VIẾT THÊM
Khi ấn bản sách bìa mềm cuốn Đời tôi ra đời, Tổng thống Bush mới vừa bắt đầu nhiệm kỳ hai của ông, còn tôi cũng vừa bắt đầu "nhiệm kỳ hai" của mình với tư cách cựu tổng thống. Trong bốn năm qua, tôi đã tìm được một cuộc sống tốt sau khi rời Nhà Trắng. Cũng như tám năm làm tổng thống, bốn năm qua đầy những hoạch định được tính toán trước - xây dựng thư viện riêng của tôi ở Arklansas và Quỹ Clinton ở Harlem - cũng như những sự kiện bất ngờ, từ vụ 11 tháng 9 đến vụ mắc bệnh tim của tôi mới đây.
Tính đến thời điểm tôi rời Nhà Trắng, tôi đã suy nghĩ nhiều xem mình muốn làm gì. Chẳng có bản mô tả công việc nào cho một cựu tổng thống cả, nhưng một số người tiền nhiệm của tôi đã thực sự làm được rất nhiều việc đáng kể. John Quincy Adams phục vụ tám năm trong hạ viện và dẫn đầu công cuộc đấu tranh chống chế độ nô lệ. Theodore Roosevelt vỡ mộng với xu hướng bảo thủ của đảng Cộng hòa và xoay sang thành lập một phong trào chính trị mới mà ông gọi là "Chủ nghĩa dân tộc mới". Ông ấy lại tranh cử tổng thống trong liên danh với Bull Moose năm 1912 và về thứ nhì, ứng cử viên đảng thứ ba duy nhất làm được vậy kể từ khi có hệ thống lưỡng đảng. Người kế nhiệm ông là William Howard Taft trở thành Chánh án Tòa án tối cao. Herbert Hoover thì đứng đầu một ủy ban nhằm cải tổ dịch vụ dân sự liên bang dưới thời Truman. Richard Nixon viết nhiều cuốn sách có nhiều thông tin về đối ngoại. Và Jimmy Carter thành lập một quỹ mà qua đó ông theo dõi bầu cử, ủng hộ nhân quyền, làm việc vì hòa bình và giảm chứng bệnh mù do khuẩn Onchocerciasis ở châu Phi.
Việc làm của Carter có vẻ gần gũi nhất với tôi. Ông ấy tạo ra khác biệt lớn nhất trong số các người tiền nhiệm của tôi, có lẽ chỉ trừ Quincy Adams, và được thưởng một cách xứng đáng Giải thưởng Nobel Hòa bình cho một đời cống hiến. Tôi muốn làm việc trong những lĩnh vực tôi quan tâm đến, nơi tôi có thể tạo ra được khác biệt, cả ở Mỹ lẫn trên toàn thế giới. Cuối cùng tôi quyết định ra bốn lĩnh vực khá giống với Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ được Liên hiệp quốc thông qua. Đó là: đem cơ hội kinh tế đến với người nghèo ở Mỹ và trên toàn thế giới; khuếch trương giáo dục và dịch vụ dân sự cho thanh niên tại Mỹ và ở nước ngoài; chống đại dịch HIV/AIDS; và thúc đẩy hòa giải về chủng tộc, tôn giáo và sắc tộc.
Không lâu sau khi rời chức tổng thống, tôi thiết lập tổng hành dinh quỹ của tôi ở Harlem tại thành phố New York, một khu vực khiến tôi thích thú trong hơn 30 năm. Harlem cũng được coi là một trong những "khu vực thúc đẩy kinh doanh" trong đạo luật ngân sách năm 1993. Tới năm 2001, tỷ lệ thất nghiệp ở Harlem đã giảm đi 2/3.
Cùng lúc đó, tôi tiến hành một chiến dịch vận động đầy tham vọng để gây quỹ xây thư viện của tôi cũng như trung tâm tổng thống của tôi ở Little Rock, công trình mà tôi muốn biến thành bảo tàng đầu tiên của Mỹ trong thế kỷ 21: để soi rọi lại sự chuyển đổi của nước Mỹ sau Chiến tranh Lạnh trong lối sống, làm việc và quan hệ với phần còn lại của thế giới như thế nào; để mô tả triết lý và các chính sách mà chúng tôi ấp ủ nhằm đáp ứng các thách thức và cơ hội mới của "Kỷ nguyên Phụ thuộc lẫn nhau" này; và để trưng bày những thành quả của các nỗ lực của chúng tôi.
Đầu năm 2001, một trận động đất tàn phá Gujarat, tây Ấn Độ. Theo yêu cầu của Thủ tướng Vajpayee, tôi làm việc với những người Mỹ gốc Ấn để thiết lập Quỹ Mỹ - Ấn, qua đó chúng tôi quyên góp được nhiều triệu đôla để giúp xây dựng lại nhà cửa, trường học, bệnh viện, và những nền kinh tế địa phương.
Sau các vụ tấn công nhắm vào Mỹ ngày 11 tháng 9, tôi làm những gì có thể để ủng hộ Tổng thông Bush nhằm có được một liên minh toàn cầu để lật đổ Taliban và săn lùng Osama Bin Laden cũng như các thuộc hạ cao cấp của ông ta, và ủng hộ Hillary giúp người dân New York ứng phó với tấn bi kịch ấy và tái xây dựng. Tôi cùng với Thượng nghị sĩ Bob Dole quyên được 100 triệu đôla cho quỹ Gia đình vì Tự do, quỹ này đảm bảo tiền học đại học cho con cái và vợ chồng của các nạn nhân thiệt mạng trong vụ 11/9; những lợi ích này sẽ còn tiếp tục trong hơn hai thập niên nữa. Và trong hơn một năm, tôi đi khắp nơi trên đất nước và thế giới để đảm bảo với dân chúng ở các xã hội tự do rằng khủng bố sẽ không chiến thắng nhưng chúng ta phải đánh bại chúng theo một cách thức mà không làm tổn hại đến tính cách của đất nước chúng ta cũng như tương lai con cháu chúng ta. Những ý tưởng mà tôi thúc đẩy được tóm gọn trong phần lời bạt của cuốn sách này.
Năm 2001 cũng là một thời gian hạnh phúc đối với gia đình tôi. Chelsea tốt nghiệp trường Stanford vào mùa xuân trong một buổi lễ tuyệt vời, có sinh viên năm cuối biểu diễn đủ các trò trên sân bóng đá trong khi khóa tốt nghiệp và thầy cô trong trường trang trọng bước ra. Vào mùa thu, Chelsea bắt đầu chương trình thạc sĩ hai năm về quan hệ quốc tế ở Oxford. Con gái tôi ghi danh học ở trường cũ của tôi, trường University of Oxford. Như tôi đã viết, tôi rất mê giúp Chelsea làm quen với nơi ở mới của sinh viên năm thứ nhất, vốn nằm trên cùng một khoảnh sân mà tôi từng sống 35 năm trước. Khi Chelsea hoàn thành luận văn về Quỹ toàn cầu Chống AIDS, bệnh lao và sốt rét, con gái tôi mời Hillary và tôi quay lại Oxford để dự buổi thuyết trình bảo vệ luận văn. Chúng tôi rạng rỡ tự hào khi nghe nó trả lời các câu hỏi chất vấn với một sự hùng biện mà hồi bằng tuổi nó chúng tôi chẳng thể bì kịp.
Năm 2002, công việc của quỹ của tôi bắt đầu thực sự khởi động. Ở Harlem, chúng tôi bắt đầu một sáng kiến Doanh nghiệp nhỏ nhằm tư vấn tài chính và quản lý cho các doanh nghiệp mới cũng như đã có sẵn dưới sự lãnh đạo của Reggie Van Lee, đối tác quản lý của Booz Alien Hamilton. Chương trình này đến nay đã được chấp thuận bởi trường Kinh doanh Stern thuộc Đại học New York, và chúng tôi đang nỗ lực mở rộng ở Brooklyn và Bronx. Tôi cũng bắt đầu một cố gắng hàng năm nhằm tăng số người New York đăng ký xin miễn giảm thuê theo đạo luật Tín dụng thuế thu nhập, đạo luật từng giúp hàng triệu người lao động nghèo và con cái họ khỏi nghèo đói sau khi chúng tôi tăng gấp đôi chương trình này vào năm 1993. Thật không may, hàng triệu người có thể xin gia nhập chương trình vẫn chưa biết là có một chương trình như vậy hoặc chưa đăng ký gia nhập.
Tháng 7 năm 2002, Nelson Mandela và tôi, với tư cách đồng chủ tịch Quỹ Quốc tế chống AIDS, được mời đến để bế mạc Hội nghị quốc tế về AIDS ở Barcelona, Tây Ban Nha. Sau bài diễn văn, Thủ tướng Denzel Douglas của St. Kitts và Nevis hỏi xem tôi có sẵn lòng giúp các quốc gia vùng Caribe thiết lập các hệ thống ngăn chặn, chăm sóc và chữa trị bệnh AIDS không. Tôi lập tức đồng ý, dù tôi chưa biết bắt đầu ra sao. Lúc ấy, tôi có chưa tới 24 nhân viên làm việc ở Harlem và Little Rock và vẫn còn phải quyên cho được hơn 100 triệu đôla để hoàn tất thư viện tổng thống của tôi. Tôi gọi bạn cũ Ira Magaziner, người dẫn đầu các nỗ lực của chúng tôi trong y tế và thương mại điện tử trong Nhà Trắng, và hỏi liệu anh có muốn tổ chức và lãnh đạo dự án mới này không.
Anh ấy cũng lập tức đồng ý và chẳng bao lâu đã đưa ra một kế hoạch. Chúng tôi sẽ tập trung các tình nguyện viên để làm việc với các chính phủ cần chúng tôi giúp đỡ nhằm đưa ra các chương trình chăm sóc và điều trị toàn diện, sau đó gửi các nhóm đến để giúp thực hiện các chương trình này. Trong khi đó, tôi sẽ cố thuyết phục các nước giàu hơn đồng ý chi tiền cho hạ tầng y tế cần thiết và mua thuốc AIDS cũng như chi tiền để tiến hành các thử nghiệm cần thiết để đảm bảo các loại thuốc này có công hiệu. Vào thời điểm đó, trên thế giới có hơn 40 triệu người nhiễm HIV và hơn 6 triệu người mắc AIDS đang cực kỳ cần điều trị.
Dù đã có các loại thuốc chỉ tốn 500 đô la/người/năm, nhưng chỉ có 300 ngàn người ở các nước đang phát triển được nhận thuốc này, 130 ngàn ở Brazil, nơi các công ty dược phẩm sản xuất thuốc còn chính phủ thì cung cấp thuốc miễn phí cho những ai không đủ tiền mua. 70% số người cần thuốc là ở châu Phi, nhưng đại dịch lan nhanh nhất ở quốc gia thuộc Liên Xô cũ, vùng Caribe, Ấn Độ, và Trung Quốc.
Nỗ lực ban đầu nhỏ nhoi ở Caribe sau đó đã lan rộng nhanh chóng. Chỉ sau hai năm, quỹ của tôi đã hoạt động ở 13 nước Caribe nơi chiếm đến 95% số ca nhiễm HIV của cả khu vực; ở Ấn Độ và Trung Quốc - những nơi chiếm đến 80% số ca nhiễm của châu Á; và ở các quốc gia châu Phi là Rwanda, Mozambique, Tanzania, Lesotho, và Nam Phi, chiếm đến 35% số người nhiễm của cả châu lực. Ireland, Canada Na Uy, Thụy Điển và Pháp đều đã đưa ra các cam kết rộng rãi để chi tiền cho các chương trình này, trong khi các nước khác chi thêm nhiều khoản tiền khác nhỏ hơn. Tiền được chuyển thẳng đến cho các chính phủ nhằm chi tiêu cho các phòng khám và mua thuốc. Số tiền duy nhất mà quỹ của tôi thu là từ những mạnh thường quân tư nhân ở Mỹ và Anh, những người rộng rãi đóng góp hàng triệu đôla cho hoạt động của quỹ chúng tôi. Hiện nay chúng tôi đã có hơn 40 nhân viên làm việc toàn thời gian và hơn 100 tình nguyện viên làm việc ở 20 nước.
Năm 2003, chúng tôi đạt được bước đột phá trong việc tìm được thuốc phiên bản, khi các nhà sản xuất Ấn Độ và Nam Phi thương lượng được một giá giảm lớn với quỹ của tôi từ 500 đô xuống còn 139 đôla/người/năm. Sau đó, chúng tôi cũng có được khoản giảm 80% chi phí xét nghiệm và khám cũng như các thiết bị thông qua thỏa thuận với các công ty Mỹ và châu Âu. Trong khi đó, chúng tôi cũng đưa ra các thỏa thuận cho phép thêm 30 nước nữa mua thuốc và các thiết bị xét nghiệm dựa trên các hợp đồng chi phí thấp của chúng tôi, con số 30 này tôi hy vọng rằng sẽ tăng lên thành 60 trong vài năm tới.
Đầu năm 2005, những nước mà chúng tôi đang hợp tác đã cung cấp thuốc cho thêm 800 ngàn bệnh nhân nữa, trong khi các nước khác dùng các hợp đồng giá rẻ của chúng tôi để chữa trị cho thêm 30 ngàn người nữa. 110 ngàn người chỉ là một con số bé nhỏ trong sáu triệu người lẽ ra phải được thuốc, nhưng nó là một khoản tăng khổng lồ so với 170 ngàn người ở Brazil có thuốc khi chúng tôi mới bắt đầu hai năm trước đó. Tới năm 2008, chúng tôi hy vọng các nước mà chúng tôi cộng tác và các nước mua thuốc qua hợp đồng của chúng tôi sẽ có thể cung cấp chăm sóc và chữa trị cho hai triệu người. Sau khi Tổng thống Bush cho tăng các khoản ngân sách lớn, các khoản đóng góp của nhiều quốc gia vào Quỹ Toàn cầu Chống AIDS, bệnh lao và sốt rét cũng như nỗ lực của Quỹ Gates và các tổ chức phi chính phủ, số lượng người Hiv và mắc bệnh AIDS được nhận chăm sóc và chữa trị cứu sẽ tăng một cách đáng kể.
Đầu năm 2005, tôi quay lại quần đảo Bahama, nơi chúng tôi khởi đầu chương trình này, và là nơi mà với sự giúp đỡ của chúng tôi, chính phủ đã tăng gấp bốn lần số người được chữa trị. Tỷ lệ tử vong đã giảm một nửa, và vào năm 2004, không còn chuyện lây nhiễm HIV từ mẹ sang con đối với các bà mẹ uống thuốc phòng ngừa. Hồi 2003 khi mới đến đó, tôi gặp ba trẻ em ốm yếu; nay thì ba em đó đã khỏe hơn nhiều, một bằng chứng cho thấy điều tương tự cũng có thể được thực hiện trên toàn thế giới. Chúng ta đều đã hành động muộn màng, nhưng vẫn đủ sớm để cứu hàng triệu sinh mạng.
Trong ba năm đầu rời Nhà Trắng, tôi đi khắp nước Mỹ và tới 54 quốc gia khác, nhiều nước đi hơn một lần, để theo đuổi công việc của quỹ của tôi và khuếch trương các ý tưởng của tôi nhằm xây dựng một cộng đồng toàn cầu có chung trách nhiệm, lợi ích và giá trị.
Quỹ của tôi đã làm được vài việc tốt về giáo dục và dịch vụ công dân, giúp thiết lập các dự án dịch vụ City Year ở Nam Phi và Little Rock, và một chương trình học bổng để đưa sinh viên Mỹ đi học tại Đại học Mỹ ở Dubai, quốc gia có nền kinh tế có lẽ phát triển nhanh nhất và đa dạng nhất ở Trung Đông, một bằng chứng cho thấy Hồi giáo không hề không tương thích với thế giới hiện đại cũng như sự đa dạng về chủng tộc và tôn giáo. Mỗi năm, quỹ của tôi còn tổ chức hội thảo một ngày tại Đại học New York về nhiều chủ đề quan trọng với tương lai của tất cả chúng ta. Tới nay chúng tôi đã quy tụ được nhiều người từ khắp nơi trên toàn cầu để thảo luận về Hồi giáo và phương Tây; về cách làm thế nào để đưa các lợi ích của toàn cầu hóa tới hàng tỉ người vẫn còn nghèo khó; và làm thế nào để có được một tương lai năng lượng sạch và chông lại hiện tượng nóng dần lên toàn cầu.
Mùa thu này chúng tôi sẽ tài trợ Sáng kiến Toàn cầu Clinton, một hội thảo về các vấn đề toàn cầu nổi cộm cho các lãnh đạo doanh nghiệp và tổ chức phi chính phủ trùng vào dịp khai mạc Đại hội đồng Liên hiệp quốc. Hội thảo này sẽ độc đáo về một khía cạnh: vào cuối phiên họp hai ngày, mỗi đại biểu phải cam kết thực hiện một hành động cụ thể nào đó để tạo ra các khác biệt tích cực trong các lĩnh vực có vấn đề nổi cộm.
Trường Công quyền Clinton cũng sẽ khai trương mùa thu này dưới sự lãnh đạo của bạn cũ của tôi là Thượng nghị sĩ David Pryor, có các chương trình sau đại học cho thanh niên muốn tiến thân trong công quyền. Tôi rất mong được tham gia giảng dạy ở đó và quy tụ nhiều người từ khắp nơi trên thế giới đến để gây cảm hứng cho một thế hệ mới các công chức.
Trong ba năm đầu rời Nhà Trắng, tôi đi nhiều nước để thúc đẩy hòa bình và hòa giải; tới Israel, Ảrập Xê út, Jordan, Dubai và Qatar ở Trung Đông; tới Rwanda để ủng hộ hoàn tất một đài tưởng niệm quốc gia cho nạn nhân diệt chủng và thăm một trong các "làng hòa giải" nơi các cựu thù chung sống như những láng giềng; đến Nigeria nơi tôi thúc giục quốc hội không nên để cho đất nước tan rã vì những xung đột chính trị và pháp lý giữa người Hồi giáo và Cơ đốc giáo; tới Kosovo và Bosnia, nơi tôi phát biểu tại lễ tưởng niệm nạn nhân thảm sát tại Srebrenica và nghe các góa phụ nói rằng phương Tây đã đến Bosnia quá muộn, "nhưng nếu không có ông, chắc cũng chẳng có ai buồn đến"; đến Colombia để thúc giục cộng đồng doanh nghiệp tiếp tục sát cánh cùng nền dân chủ lâu đời nhất của châu Mỹ Latinh và ủng hộ lập trường của chính phủ chống lại bọn buôn ma túy và những ủng hộ viên khủng bố của chúng; tới Đông Timor để đại diện cho Mỹ tại lễ lập quốc đầu tiên của thế kỷ 21, vốn có được là nhờ can thiệp của lực lượng quân sự đa quốc gia mà Mỹ có tham gia; và tới Bắc Ireland nơi người Mỹ gốc Ireland chi tiền để xây một trung tâm hòa bình lấy tên tôi tại Enniskillen, chuyên dùng làm nơi hội họp của các công dân từ các khu vực bất ổn đến để thảo luận về những khác biệt của họ.
Tôi cũng đã làm những gì có thể để ủng hộ các nỗ lực tăng khả năng của các chính phủ dân chủ còn non yếu giải quyết các vấn đề lớn, thông qua Câu lạc bộ Madrid, một nhóm các cựu nguyên thủ quốc gia, và tự mình làm điều đó với châu Mỹ Latinh và châu Phi. Trong những năm tới, tôi hy vọng sẽ làm việc này nhiều hơn nữa. Người Mỹ đôi khi quên rằng nhiều nền dân chủ không có được các định chê hiệu quả cũng như đội ngũ công chức mà chúng tôi thường coi là nghiễm nhiên phải có.
Trong ba tháng đầu 2004, tôi dành nhiều ngày ở Chappaqua, làm việc cật lực để hoàn tất cuốn sách để kịp trước hạn tháng 6. Cuốn sách của Hillary, Living History, đã xuất bản một năm trước và nhanh chóng trở thành cuốn best-seller kỷ lục. Đó là một cuốn sách hay, và tôi rất tự hào về cô ấy, nhưng chắc chắn nó tạo thêm áp lực khi tôi cố kết thúc cuốn tự truyện riêng của mình. Cuốn Đời tôi xuất bản ngày 22.6, và tôi bắt đầu một tour giới thiệu sách xuyên suốt nước Mỹ và tới nhiều nước khác. Khi người Mỹ mua cuốn sách này, có nhiều lời khen chê. Phần lớn mọi người thấy cuốn sách này quá dài - một phê phán công bằng. Thomas Jefferson từng nói nếu ông có nhiều thời gian hơn thì ông ấy đã có thể tập trung để viết những lá thư ngắn hơn. Những người phê bình sách chú ý đến con người, chính trị và chính sách chính quyền có vẻ thích cuốn sách hơn những người không quan tâm đến các lĩnh vực đó. Có lẽ lời nhận xét thuận lợi nhất đến từ tiểu thuyết gia vĩ đại Mỹ Larry McMurtry, người rõ ràng là quan tâm đến cả ba lĩnh vực trên. Tôi thật cảm kích rằng nhiều người mua sách mà tôi gặp là những người nói là bản thân họ đã được các chính sách của tôi khi còn ở Nhà Trắng trợ giúp.
Tất nhiên, chuyến đi giới thiệu sách của tôi diễn ra trong bối cảnh chiến dịch tranh cử tổng thống, trong đó Thượng nghị sĩ John Kerry nhanh chóng nổi lên là ứng viên đề cử của chúng tôi. Vào tháng 7, Hillary và tôi, cùng với cựu tổng thống Carter, phát biểu tại đêm khai mạc Đại hội đảng Dân chủ ở Boston ủng hộ Thượng nghị sĩ Kerry và người đứng chung liên danh là Thượng nghị sĩ John Edwards. Tôi thích Kerry và rất vui được khen ngợi hoạt động trong thượng viện của ông cũng như các đề nghị của ông chống khủng bố; vẽ ra một quang cảnh rõ ràng bao gồm những ý tưởng rất khác nhau giữa phe Dân chủ và phe Cộng hòa về kinh tế, y tế, giáo dục, tội phạm và môi trường, cũng như chỉ ra rằng các bằng chứng cho thấy chính sách của phe chúng tôi có hiệu quả hơn.
Tôi bất đồng mạnh mẽ với việc đưa nước Mỹ trở lại với ngân sách thâm thủng thông qua cắt giảm thuế lớn, vốn chủ yếu có lợi cho những người Mỹ giàu có nhất, đè nặng gánh lên các thế hệ tương lai, và đòi hỏi các khoản vay mượn khổng lồ từ thuế an sinh xã hội do người Mỹ trung lưu đóng góp và từ những nước khác, đứng đầu là Trung Quốc và Nhật Bản.
Năm 2004, tiền đổ vào thâm thủng của chúng tôi ngốn khoảng 80% số tiết kiệm ròng của thế giới; 40% tổng nợ của Mỹ là với nước ngoài. Chúng ta đang lặp lại thập niên 80, tăng chi, giảm thuế và nợ thì bùng phát. Năm 1993, khi chính phủ của tôi và các thành viên Dân chủ trong quốc hội đảo ngược tình thế, việc ấy đã tạo ra thời kỳ mở rộng kinh tế kéo dài lâu nhất trong lịch sử, nhờ bốn năm liền thặng dư ngân sách và cho phép chúng tôi giảm nợ quốc gia đi hàng trăm tỷ đôla. Tôi vẫn tin rằng đó là chính sách đúng đắn.
Tối khuya ngày thứ tư, 1 tháng 9 năm 2004, tôi bay về nhà từ New Orleans, chặng cuối trong chuyến giới thiệu sách. Khi tôi bước xuống máy bay, tôi thấy nghẹt ở ngực. Tôi đã bị như vậy vài lần trong vài tháng trước, nhưng chỉ khi tôi tập thể dục. Cơn đau không nặng lắm và luôn nhanh chóng biết mất, nên tôi chỉ coi đó là bằng chứng kiệt sức sau khi hoàn tất cuốn sách. Bây giờ tôi lại bị đau trong khi không tập thể dục.
Không lâu sau khi tôi về tới nhà, cơn đau dịu đi, nhưng sáng hôm sau tôi gọi bác sĩ của tôi. Theo lời khuyên của bà, tôi lái xe tới Bệnh viện Northern Werchester khám, nhưng không thấy có dấu hiệu của cơn đau tim nào. Tuy vậy, các bác sĩ vẫn đề nghị tôi tới Trung tâm Y tế Werchester sáng sớm thứ sáu để thử xét nghiệm đau thắt ngực, một kiểu xét nghiệm mà người ta đưa một vật liệu vào mạch máu quanh tim để xem thử có nghẽn mạnh máu hay không.
Tôi gọi Hillary, lúc ấy đang ở Syracuse dự Hội chợ Tiểu bang New York. Tôi đang định đến gặp cô ấy ngày hôm sau để cùng dự sự kiện vốn đã trở thành niềm vui hàng năm của chúng tôi. Tôi bảo cô ấy tôi sẽ không sao cả và rằng cô ấy nên tiếp tục dự hội chợ. Sáng sớm hôm sau, tôi lái xe đến bệnh viện để làm xét nghiệm. Hóa ra bệnh trạng tôi nặng hơn người ta tưởng. Tôi bị tắc nghẽn nghiêm trọng ở bốn mạch máu chính, trong đó có hai mạch nghẽn đến 90%. Thế nào rồi cũng sẽ có một cơn đột quỵ.
Các bác sĩ Trung tâm Y tế Werchester nhanh chóng cho tôi biết rằng theo ý họ thì lựa chọn có trách nhiệm duy nhát là phải mổ ngay - độ tắc nghẽn nghiêm trọng đến mức nó không thể dùng cách mở mạch máu thông thường được. Người ta bảo tôi rằng tôi không thể lên dự hội chợ cùng Hillary được, thậm chí không nên về nhà ngay. Thay vào đó, tôi được đưa ngay đến Bệnh viện Trưởng lão New York ở tây bắc Manhattan.
Hillary rời hội chợ sớm còn Chelsea thì trở về nhà sau một chuyến công tác nước ngoài để cùng nghỉ cuối tuần với tôi. Khi chúng tôi công bố bệnh tình cho báo giới, tôi rất cảm động vì đã có hàng ngàn cú điện thoại, thư và e-mail thăm hỏi, và thật cảm kích về các tin tức mang tính giáo dục của báo giới. Bệnh tình của tôi khiến cho công chúng có được nhiều thông tin về cách ngăn chặn, phát hiện và chữa trị bệnh tim.
Chuyên sắp phải mổ lại khó khăn đối với gia đình tôi hơn là với tôi. Dù gì đi nữa, tôi cũng đã tránh được một cú đột quỵ, và ca phẫu thuật này, dù khá nghiêm trọng, đã trở thành một ca thông thường và đã được mổ hàng trăm ngàn lần một năm chỉ riêng ở Mỹ. Thêm nữa, tôi cũng đã sống và ý thức về sự bất trường tồn của mình từ lâu, vì cha tôi chết trước khi tôi ra đời và những người khác trong gia đình tôi cũng đã chết khi khá trẻ. Tôi chẳng bao giờ mong bất tử và biết ơn vì những năm tháng tôi đã có. Dù vậy, tôi hy vọng rằng Chúa vẫn chưa xong việc với tôi.
Cuộc phẫu thuật bắt đầu sáng sớm thứ hai, ngày 6 tháng 9. Thứ duy nhất mà tôi còn nhớ là một loạt các hình ảnh kỳ lạ chạy qua đầu óc tôi khi bị gây mê. Đầu tiên tôi thấy một loạt các khuôn mặt tăm tối, như các mặt nạ thần chết, bay về phía tôi và vỡ vụn. Sau đó tôi thấy nhiều vòng ánh sáng với các khuôn mặt của Hillary, Chelsea và những người mà tôi yêu mến bay về phía tôi, rồi sau đó bay về phía một nguồn sáng trắng như mặt trời. Hillary sau đó bảo tôi rằng khi tôi dần tỉnh thuốc mê, tôi có vẫy chào mọi người, bảo rằng tôi không sao và cười phá lên, nhưng tôi thì chẳng nhớ tí nào.
Sau vài ngày hồi sức tại bệnh viện dưới sự chăm sóc kỹ càng của đội chăm sóc y tế của tôi, đứng đầu là bác sĩ Graig Smith và Allan Schwartz, tôi được cho về nhà và bắt đầu quá trình hồi phục.
Ba tuần đầu thật khó khăn vì tôi bị đau, và vì bị tê cứng hết cả các cơ lưng và ngực nên tôi hay bị đau lưng rất khó chịu. Ngay sau khi tôi bắt đầu tập đi bộ hàng ngày và có thể duỗi người chút ít, tình hình được khá lên. Nhiều người nói họ bị những trầm cảm ngắn trong vài tháng đầu sau phẫu thuật tim nhân tạo, nhưng thật may là tôi không bị gì cả. Sau hàng chục năm làm việc cật lực, tôi tận hưởng thời gian nghỉ để đọc, nghe nhạc, và xem phim và xem thể thao, đặc biệt là các trận đấu loại trực tiếp bóng chày cũng như giải vô địch bóng đá Mỹ.
Tôi phải bỏ ăn các thứ có carbo-hydrate, các đồ mỡ nhiều để chuyển sang ăn ít mỡ, nhưng tôi cũng thích thử thách này và cuối cùng giảm khoảng 20 pound, gần trở về với trọng lượng thời mới tốt nghiệp trung học. Nhà hàng đồ nướng quê tôi, McClard, thậm chí còn đưa ra các món thịt ít mỡ để phục vụ tôi. Khi mà tỷ lệ béo phì ở Mỹ đạt đến mức kỷ lục, tôi hy vọng nhiều cơ sở ăn uống, đặc biệt là các cửa hàng bán đồ ăn nhanh, sẽ theo gương nhà hàng McClard.
Cuối tháng 10, tôi đã thấy khỏe khoắn đủ để xuất hiện vài lần trong cuộc vận động tranh cử tổng thống, dù sự năng động của tôi vẫn chưa hoàn toàn hồi phục. Sau khởi đầu chậm chạp, Thượng nghị sĩ Kerry đã thực sự chạy đua bằng những lần tranh luận xuất sắc, nhưng như thế vẫn chưa đủ để thuyết phục đa số cử tri, vốn có ấn tượng mạnh về sự lãnh đạo mạnh mẽ của Bush sau 11 tháng 9, để khiến họ lần đầu tiên trong lịch sử phải thay thế tổng thống đương nhiệm tranh cử trong khi một cuộc xung đột đang diễn ra. Khi cuộc tranh đua so kè ngang ngửa, một số lớn cử tri đã quyết định trong những ngày cuối của chiến dịch đã nghiêng về Tổng thống Bush nhờ quan điểm của ông về các vân đề an ninh.
Cuộc bầu cử năm 2004 là đáng nhớ vì tỷ lệ cử tri đi bầu cao và vì số lượng nhiều vô kể các khoản đóng góp nhỏ cho cả hai đảng, thường là thông qua Internet. Có thể đoán trước được rằng các kết quả bầu cử đã làm nảy sinh những dự đoán khắc nghiệt thường thấy rằng đảng Dân chủ đang suy yếu trong dài hạn. Nhưng thực tế phức tạp hơn như vậy.
Ở cấp tổng thống, đảng của chúng tôi đã khá hơn rất nhiều so với thập niên 70 và 80. Trong ba cuộc bầu cử tổng thống trong thập niên 80, mỗi cuộc chúng tôi đều không thắng nổi ở hơn 10 bang. Năm 1992 và 1996 chúng tôi đã thắng hơn 30 bang. Al Gore thắng được phiếu phổ thông năm 2000, và năm 2004 Tổng thống Bush đã thắng với cách biệt sít sao nhất trong bất kỳ tổng thống tái cử nào kể từ thời Woodrow Wilson năm 1916. Đảng Dân chủ, nhờ có Terry McAuliffe, đã có được nền tảng tài chính vững chắc và tiến triển về kỹ thuật cao ngang bằng với đảng Cộng hòa. Các tổ chức tư vấn tiến bộ và các nhóm cơ sở bắt đầu bằng vai phải lứa với các đối trọng của họ bên cánh hữu. Air America cuối cùng cũng đã chịu cho những người tiến bộ được chọn nghe các chương trình khác chứ không chỉ phải nghe các chương trình đôi thoại cánh hữu. Thêm nữa, thành phần dân cư thay đổi của nước Mỹ vẫn tiếp tục ưa thích cách tiếp cận mang tính hòa hợp cộng đồng của chúng tôi hơn là các chính sách và chiến thuật mang tính chia rẽ hơn của phe Cộng hòa.
Tuy nhiên, phe Cộng hòa lại khá hơn rất nhiều ở cấp độ quốc hội, đặc biệt là trong thượng viện, hơn hồi thập niên 80, phần lớn là vì ngày càng nhiều cử tri bảo thủ về văn hóa tập trung ở các thị trấn nhỏ, khu vực nông thôn và các tiểu bang thưa dân có xu hướng bầu không chỉ tổng thống mà còn cả các thượng và hạ nghị sĩ dựa trên niềm tin của họ rằng phe Cộng hòa phản ánh đúng hơn các giá trị của họ về phá thai, quyền đồng tính, súng ống, và các vấn đề văn hóa khác.
Vì phe Cộng hòa ngày càng thiên hữu và vẫn tiếp tục giành thắng lợi, nhiều nhà phân tích cho rằng con đường dễ thấy nhất cho đảng Dân chủ là phải thiên tả hơn nữa. Tôi nghĩ quan điểm đó phản ánh một sự hiểu lầm về sự việc. Thứ nhất, bầu cử sít sao như vậy là bởi vì chính quyền đã quá thiên hữu. Thực ra, nếu không có vụ 11 tháng 9 và những e ngại về an ninh hiện nay, Thượng nghị sĩ Kerry đã thắng. Thứ hai, Tổng thống Bush chưa bao giờ tự phác họa mình là một người cánh tả chí cốt. Những chỉ trích nhắm vào Thượng nghị sĩ Kerry chủ yếu là do những kẻ khác ủng hộ Tổng thống Bush khởi xướng. Năm 2000, ông ấy nói ông ấy là một "người bảo thủ đồng cảm". Năm 2004, khi các cử tri chống phá thai đang tìm cách dùng việc bầu cho ông ấy để đảo ngược phán quyết trong vụ Roe V. Wade, ông ấy nói mình ủng hộ "văn hóa vì sự sống" nhưng cố tình không hứa hẹn bổ nhiệm ai vào Tòa án tối cao để có thể đảo ngược phán quyết vụ Roe. Ông ấy cũng bổ nhiệm nhiều người thuộc các sắc dân thiểu số vào các chức vụ quan trọng trong chính quyền, và khi các nhóm môi trường nói rằng ông ấy có lẽ là tổng thống hoạt động môi trường tồi tệ nhất trong lịch sử, thì Bush tuyên bố ông đã tạọ ra những tiến bộ thực sự trong bảo vệ môi trường. Nói cách khác là, ông ấy làm những gì các chính trị gia thành công phải làm: củng cố và khích động các cử tri trung thành với mình, đồng thời cố gắng thắng được đủ số phiếu của cử tri trung dung nhằm tạo được một đa số.
Phe Dân chủ vẫn có thể quay trở lại, không phải bằng cách thiên tả, mà bằng cách nhìn về phía trước với một tầm nhìn rõ ràng cho tương lai và các ý tưởng tốt nhằm biến nó thành sự thực, một lập trường an ninh mạnh mẽ, và các chiến thuật tốt hơn. Một ứng viên không thể làm ngơ không trả đũa lại các cuộc tấn công chính trị và cá nhân được.
Ngoài ra, nếu chúng tôi muốn cạnh tranh ở các bang được coi là sân nhà của đảng Cộng hòa, chúng tôi phải tham gia tranh luận nghiêm túc về các vấn đề văn hóa. Số vụ phá thai giảm 20% trong những năm tôi cầm quyền, nhưng hầu như chẳng ai biết chuyện đó vào năm 2004, và họ còn biết ít hơn về các chính sách mà chúng tôi theo đuổi để có được kết quả đó. Chúng tôi còn có hẳn một văn phòng liên lạc tôn giáo trong Nhà Trắng, xử lý các vấn đề cùng quan tâm với đủ loại các nhóm tôn giáo, trong đó có cả các nhóm mà tôi biết sẽ chẳng bao giờ ủng hộ tôi trong bầu cử. Hillary gần đây đã kêu gọi nối lại đối thoại về phá thai, và tôi nghĩ cô ấy làm thế là đúng. Như thượng nghị sĩ Barak Obama nói trong bài diễn văn hùng hồn của ông trong đại hội đảng Dân chủ, những người Mỹ thiên Cộng hòa hay Dân chủ có nhiều điểm chung hơn họ tưởng, nhưng họ sẽ chẳng bao giờ biết được điều đó nếu họ không nói chuyện và lắng nghe nhau. Tôi nghĩ một cố gắng như vậy sẽ có lợi cho phe Dân chủ, và tôi biết nó sẽ có lợi cho đất nước.
Hai tuần sau bầu cử, chúng tôi tổ chức khai mạc thư viện, bảo tàng và trung tâm tổng thống của tôi ở Little Rock. 25 ngàn người đội mưa đến nghe Tổng thống Bush cũng như các cựu tổng thống Bush (cha) và Carter phát biểu. Sáu người Mỹ cũng nói về tác động của các chính sách của tôi đối với cuộc sống và làm việc của họ. Một nhóm trẻ em từ Colombia, nơi tôi từng ủng hộ các nỗ lực chống khủng bố và buôn ma túy, cũng hát và múa. Bono và một thành viên khác của nhóm U2 cũng vậy, nhấn mạnh công sức của tôi nhằm đem lại hòa bình cho Bắc Ireland.
Bono còn chọc cười khi hát "Khi mưa tới, chúng ta khiến bốn tổng thống ra khỏi giường". Tinh thần lưỡng đảng đến ngay sau một cuộc bầu cử căng thẳng có vẻ như đã làm cho tinh thần đất nước phấn chấn hơn. Tổng thống Carter phát biểu nồng ấm về mối quan hệ lâu dài giữa chúng tôi, nhắc lại cả chiến dịch tranh cử của ông hồi 1976. Tổng thống Bush (cha) thì nổi bật nhất khi kể lại một cách hài hước những chuyện tranh cử hồi 1992 cũng như khẳng định rất tình cảm tình bạn riêng tư với tôi. Và Tổng thống Bush (con) cực kỳ thân thiện và rộng lượng với tôi và gia đình tôi, giống như vài tháng trước trong lễ khai trương chân dung Hillary và tôi ở Nhà Trắng vài tháng trước đó.
Bảo tàng đặc biệt quan trọng đối với tôi, vì tôi muốn cho khách thăm từ khắp nơi trên đất nước và thế giới thấy rằng các ý tưởng, chính sách và quyết định chính trị có các tác động rất thật đến đời sống của họ và do đó công quyền cũng như việc người Mỹ phải có đầy đủ thông tin hơn cũng rất quan trọng đối với nước Mỹ trong thế kỷ 21 y như hồi mới lập quốc.
Chỉ vài tuần sau lễ khai trương thư viện, tôi lại tham gia vào một nỗ lực lưỡng đảng khác khi Tổng thống Bush đề nghị cha ông và tôi dẫn đầu nỗ lực tăng đóng góp tư nhân ở Mỹ để trợ giúp nạn nhân của đợt sóng thần tại 11 nước trong khu vực Ân Độ Dương ngày 26 tháng 12, khiến 300 ngàn người chết và mất tích, cộng thêm hơn một triệu người mất nhà cửa. Tôi hân hạnh vì được mời và mong mỏi làm việc với cựu tổng thống Bush. Chúng tôi cùng với Tổng thống Bush con đi thăm các đại sứ quán Thái Lan, Indonesia, Sri Lanka, và Ấn Độ - những nước bị thiệt hại nặng nhất - sau đó trả lời phỏng vấn báo chí, công bố các tuyên bố công quyền, tham dự các sự kiện khác nhằm khuyến khích dân chúng giúp đỡ và cung cấp thông tin về các tổ chức đáng tin cậy và công việc mà các tổ chức đó đang làm. Theo yêu cầu của tôi, UNICEF thiết lập một quỹ đặc biệt để lo nguồn nước và vệ sinh để giảm thiểu dịch bệnh trong các khu vực mà các nguồn nước sạch tự nhiên đều đã bị nhiễm bẩn.
Giữa tháng 2, cựu Tổng thống Bush và tôi đi Thái Lan, Aceh ở Indonesia, Sri Lanka và quần đảo Malpes để trực tiếp chứng kiến sự tàn phá và những nỗ lực tái thiết đầy ấn tượng đang diễn ra. Dù báo giới đã đưa tin rất đầy đủ về thảm kịch này, tôi vẫn chỉ có thể cảm nhận hoàn toàn mức độ của nó khi nhìn thấy và gặp biết bao nhiêu người đã mất người thân, mọi thứ của cải có giá trị, và cả kế sinh nhai. Chúng tôi cảm kích vì dân chúng tại mỗi nơi chúng tôi đến đều tỏ lời cảm ơn quân đội của chúng tôi về công việc xuât sắc của họ khi phân phát hàng cứu trợ nhân đạo đến các vùng hẻo lánh cũng như giúp dân chúng dọn dẹp đống đổ nát và có khởi đầu mới. Và chúng tôi rất cảm động trước những em nhỏ mất cha mẹ cũng như những người tốt giúp chúng biểu lộ tình cảm của chúng, đối phó với nỗi đau, và tìm ra sức mạnh để tiếp tục sống.
Khi tôi viết những dòng này, người Mỹ đã đóng góp hơn 700 triệu đô la để giúp nạn nhân sóng thần; khoảng 1/3 các hộ gia đình Mỹ đã tham gia, với hơn một nửa là bằng các đóng góp qua Internet. Các dân tộc khác trên thế giới cũng đóng góp hào phóng, đặc biệt là các nước Bắc Âu vốn mất đi bao nhiêu công dân của mình vì khi sóng thần ập vào họ đang đi nghỉ ở những khu vực bị ảnh hưởng. Các nước châu Á khác cũng đóng góp vào. Thậm chí nước Đông Timor tí hon, với thu nhập bình quân đầu người khoảng một đôla/ngày, cũng đóng góp cho cựu thù Indonesia.
Tính chung lại, các chính phủ và công dân đã cam kết hơn sáu tỷ đôla tiền cứu trợ sóng thần, trong đó có 950 triệu đôla từ chính quyền Tổng thống Bush. Tổng thư ký Liên hiệp quốc Kofi Annan cũng đề nghị tôi điều phối các nỗ lực của Liên hiệp quốc để đảm bảo các sâ tiền cam kết đó được thực hiện đúng và đủ, quyên thêm tiền nếu cần, và đảm bảo các nỗ lực tái thiết được thực hiện và phối hợp tốt giữa các chính phủ, dân cư địa phương, các tổ chức quốc tế, và hàng trăm tổ chức phi chính phủ. Chúng tôi cũng muốn đảm bảo rằng khu vực này có hệ thống cảnh báo sớm, các dự án giảm thiểu thiên tai, và các hệ thống xử lý khủng hoảng hiệu quả. Khi chuyện sóng thần bắt đầu không còn được báo giới nhắc tới nhiều nữa, người ta rất dễ chuyển sang làm việc khác. Nhưng những việc đã làm được cũng rất khổng lồ, và những người tốt quyết tâm tái lập cuộc sống của mình đáng được chúng ta ủng hộ cho đến khi họ hoàn tất công việc đó.
Trong chương mở đầu của cuốn sách này, tôi nói rằng vì cha tôi chết trước khi tôi ra đời, nên "tôi lúc nào cũng vội vã". Sau khi rời Nhà Trắng, các nghĩa vụ tài chính, việc xây thư viện của tôi và hoạt động của quỹ của tôi cũng vẫn giữ tôi bận rộn như mọi khi.
Chuyến chạm mặt tử thần của tôi vài tháng trước buộc tôi phải chậm lại. Các lần đi dạo dài hàng ngày của tôi trong khu vực đẹp đẽ mà tôi sống đã cho tôi cơ hội để ngẫm nghĩ về cuộc đời, đếm những ân sủng mình có được, và tận hưởng thời gian mà tôi có chứ không phải tìm cách lấp đầy thời gian ấy.
Tôi hy vọng có thể dành phần còn lại của đời mình phục vụ công chúng vượt trên chuyện chính trị đảng phái, mà vẫn thúc giục những ai còn làm chính trị hãy biết trân trọng nhau như những con người, ngay cả khi họ tranh đấu với nhau vì những khác biệt rất thành thực của họ. Tất nhiên, tôi sẽ làm hết sức để giúp Hillary, thành công của cô ấy trong thượng viện - cả trong ủy ban Lực lượng vũ trang lẫn công việc của cô ấy ở tất cả các khu vực của New York - làm tôi rất tự hào.
Tất cả mọi thứ xảy ra trong bốn năm qua đã xác nhận niềm tin của tôi vào các giá trị căn bản từng là kim chỉ nam cho công việc của tôi: mỗi người đều có giá trị, đáng được có cơ hội, và có một vai trò trách nhiệm; cạnh tranh là tốt, nhưng tất cả chúng ta đều sẽ khá hơn nếu chúng ta biết làm việc cùng nhau; vai trò của chính phủ là cho người dân công cụ để tận dụng hết mức cuộc sống của họ và để tăng cường cộng đồng chung của chúng ta; các khác biệt giữa chúng ta là quan trọng và làm cuộc đời thú vị hơn, nhưng nhân tính chung của chúng ta còn quan trọng hơn nữa. Bệnh tim của tôi nhắc tôi nhớ rằng tất cả chúng ta đều đang sống một cõi tạm; chúng ta chỉ không biết chắc là sẽ kéo dài bao lâu. Dù tôi còn lại bao nhiêu, tôi vẫn muốn làm hết sức mình.