← Quay lại trang sách

Chương 52

Ngày 19 tháng 2, một tuần sau cuộc bỏ phiếu tại thượng viện, tôi đưa lệnh ân xá truy tặng đầu tiên do tổng thống ký trong lịch sử cho Henry Flipper, người da đen đầu tiên tốt nghiệp trường West Point đã bị kết án oan về cách cư xử không xứng đáng với một sĩ quan do màu da của mình từ 117 năm trước. Những hành động như vậy của một tổng thống dường như không quan trọng so với sức nặng của những vấn đề hiện tại, nhưng cũng đủ để sửa chữa sai lầm của lịch sử, không chỉ cho hậu duệ của những người đã mắc sai lầm mà cho tất cả chúng ta.

Tuần cuối cùng của tháng 2, Paul Begala tuyên bố rời Nhà Trắng. Tôi đã rất hài lòng khi Paul làm việc ở đây, bởi anh ấy luôn ở bên tôi từ khi chúng tôi ở New Hampshire, một con người rất thông thái, vui tính, thiện chiến và vô cùng hiệu quả. Anh còn con nhỏ muốn có nhiều thời gian hơn bên người cha của mình. Paul đã cùng tôi vượt qua cuộc chiến bãi nhiệm; và bây giờ anh ấy muốn ra đi.

Tin tức duy nhất trong vụ Whitewater là cuộc bỏ phiếu quá chênh lệch tại Hiệp hội Luật sư Mỹ, với tỉ lệ 384-49, về nghị quyết bãi bỏ luật công tố viên độc lập, và một bài báo nói rằng, Bộ Tư pháp đang tiến hành điều tra liệu Kenneth Starr có lừa dối Janet Reno hay không về sự dính líu của văn phòng của ông ta vào vụ kiện của Jones, và về những lý do mà ông ta đã đưa ra cho Bộ Tư pháp nhằm kéo Lewinsky vào vụ này.

Tháng 3 khởi đầu với một tuyên bố rằng sau nhiều tháng đàm phán khó khăn, chính phủ đã thành công trong việc bảo tồn khu vưc rừng tùng bách lâu đời rộng lớn nhất thế giới Headwater ở bắc California vốn không được bảo vệ trước đây. Tuần tiếp theo, tôi thực hiện chuyến thăm bốn ngày tới Nicaragua, El Salvador, Honduras và Guatemala để nhấn mạnh kỷ nguyên hợp tác Dân chủ Mới trong khu vực mà, trước đây không lâu, Mỹ đã ủng hộ những chế độ đàn áp nhân quyền miễn là những chế độ này chống Cộng. Chứng kiến những đổi thay sau các vụ thiên tai có sự giúp đỡ từ quân đội Mỹ, đọc diễn văn trước quốc hội El Salvador nơi những cựu thù trong cuộc nội chiến đẫm máu gần đây giờ cùng ngồi lại trong hòa bình, và nói lời xin lỗi về những hành động của Mỹ trong quá khứ trên đất nước Guatemala - tất cả những điều này đối với tôi dường như là những dấu hiệu của một kỷ nguyên tiến bộ dân chủ mà tôi đã cam kết sẽ hết lòng ủng hộ.

Khi tôi trở về, chúng tôi lại chuyển sang một cuộc chiến tranh khác ở khu vực Balkan, lần này là ở Kosovo. Người Serbia đã phát động cuộc tấn công chống lại những người Kosovo gốc Albania phiến loạn một năm trước, giết hại rất nhiều dân thường vô tội; một số phụ nữ và trẻ em đã bị thiêu ngay trong nhà mình. Hành động khiêu chiến mới đây nhất của Serbia lại gây ra làn sóng tị nạn mới và càng thổi bùng lên ước muốn độc lập của người gốc Albania ở Kosovo. Sự giết chóc khiến người ta liên tưởng đến những ngày đầu ở Bosnia, là nơi, cũng giống như Kosovo, nằm ở ranh giới giữa người Hồi giáo châu Âu và những người Cơ đốc giáo chính thống Serbia, lằn ranh nơi trong 600 năm qua vẫn thường xuyên xảy ra xung đột.

Năm 1974, Tito cho Kosovo quyền tự trị, cho phép nơi đây có chính phủ riêng và quyền kiểm soát tất cả các trường học. Năm 1989, Milosevic đã tước đi quyền tự trị. Kể từ đó, tình trạng căng thẳng ngày càng gia tăng, và đã bùng nổ sau khi Bosnia được độc lập năm 1995. Tôi quyết tâm không để Kosovo trở thành một Bosnia khác. Và Madeleine Albright cũng vậy.

Cho tới tháng 4 năm 1998, Liên hiệp quốc đã áp dụng cấm vận vũ khí đối với Serbia, Mỹ và các đồng minh đã áp dụng cấm vận kinh tế do Serbia thất bại trong việc chấm dứt tình trạng thù nghịch và khởi động đối thoại với người gốc Albania ở Kosovo. Đến giữa tháng 6, NATO bắt đầu lên kế hoạch cho hàng loạt các phương án hành động quân sự để chấm dứt bạo lực. Mùa hè sang, Dick Holbrooke trở lại khu vực với nỗ lực tìm kiếm giải pháp ngoại giao cho cuộc đối đầu.

Giữa tháng 7, các lực lượng Serbia lại tấn công người Kosovo có vũ trang và không vũ trang, bắt đầu một mùa hè lấn chiếm, buộc 300.000 người gốc Albania ở Kosovo phải rời bỏ nhà cửa. Cuối tháng 9, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc thông qua một nghị quyết khác yêu cầu chấm dứt tình trạng thù nghịch, và cuối tháng, chúng tôi cử Holbrooke tới Belgrade để thuyết phục Milosevic.

Ngày 13 tháng 10, NATO đe dọa tấn công Serbia trong vòng bốn ngày nếu nghị quyết của Liên hiệp quốc không được thi hành. Các cuộc không kích đã bị hoãn lại khi bốn ngàn cảnh sát đặc nhiệm của Nam Tư rút khỏi Kosovo. Tình hình được cải thiện trong một thời gian, nhưng vào tháng giêng năm 1999, người Serbia lại tiếp tục giết hại thường dân vô tội ở Kosovo, và dường như các cuộc không kích của NATO là không thể tránh khỏi. Chúng tôi quyết định tiếp tục cố gắng dùng ngoại giao thêm một lần nữa, nhưng tôi không mấy lạc quan. Mục tiêu của các bên khác xa nhau. Mỹ và NATO muốn Kosovo có quyền tự trị về chính trị như đã từng có theo hiến pháp của Nam Tư từ 1974 tới 1989, cho đến khi Milosevic tước bỏ, và chúng tôi mong muốn lực lượng gìn giữ hòa bình do NATO đứng đầu sẽ đảm bảo hòa bình và an toàn cho người dân Kosovo, gồm cả người thiểu số Serbia. Milosevic thì muốn giữ quyền kiểm soát Kosovo, và chống lại việc triển khai quân đội của bất cứ lực lượng bên ngoài nào. Người gốc Albania ở Kosovo muốn độc lập. Bản thân họ cũng bị chia rẽ. Ibrahim Rugova, đứng đầu chính phủ ngầm là một người ăn nói nhỏ nhẹ, thích quàng khăn quanh cổ. Tôi tin rằng chúng tôi có thể đạt được một hiệp ước hòa bình với ông ấy, nhưng không chắc chắn lắm về phe cánh lớn còn lại ở Kosovo, Quân đội Giải phóng Kosovo (KLA) do một người trẻ tuổi, Hacim Thaci, đứng đầu. KLA muốn độc lập và tin rằng họ thực sự có thể ăn thua đủ với quân đội Serbia.

Các bên đã gặp nhau ở Rambouillet, Pháp, vào ngày 6 tháng 2 nhằm vạch ra các chi tiết cho bản hiệp định giúp phục hồi quyền tự trị, hoạt động do NATO thực hiện để bảo vệ người dân Kosovo, giải giáp vũ khí KLA, và cho phép quân đội Serbia tiếp tục tuần tra tại khu vực biên giới. Madeleine Albright và đồng nhiệm người Anh, Robin Cook, ráo riết theo đuổi chính sách này. Sau một tuần đàm phán do Đại sứ Mỹ Chris Hill và các đồng nhiệm ở Liên minh châu Âu và Nga thực hiện, Madeleine nhận thấy quan điểm của chúng tôi bị cả hai bên chống đối: người Serbia không đồng ý với lực lượng gìn giữ hòa bình NATO, và người dân Kosovo không muốn tự trị trừ phi họ được phép tổ chức trưng cầu dân ý về khả năng độc lập. Và KLA không lấy gì làm vui vì phải giải giáp vũ khí, một phần là bởi họ không dám chắc có nên-dựa vào lực lượng của NATO để bảo vệ mình hay không. Nhóm phụ trách vấn đề này của chúng tôi quyết định soạn thảo một bản hiệp định theo cách có thể trì hoãn cuộc trưng cầu dân ý nhưng sẽ không chối bỏ nó vĩnh viễn.

Ngày 23 tháng 2, người gốc Albania ở Kosovo, kể cả Thaci, chấp nhận bản hiệp định trên nguyên tắc, trở về nước để phổ biến cho người dân, và vào giữa tháng 3, họ tới Paris để ký kết văn bản hoàn chỉnh. Người Serbia tẩy chay buổi lễ khi 40.000 lính Serbia tập trung ở và quanh Kosovo, còn Milosevic thì nói, ông ta sẽ không bao giờ cho phép binh lính nước ngoài trên đất Nam Tư. Tôi cử Dick Holbrooke quay lại gặp ông ta lần cuối, nhưng ngay cả Dick cũng không thể làm ông ta nhúc nhích.

Ngày 23 tháng 3, sau khi Holbrooke rời Belgrade, Tổng thư ký NATO Javier Solana, được sự ủng hộ hoàn toàn, ra lệnh cho tướng Wes Clark bắt đầu các cuộc không kích. Cùng ngày, với tỉ lệ phiếu đa số lưỡng đảng, 58-49, thượng viện bỏ phiếu ủng hộ hành động trên. Trước đó, đầu tháng, hạ viện đã biểu quyết với tỉ lệ 219-191 ủng hộ cử binh sĩ Mỹ tới Kosovo nếu đạt được một hiệp định hòa bình. Trong số những đảng viên Cộng hòa nổi bật bỏ phiếu ủng hộ kế hoạch này có Chủ tịch hạ viện mới Dennis Hastert, và Henry Hyde. Khi nghị sĩ Hyde nói rằng nước Mỹ cần phải đứng lên chống lại Milosevic và nạn thanh trừng sắc tộc, tôi mỉm cười và tự nhủ có lẽ Giáo sư Jekyll cuối cùng đã xuất hiện (chơi chữ - dựa trên cuốn sách Dr. Jekyll và Dr. Hyde của tác giả người Scotland Robert Louis Stevenson viết về đa nhân cách, ý nói phần người tốt trong con người Hyde đã xuất hiện - ND).

Khi đa số tại quốc hội, tất cả các đồng minh của NATO đều ủng hộ các cuộc không kích thì Nga lại không đồng ý. Thủ tướng Yevgeny Primakov đang trên đường tới Mỹ để gặp gỡ Al Gore. Khi Al cho hay cuộc tấn công của NATO nhằm vào Nam Tư sắp diễn ra, Primakov ra lệnh cho máy bay quay đầu và đưa ông về Moscow.

Ngày 24, tôi đọc diễn văn trước người dân Mỹ về những việc đang làm và nguyên nhân của nó. Tôi giải thích rằng Milosevic đã tước bỏ quyền tự trị của người dân Kosovo, chối bỏ các quyền được hiến pháp bảo vệ như sử dụng ngôn ngữ của mình, có trường học và chinh quyền riêng. Tôi mô tả sự tàn ác của người Serbia: giết hại dân thường, đốt phá làng mạc, và khiến người dân ly tán, 6.000 người trong vòng năm tuần trở lại đây, tổng cộng là 1/4 triệu người. Sau cùng, tôi đặt những sự kiện đang diễn ra trong bối cảnh các cuộc chiến tranh chống lại Bosnia và Croatia mà Milosevic đã tiến hành, và cả những hậu quả hủy hoại từ việc giết chóc của ông ta đối với tương lai châu Âu.

Chiến dịch không kích nhằm ba mục tiêu, cho Milosevic thấy chúng tôi rất nghiêm túc muốn chấm dứt thanh trừng sắc tộc, ngăn chặn cuộc tấn công thậm chí còn đẫm máu hơn nhằm vào dân thường vô tội tại Kosovo, và, nếu Milosevic không chịu đầu hàng sớm, chúng tôi sẽ sớm phá hủy nghiêm trọng sức mạnh quân sự của người Serbia.

Đêm hôm đó các cuộc không kích của NATO bắt đầu. Các cuộc không kích này kéo dài 11 tuần, khi Milosevic tiếp tục giết hại người gốc Albania ở Kosovo và khiến gần một triệu người phải ly tán. Các trận dội bom gây thiệt hại nghiêm trọng cho cơ sở hạ tầng quân sự và kinh tế của Serbia. Hỡi ôi, các cuộc tấn công này đôi khi đi lạc mục tiêu và cướp đi sinh mạng của những con người mà chúng tôi đang ra sức bảo vệ.

Một số người tranh luận rằng quan điểm của chúng tôi đã dễ biện hộ hơn nếu chúng tôi đưa bộ binh vào. Lập luận này có hai vấn đề. Thứ nhất, nếu chờ đến lúc đưa bộ binh vào đủ đúng chỗ và có sự hỗ trợ thích hợp, thì người Serbia đã gây ra những hậu quả khôn lường. Thứ hai, tổn thất dân thường một chiến dịch trên bộ có thể còn lớn hơn so với số người chết vì bom ném chệch mục tiêu. Đối với tôi, việc phải lựa chọn phương án có thể làm thiệt mạng nhiều binh sĩ Mỹ hơn mà vẫn không đảm bảo chắc chắn chiến thắng hơn là không thuyết phục lắm. Chiến lược này của chúng tôi có thể bị nhiều người hoài nghi, nhưng chúng tôi vẫn áp dụng nó.

Cuối tháng, khi thị trường chứng khoán đóng cửa với chỉ số hơn 10.000 điểm lần đầu tiên trong lịch sử, tăng từ 3.200 điểm kể từ khi tôi nhậm chức, tôi trả lời phỏng vấn của Dan Rather, đài CBS-TV. Sau cuộc thảo luận mở rộng về Kosovo, Dan hỏi tôi có mong muốn trở thành phu quân của một thượng nghị sĩ Mỹ hay không. Lúc này rất nhiều quan chức New York đã cùng Charlie Rangel đề nghị Hillary xem xét việc tham gia tranh cử. Tôi trả lời Rather rằng tôi không biết cô ấy sẽ làm gì, nhưng nếu cô ấy tranh cử và giành thắng lợi "thì cô ấy thật tuyệt vời".

Tháng 4, xung đột ở Kosovo gia tăng ác liệt khi chúng tôi mở rộng phạm vi thả bom xuống thành phố Belgrade, tấn công Bộ Nội vụ, đài truyền hình quốc gia Serbia, cơ quan đầu não của đảng và nhà riêng của Milosevic. Chúng tôi cũng tăng cường đáng kể hỗ trợ về tài chính và hiện diện quân sự tại nước láng giềng Albania và Macedonia để giúp họ đối phó với dòng người tị nạn đang đổ vào. Cuối tháng, khi Milosevic vẫn không chịu khuất phục, sự chống đối chính sách của chúng tôi đã dội xuống từ cả hai phía. Tony Blair và một vài thành viên trong quốc hội cho rằng đã đến lúc gửi bộ binh, trong khi hạ viện bỏ phiếu từ chối gửi quân đội khi không được quốc hội đồng ý.

Tôi vẫn tin rằng chiến dịch không kích sẽ có tác dụng, và hy vọng có thể tránh không phải gửi bộ binh đến ngoại trừ đến đó với sứ mệnh gìn giữ hòa bình. Ngày 14 tháng 4, tôi gọi cho Boris Yeltsin đề nghị quân đội Nga tham gia vào lực lượng gìn giữ hòa bình hậu xung đột, như ở Bosnia. Tôi cho rằng sự hiện diện của người Nga sẽ góp phần bảo vệ người thiểu số Serbia và có thể cho Milosevic một con đường bảo toàn danh dự trong cuộc chiến chống lại các lực lượng bên ngoài.

Rất nhiều sự kiện đã xảy ra trong tháng 4. Ngày mùng 5, Libya cuối cùng cũng giao nộp hai nghi can trong vụ đánh bom chuyên bay Pan Am 103 trên vùng trời Lockerbie, Scotland năm 1988. Những người này sẽ bị các thẩm phán người Scotland xét xử tại La Hague. Nhà Trắng đã can dự khá sâu vào vụ việc này trong nhiều năm. Tôi từng ép người Libya phải giao nộp nghi can, và Nhà Trắng từng tiếp cận các gia đình nạn nhân, cung cấp thông tin cho họ và cho phép xây dựng đài tưởng niệm người thân của họ trong Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Đó là khởi đầu cho sự tan băng trong môi quan hệ Mỹ - Libya.

Bước sang tuần lễ thứ hai trong tháng, Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ có chuyến thăm đầu tiên tới Nhà Trắng với hy vọng xóa bỏ những cản trở còn lại trên đường gia nhập vào Tổ chức Thương mại Quốc tế của nước này. Chúng tôi đã đạt được tiến bộ quan trọng trong việc thu hẹp khoảng cách, nhưng một số vấn đề vẫn chưa được khai thông, trong đó có mong muốn của chúng tôi được tiếp cận hơn nữa vào thị trường ôtô Trung Quốc, và sự khăng khăng của Trung Quốc về giới hạn 5 năm cho thỏa thuận về "tăng đột biến", theo đó Mỹ có thể giới hạn mức tăng đột ngột đối với hàng nhập khẩu Trung Quốc khi sự gia tăng này xuất hiện vì những lý do khác ngoài nguyên nhân kinh tế thông thường. Đó là vấn đề quan trọng đối với nước Mỹ do mức tăng đột ngột mà chúng tôi đã từng phải gánh chịu đối với thép nhập khẩu từ Nga, Nhật Bản và nhiều nơi khác.

Charlene Barshefsky nói với tôi rằng người Trung Quốc đã có những bước tiến dài và chúng tôi nên kết thúc thỏa thuận trong khi Chu Dung Cơ còn ở Mỹ để không làm mất uy tín của ông tại nước nhà. Madeleine Albright và Sandy Berger cũng đồng ý với Barshefsky. Những người còn lại trong nhóm phụ trách kinh tế - Rubin, Summers, Sperling và Daley - cùng với John Podesta và cố vấn luật pháp của tôi Larry Stein thì không đồng tình. Họ cho rằng nếu không có thêm tiến bộ nào, quốc hội sẽ bác bỏ thỏa thuận và xóa sạch con đường gia nhập WTO của Trung Quốc.

Tôi gặp gỡ Thủ tướng Chu Dung Cơ trong Phòng Bầu dục Vàng vào buổi tối trước khi ông bắt đầu chuyến thăm chính thức. Tôi nói thẳng với ông ấy rằng các cố vấn của tôi có những ý kiến khác nhau nhưng chúng tôi sẽ làm việc suốt đêm nếu sự việc là quan trọng để đạt được một thỏa thuận ngay khi ông ấy ở Mỹ. Ông ấy nói nếu thời điểm là chưa phù hợp thì chúng tôi có thể đợi.

Thật không may, một tin không chính xác rằng chúng tôi đã đạt được thỏa thuận bị tiết lộ, vì thế khi không có được thỏa thuận, Thủ tướng Chu Dung Cơ bị lên án vì đã nhượng bộ, còn tôi thì bị chỉ trích vì đã bỏ đi một bản hiệp định béo bở dưới sức ép của những kẻ chống đối Trung Quốc gia nhập WTO. Câu chuyện được thêm mắm muối sau một loạt bài báo chống Trung Quốc trên các phương tiện thông tin đại chúng. Luận điệu cho rằng chính phủ Trung Quốc đã đổ tiền vào chiến dịch vận động tranh cử năm 1996 của tôi vẫn chưa được giải quyết. Wen Ho Lee, một công nhân Mỹ gốc Hoa làm việc tại phòng thí nghiệm năng lượng quốc gia ở Los Alamos, New Mexico, đã bị buộc tội ăn cắp công nghệ nhạy cảm cho Trung Quốc. Tất cả các thành viên trong nội các của tôi đều muốn Trung Quốc gia nhập WTO trong năm nay; giờ đây, điều đó đã trở nên khó khăn hơn rất nhiều.

Ngày 12 tháng 4, bồi thẩm đoàn đưa ra lời tuyên án trong vụ kiện của Kenneth Starr chống lại Susan McDougal, người bị cáo buộc ngăn cản công lý và phạm tội đã liên tục từ chối trả lời chất vấn trước đại bồi thẩm đoàn. Cô ấy được tuyên bố trắng án đôi với tội cản trở công lý và, theo một số tờ báo, bồi thẩm đoàn đã bỏ phiếu với tỉ lệ 7-5 cho tuyên bố trắng án đối với tội bất tuân tòa. Đây quả là một lời tuyên án thú vị. McDougal thừa nhận rằng cô đã từ chối yêu cầu trả lời thẩm vấn của toà án bởi cô không tin tưởng Starr và người phó của ông tá là Hick Ewing. Cô khai rằng, lúc này, trong phiên tòa mở, cô sẽ vui lòng trả lời tất cả các câu hỏi mà Văn phòng công tố độc lập (OIC) từng muốn hỏi trong quá trình đại bồi thẩm đoàn bí mật. Cô nói ngay cả khi họ đưa ra đề nghị miễn tố, cô vẫn từ chối hợp tác với OIC bởi Starr và cộng sự của ông ta đã liên tục ép cô nói dối để đổ tội cho Hillary và tôi, cô ấy tin rằng nếu khai báo sự thật trước đại bồi thẩm đoàn, ông ta sẽ truy tố cô vì đã không chịu nói dối. Để tìm người bào chữa cho mình, McDougal điện thoại cho Julie Hiatt Steele, người khai rằng Starr đã từng làm y như vậy với cô ấy. Starr buộc tội cô ấy sau hai lần cô từ chối không nói dối theo ý ông ta trước đại bồi thẩm đoàn.

Chiến thắng này không thể đem lại cho Susan McDougal những năm tháng đã mất, nhưng tuyên bố trắng án cho cô ấy là một cú trượt dốc khá đau đôi với Starr, và cũng là chiến thắng ngọt ngào cho tất cả những ai đã bị ông ta phá hoại cuộc sống và tài sản.

Ngày 20, nước Mỹ lại phải gánh chịu thêm một vụ bắn súng kinh hoàng tại trường học. Tại trường Trung học Columbine ở Littleton, Colorado, hai học sinh vũ trang đầy mình nổ súng vào các bạn cùng lớp, sát hại 12 học sinh và làm bị thương hơn 20 học sinh khác, trước khi quay súng tự bắn mình. Mọi việc đã có thể còn tệ hơn thế. Một giáo viên, người sau đó chết vì bị thương quá nặng, đã đưa được nhiều học sinh đến nơi an toàn. Các bác sĩ và cảnh sát cũng cứu được thêm một số học sinh. Một tuần sau, cùng với nhóm nghị sĩ quốc hội lưỡng đảng và các thị trưởng, tôi ra tuyên bố về một số biện pháp gắt gao nhằm tránh vũ khí lọt vào tay không đúng người; áp dụng luật Brady về cấm sở hữu súng đối với vị thành niên quá khích; ngăn chặn "kẽ hở các cuộc triển lãm súng" bằng cách yêu cầu kiểm tra nhân thân đối với những người đã mua súng tại các cuộc triển lãm sự kiện như vậy chứ không mua tại các cửa hàng bán súng; truy quét đường dây buôn lậu súng trái phép; và cấm trẻ vị thành niên sở hữu súng trường tấn công. Tôi cũng đề nghị các khoản chi phí để giúp các trường học tăng cường biện pháp phòng chống bạo lực hiệu quả và các chương trình tìm giải pháp cho xung đột giống như tôi đã được chứng kiến tại trường Trung học T.C. Williams ở Alexandria, Virginia.