủng bố, và bảo vệ cộng đồng khỏi những cuộc tấn công sinh hoá học; tăng cường nghiên cứu tìm ra các loại vắc xin và điều trị bệnh; hỗ trợ hai phần ba chi phí cho chương trình an toàn hạt nhân Nunn-Lugar; ủng hộ hiệp định sông Wye; và đảo ngược việc giảm chi phí quân sự đã bắt đầu từ hồi cuối Chiến tranh Lạnh.

Trước khi kết thúc, tôi tán dương Hillary vì khả năng lãnh đạo của cô ấy trong Dự án Thiên niên kỷ và đại diện hoàn hảo của nước Mỹ trước thế giới. Cô ấy đang ngồi ở khu vực của mình cùng với ngôi sao bóng chày của đội Chicago Cubs, Sammy Sosa, người đã cùng đi với cô ấy trong chuyến đi gần đây về quê anh - Cộng hòa Dominica. Sau những gì cô ấy đã trải qua, Hillary nhận được tràng vỗ tay còn lớn hơn cả dành cho Sammy. Tôi kết thúc "Thông điệp Liên bang cuối cùng của thế kỷ 20" bằng việc nhắc nhở quốc hội rằng "có lẽ, chìm lấp trong sự bận rộn thường nhật, trong các tranh cãi ồn ào, chúng ta đã không thấy được thời điểm của chúng ta chính là một bình minh mới cho nước Mỹ".

Ngày hôm sau, với tỷ lệ ủng hộ cao nhất mà tôi từng đạt được, tôi bay đến Buffalo cùng Hillary và Al và Tipper Gore, để nói chuyện với đảm đông chật ních hơn 20.000 người tại Công viên Hải dương Midland. Một lần nữa, bất chấp những việc đang diễn, Thông điệp Liên bang, với chương trình nghị sự kín mít cho năm sắp tới, đã hòa cùng một nhịp với người dân nước Mỹ.

Tôi kết thúc tháng giêng với bài diễn văn quan trọng tại Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia, phác thảo đề nghị bảo vệ nước Mỹ trước các cuộc khủng bố bằng các vũ khí sinh hóa học và khủng bố mạng- một chuyên về nhà ở Little Rock chứng kiến những đổ nát sau cơn bão trong khu vực, một số cây già đã bị bật gốc trong khuôn viên dinh thống đốc; chuyến thăm đến St. Louis để chào đón Giáo hoàng John Paul II trở lại nước Mỹ; gặp gỡ đoàn đại biểu quốc hội lưỡng đảng ở Phòng phía Đông để thảo luận về tương lai của chương trình An sinh xã hội và Medicare; và buổi lễ tưởng niệm bạn tôi, Thống đốc Lawton Chiles của tiểu bang Florida vừa đột ngột qua đời cách đó không lâu. Lawton đã khích lệ tôi trước các trận đấu hiện tại bằng một câu nói yêu thích của anh ấy: Nếu chạy không lại con chó lớn thì bạn nên đứng trước cửa nhà thôi.

Ngày 7 tháng 2, Vua Hussein đã thất bại trong cuộc chiến chống ung thư. Hillary và tôi ngay lập tức lên đường đi Jordan với một phái đoàn có các Tổng thống Ford, Carter và Bush. Tôi rất cảm kích vì họ đã đi cùng, dù thời gian gấp gáp, để tôn vinh một người mà chúng tôi đã từng cùng làm việc và rất ngưỡng mộ. Ngày hôm sau chúng tôi đi bộ gần một dặm trong tang lễ, tham dự buổi lễ tưởng niệm và bày tỏ sự kính trọng tới Hoàng hậu Noor đang rất đau buồn. Cả Hillary và tôi cũng buồn. Chúng tôi đã có khoảng thời gian tuyệt vời bên Vua Hussein và Hoàng hậu Noor ở Jordan và Mỹ. Tôi còn nhớ những giây phút vui vẻ trong bữa ăn có bốn chúng tôi ở Ban công Truman của Nhà Trắng không lâu trước khi ông qua đời. Bây giờ ông đã ra đi, và thế giới bỗng cô quạnh hơn.

Sau cuộc gặp với quốc vương mới, Abdullah, con của Vua Hussein, cũng như với Thủ tướng Netanyahu, Tổng thống Assad, Tổng thống Mubarak, Tony Blair, Jacques Chirac, Boris Yeltsin và Tổng thống Suleyman Demirel của Thổ Nhĩ Kỳ, tôi bay về nhà chờ đợi cuộc bỏ phiếu của thượng viện về tương lai của tôi. Mặc dù kết quả không còn nghi ngờ gì nữa, nhưng thủ đoạn phía sau cánh gà rất thú vị. Một vài thượng nghị sĩ phe Cộng hòa rất giận các hạ nghị sĩ Cộng hòa vì đã bắt họ trải qua phiên xét xử, nhưng bất cứ khi nào cánh hữu gia tăng sức ép thì hầu hết họ đều chùn bước và tiếp tục kéo lê thê sự việc. Khi Thượng nghị sĩ Robert Byrd đề nghị bác bỏ cáo buộc vì chẳng có giá trị gì, cộng sự của David Kendall, là Nicole Seligman, đã tranh luận theo luật và sự kiện mà hầu hết thượng nghị sĩ đều biết là không thể tranh cãi. Tuy nhiên, đề nghị của Byrd đã thất bại. Khi Thượng nghi sĩ Strom Thurmond nói với các đồng nghiệp phe Cộng hòa trước đó rằng không có đủ phiếu để cách chức tôi và quá trình này nên dừng lại, ý kiến của ông đã bị bãi bỏ trong cuộc họp kín của phe Cộng hòa.

Một thượng nghị sĩ Cộng hòa phản đối bãi nhiệm đã cho chúng tôi biết sự việc giữa các đồng nghiệp của ông ấy. Vài ngày trước cuộc bỏ phiếu, ông ấy nói rằng chỉ có 30 người phe Cộng hòa bỏ phiếu ủng hộ buộc tội khai man trước tòa và 40 đến 45 phiếu ủng hộ buộc tội ngăn cản công lý. Họ chưa đạt được hai phần ba số phiếu cần thiết mà Hiến pháp yêu cầu để bãi nhiệm tổng thống. ít ngày trước cuộc bỏ phiếu, ông ấy nói với chúng tôi rằng các hạ nghị sĩ Cộng hòa đã nói họ sẽ rất nhục nhã nếu không lời cáo buộc nào đạt được đa số phiếu cần thiết, và các đồng nghiệp thượng viện tốt nhất là đừng làm họ bẽ mặt nếu muốn hạ viện vẫn nằm trong tay phe Cộng hòa sau cuộc bầu cử tiếp theo. Ông ấy báo rằng họ sẽ phải cắt giảm số phiếu "không ủng hộ" của phe Cộng hòa xuống.

Ngày 12 tháng 2, đề nghị bãi nhiệm đã thất bại. Bổ phiếu cho tội khai man trước tòa đã thất bại vì thiếu 22 phiếu, tỷ lệ 45-55, bỏ phiếu cho tội ngăn cản công lý cũng thất bại vì thiếu 17 phiếu, tỷ lệ 50-50. Tất cả các Thượng nghị sĩ phe Dân chủ, và Thượng nghị sĩ Cộng hòa Olympia Snowe và Susan Collins của bang Maine, Jim Jeffords của bang Vermont, Arlen Specter của bang Pennsylvania và John Chafee của Rhode Island bỏ phiếu không cho cả hai tội. Các Thượng nghị sĩ Richard Shelby của bang Alabama, Slade Gorton của bang Washington, Ted Stevens của bang Alaska, Fred Thompson của bang Tennessee, và John Warner của bang Virginia bỏ phiếu không cho tội khai man trước tòa.

Bản thân cuộc bỏ phiếu không còn gay cấn nữa vì nó diễn ra ba tuần sau khi tôi kết thúc lời biện hộ. Chỉ có việc nó thất bại thảm hại tới cỡ nào là không chắc chắn. Tôi nhẹ nhõm vì gia đình và đất nước tôi đã tai qua nạn khỏi. Sau cuộc bỏ phiếu, tôi nói rằng tôi thành thật xin lỗi vì những gì đã làm dẫn đến cuộc bỏ phiếu và gánh nặng cho người dân nước Mỹ, và rằng tôi đang tái cống hiến bản thân cho "một thời kỳ hòa giải và tái tạo cho nước Mỹ". Khi được hỏi: "Thưa ngài trong trái tim ngài, ngài có thể tha thứ và quên đi không?". Tôi đã trả lời: "Tôi tin rằng bất cứ ai yêu cầu sự tha thứ đều phải được chuẩn bị sẵn sàng tha thứ".

Sau thử thách bãi nhiệm, mọi người thường hỏi tôi đã vượt qua thách thức như thế nào mà không mất bình tĩnh, hay ít nhất vẫn còn khả năng tiếp tục làm việc. Tôi đã không thể làm được điều đó nếu như nội các và nhân viên trong Nhà Trắng, kể cả những người giận dữ và thất vọng về hành vi của tôi, không ở bên cạnh tôi. Sẽ khó khăn hơn nhiều nếu người dân nước Mỹ không sớm đưa ra lời đánh giá rằng tôi vẫn nên tiếp tục làm tổng thống. Nếu nhiều thành viên phe Dân chủ trong quốc hội bỏ cuộc hồi tháng giêng sau khi câu chuyên vỡ lở, lúc có vẻ như bỏ cuộc là an toàn nhất, hoặc vào tháng 8, sau khi tôi ra đối chứng trước đại bồi thẩm đoàn, thì mọi chuyện sẽ khó khăn hơn nhiều; nhưng thay vào đó, họ đã đối mặt với thách thức. Sự ủng hộ của các nhà lãnh đạo thế giới như Mandela, Blair, Vua Hussein, Havel, Thái tử kế nhiệm Abdullah, Kim Dae Jung, Chirac, Cardoso, Zedillo, và những người khác mà tôi ngưỡng mộ đã giúp tôi giữ vững tinh thần. Khi so sánh họ với những kẻ thù của tôi, dù tôi vẫn rất ghê tởm mình, tôi hiểu ra rằng con người mình không phải hoàn toàn xâu.

Tình yêu và sự ủng hộ của bạn bè và những người lạ đã tạo ra khác biệt lớn; những người đã viết thư cho tôi hoặc nói những lời tử tế trước đám đông đã có ý nghĩa với tôi nhiều hơn họ tưởng. Các vị lãnh đạo tôn giáo, những người luôn khuyên răn tôi, đến thăm tôi tại Nhà Trắng, hoặc gọi điện để cầu nguyện cho tôi, nhắc tôi rằng bất kể những lời kết tội mà tôi nhận được từ đâu đó như thế nào, Chúa vẫn là sự yêu thương.

Nhưng nhân tố lớn nhất giúp tôi sống sót và tiếp tục làm việc lại thuộc về cá nhân. Các anh trai của Hillary và em trai tôi đã hỗ trợ tôi thật tuyệt vời. Roger đã đùa với tôi rằng thật là vui khi cuối cùng nó không phải là người duy nhất trong hai anh em gặp rắc rối. Hugh tuần nào cũng từ Miami đến chơi giải ô chữ, nói chuyện về thể thao và chọc tôi cười. Tony đến chơi đánh bài pinochle với gia đình tôi. Mẹ vợ và Dick Kelley đối xử rất tử tế với tôi.

Bất chấp mọi chuyện, con gái tôi vẫn yêu tôi và muôn tôi đứng vững. Và, quan trọng nhất là Hillary đã ở bên tôi và vẫn yêu tôi, cùng trải qua mọi chuyên. Ngay từ lần đầu gặp nhau, tôi đã yêu nụ cười của cô ấy. Trong khi mọi chuyên kỳ cục vẫn tiếp diễn, chúng tôi lại cùng cười với nhau, các buổi tư vấn hàng tuần và chia sẻ quyết tâm chiến thắng nhóm cánh hữu đã đưa chúng tôi lại gần nhau. Tôi hầu như đã hồi phục, và tôi biết ơn những kẻ đã hành hạ mình: có thể họ là những người duy nhất làm cho tôi trông tử tế trước Hillary một lần nữa. Thậm chí tôi không còn phải ngủ trên ghế sofa nữa.

Trong suốt thời gian dài từ khi lấy lời khai trong vụ kiện của Jones đến khi được tuyên bố vô tội tại thượng viện, hầu như đêm nào ở nhà trong Nhà Trắng, tôi cũng dành hai đến ba tiếng ở một mình trong văn phòng, đọc Kinh thánh và những cuốn sách về lòng chung thuỷ và sự tha thứ, và đọc lại The Imitation of Christ - Sự bắt chước của Chúa của nhà văn Thomas à Kempis, Meditations - Sự suy ngẫm của Marcus Aurelius, và một số bức thư đầy suy tư nhất mà tôi đã nhận được, trong đó có một loạt bài giảng đạo ngắn của thầy tu Do Thái giáo Menachem Genack ở Englewood, bang New Jersey. Tôi đặc biệt bị ảnh hưởng bởi cuốn Seventy Times Seven - Bảy mươi lần bảy, một cuốn sách viết về sự tha thứ của Johann Christoph Arnold, một người lớn tuổi của Bruderhof, một cộng đồng Thiên Chúa giáo có thành viên ở vùng đông bắc nước Mỹ và ở Anh.

Tôi vẫn còn giữ lại những bài thơ, lời nguyện cầu và những lời trích dẫn mà mọi người đã gửi cho tôi hay đưa tận tay tôi tại các sự kiện công cộng. Và tôi có hai viên đá có khắc tiết John 8:7 trong Tân ước. Trong dịp được cho là lần chạm trán cuối cùng của Chúa Jesus với những kẻ chỉ trích người là những tín đồ giáo phái Fari, họ đưa đến trước Chúa một phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình và nói rằng luật của Moses ra lệnh họ ném đá cô ta đến chết. Họ chế nhạo Chúa Jesus: "Ngài nói gì đi chứ?". Thay vì trả lời, Chúa cúi xuống và dùng tay viết trên đất, như thể không nghe họ nói gì. Khi họ tiếp tục hỏi, Chúa đứng dậy và nói: "Ai trong số các con chưa hề phạm tội hãy ném viên đá đầu tiên vào cô ta". Những ai nghe lời Chúa nói "đều thấy cắn rứt lương tâm, từng người một bỏ đi, từ người lớn tuổi nhất đến người cuối cùng". Khi Chúa còn lại một mình với người phụ nữ kia, Chúa đã hỏi cô ta: "Những người buộc tội con đâu rồi? Không còn ai kết tội con sao?". Cô ấy trả lời: "Không, lạy Cha", và Chúa đã trả lời: "Ta cũng không kết tội con".

Tôi đã bị ném đá rất nhiều, và bằng vết thương tự gây ra, tôi đã bị phơi bày cho cả thế giới. Theo cách nào đó, đó là sự giải phóng; tôi không còn gì nữa. Và khi tôi cố gắng tìm hiểu tại sao mình lại mắc sai lầm như vậy, tôi cũng muốn biết tại sao các đối thủ của tôi lại đầy hận thù như vậy, và hăm hở đến thế khi nói và làm những việc đi ngược lại quan niệm đạo đức của chính họ. Tôi đã luôn ghen tức quan sát người khác đang nỗ lực phân tích tâm lý của tôi, nhưng tôi cảm thấy nhiều lời chỉ trích chua cay nhất của các nhóm chính trị và tôn giáo cánh hữu và hầu hết các thành viên ưa chỉ trích của báo giới đã tìm thấy sự an toàn và an ninh trong các quan điểm, nơi họ có thể phán xét và không bị phán xét, gây tổn thương và không bị thương tổn.

Ý thức về sự không trường tồn, sự yếu đuối của con người và tình yêu thương vô điều kiện mà tôi có từ hồi còn nhỏ đã ngăn tôi đánh giá và kết tội người khác. Và tôi tin sai lầm cá nhân của tôi, cho dù lớn đến mức nào, cũng không đe dọa chính quyền dân chủ của chúng ta bằng mối đe dọa từ sự ham muốn quyền lực của những kẻ kết tội tôi. Cuối tháng giêng, tôi nhận được một lá thư cảm động của Bill Ziff ở New York, một thương gia tôi chưa từng gặp mặt nhưng con ông là bạn tôi. Ông ấy nói rất thông cảm với nỗi đau mà Hillary và tôi đang phải chịu đựng, nhưng những điều tốt đẹp cũng từ đó mà ra, bởi người dân nước Mỹ đã thể hiện sự chín chắn và đánh giá đúng khi nhìn ra "trong số các giáo sĩ có kẻ đã biến thành quỷ dữ. Dù không cố ý, anh đã phơi bày âm mứu của họ hơn bất cứ tổng thống nào trong lịch sử, kể cả Tổng thống Roosevelt".

Cho dù động cơ của kẻ thù là gì đi nữa, có một điều rõ ràng, vào những đêm đơn độc trong văn phòng trên lầu, rằng nếu muốn được người khác đồng cảm, thì tôi phải thể hiện sự đồng cảm trước, ngay cả đối với những người không đáp lại. Ngoài ra, tôi còn than phiền gì nữa? Tôi sẽ không bao giờ là người hoàn hảo, nhưng Hillary đã cười trở lại, Chelsea vẫn học tốt ở Stanford, tôi vẫn đang làm công việc mà tôi yêu thích và mùa xuân lại đến.