Chương 4
Theo truyền thống, những người dân Luân Đôn được coi là đã trải mọi sự đời, nhàm chán hết. Ấy thế mà từ mười một giờ sáng nay, những người đi đường đã xúm đông xúm đỏ ở phố Mail, trước cửa nhà số 71. Ở số nhà ấy, lừng lững một tòa lâu đài, mà một vài người biết rằng đó là dinh cơ trên đất Anh của ông chủ tàu Kallenberg. Những người mang tính chất Anh nhất trong bọn họ, cố xem chuyện lạ bằng cách không thèm quay cổ về phía nhà ấy, đành chịu khó đi qua đi lại nhiều lần với vẻ thản nhiên để chộp làm mẫu cái mà con mắt không thể nhìn thoáng mà thấy hết được.
Quả rằng phải nói trò đang diễn ra rất đáng ngạc nhiên. Giữa cái nóng hầm hập nặng nề của tháng Tám, một đám thợ đang loay hoay dựng trước cửa lâu đài hai cây thông Nô-en, một cây cao tới hơn mười mét. Một đội cảnh sát, cũng mồ hôi mồ kê như anh em thợ, đang đề nghị bà con đứng ra xa, lúc hai cây to lớn đồ sộ được néo chặt bằng những dây thừng vọt ra từ trong cửa sổ, cuối cùng, đã đứng thẳng lên. Hiệu quả thật ghê gớm. Một đứa nhỏ giọng ngoại ô đặc sệt, hỏi: “Này các ông bạn! Liệu tối nay tôi có thể mang giày tới nhận quà Nô-en không, hở?”. Những tiếng cười vang lên. Một bà nạ dòng, tay xách cái làn đi chợ, chắc là đầy tớ một nhà nào, nói thêm: “Khốn khổ khốn nạn thế đấy! Các ông các bà nhà giàu, khi họ nóng bức thì họ giả vờ làm ra rét. Còn khi người ta rét cứng người thì họ đi phơi nắng, mà lại còn cởi trần cởi truồng nữa kia!”. Lại những tiếng cười tiếp với một anh thợ: “Anh có làm giời làm đất gì thì làm, cũng không thể có tuyết rơi xuống được!” Anh thợ lau mồ trán, buông một câu: “Mẹ lại lầm rồi đấy mẹ ơi. Tuyết à, tha hồ mà tuyết!”.
Sáu giờ tối, một xe vận tải của đài phát thanh B.B.C. tới đậu bên lề đường. Các kỹ thuật viên từ trên xe xuống ròng dây điện, chọn chỗ đặt máy thu hình, lấy phấn vạch xuống đất đánh dấu chỗ đặt máy. Đến tám giờ, trời tối hẳn, các kỹ sư thử ánh sáng, kiểm tra các đèn pha. Đám đông, bây giờ đã thành mấy trăm người, thỉnh thoảng lại “ồ” lên, ngạc nhiên. Người ta trải ra một tấm thảm đỏ che lấp gần hết vỉa hè.
Và trên cửa ra vào, căng lên một tấm rạp che. Rồi ba xe vận tải đông lạnh đi tới theo sát sau là mười vệ binh hoàng gia, cao lớn, cưỡi ngựa, lễ phục chỉnh tề đến đứng gác ở các bậc thang dẫn tới cửa ra vào. Từ trên các xe vận tải đông lạnh, người ta khuân xuống những tảng tuyết mà những người thợ mặc đồ bảo vệ lao động màu xanh đem trải ra trong vòng hai mươi thước chung quanh cầu thang danh dự. Những người thợ khác, trèo lên gác, cho chạy hai cái quạt máy khổng lồ để quạt tuyết bay lên các cành thông. Những kẻ tò mò nóng quá lau mồ hôi trán, rất thích thú khi một cánh tuyết mát lạnh vờn vào mặt họ. Hai ông già Nô-en râu dài đến đứng ở bên thềm, chắc là trần truồng trong tấm áo choàng len.
Mười giờ tối, chính xác không hơn không kém một giây, chiếc xe Rolls đầu tiên, đeo biển “Ngoại giao đoàn”, quốc kỳ Koweit cắm trên mũi xe, đến đậu trước lâu đài. Cánh cửa xe được người tài xế bỏ mũ, kính cẩn mở ra. Hai người đàn ông da đen xạm, áo choàng Ả Rập lụng thụng, kính râm, bước ra khỏi xe. Họ bước lên các bậc thang. Hộ tống hai bên, hai người hầu ăn mặc theo kiểu cổ của Pháp, đeo tóc giả, tay cầm những bó đuốc đang xèo xèo dưới làn tuyết rơi mau. Một giấc mơ, giữa cái thành phố còn đang cháy bỏng lên vì sức nóng ban ngày. Những người đứng xem hào hứng vỗ tay. Nhưng họ phải quay đầu lại ngay khi nhận ra cô đào chiếu bóng Betty Winckle, từ một chiếc xe Bentley vọt ra. Cô ta như cởi truồng trong cái áo dạ hội bằng những vẩy trắng lấp lánh và kim cương, khoác tay một chàng trai lạ mặt cao to, rám nắng, mặc lễ phục trắng. Các nhà nhiếp ảnh kêu lên: “Betty! Betty!” và cô đào điện ảnh nổi tiếng được các máy ảnh chụp như bắn tiểu liên vào, dưới mọi góc độ. Vừa cười, cô ta vừa nhấc cao tấm áo dài dạ hội, để đuôi áo khỏi quét xuống tuyết rồi ném cho những người vừa gào to tên cô lên câu: “Chúc lễ Nô-en vui vẻ!”. Những kẻ hâm mộ cô ta cười ầm lên.
Nhưng cả đại lộ đã đầy ắp những xe hơi nối đuôi nhau để đổ xuống nhà 71 những của quý ngồi trong xe. Có những sự va chạm, chen lấn và điệu bộ ba lê giật cục, khôi hài của những người lái xe vội vã lao xuống mở cửa xe cho các ông, đỡ bước cho các phu nhân. Một bà béo ị đeo đầy đồ nữ trang trượt chân trên tuyết, ngã ngồi xuống, giữa lúc một tiếng nói vô danh kêu lên: “Này mẹ ơi! Toàn đồ nữ trang giả phải không?”. Bà ta ngã khá đau. Nhiều vị quan khách cố dựng bà ta đứng lên. Những người hầu vội đến giúp một tay, và đã dựng được bà ta dậy, xốc nách bà ta đưa vào nhà, mặc dầu bà ta rất cáu. “Chúc lễ Nô-en vui vẻ!”, đám đông gào lên, cũng tham gia vào trò hề. Được hàng nghìn ngọn đèn pha chiếu vào, tòa lâu đài lấp lánh, loa lóa lên dưới tia chớp các đèn chụp ảnh đang làm rực chói những cành thông thấp, trả lại cho ngọn cây vẫn ở trong bóng tối phần nào cái huyền bí vốn dĩ của nó. Cuộc diễu lượn của các quan khách vẫn tiếp tục. Các bà dũng cảm đi vào khu vực tuyết đang rơi: bộ tóc được những người hầu giơ cao cố che hộ. Còn các ông cười vang, gọi nhau rất to, nhận ra người quen, khoát rộng tay, ngạc nhiên vì không ngờ gặp những kẻ như thế trong dạ hội, phủi tuyết bám vào áo. Một người khách qua đường - chắc là một tay ngán ngẩm sự đời - chỉ tay vào trán, lầu bầu:
- Thế này thì cứt thật!
Rồi anh ta quay đi, lẩn vào trong bóng tối nóng ẩm của cái đêm tháng Tám đáng ngạc nhiên này.
- Này anh bạn, có thích kiếm một ít bạc không?
Người thanh niên khoảng hai mươi tuổi vừa bị gợi chuyện, từ từ quay lại, cốc bia Alton Bitter trong tay. Anh ta có một bộ mặt xanh xao, kín đáo, đôi mắt lừ lừ, đa nghi. Mặc dầu còn ít tuổi, cái nước da xám màu chì của anh ta cho thấy anh ta vừa mới ở nhà tù ra. Anh ta đánh giá hai người lực lưỡng đang đứng trước mặt rõ ràng không phải bọn “cớm”. Anh ta ngần ngừ một giây rồi quyết định trả lời một cách ngu ngốc như câu hỏi:
- Sao các ông biết tôi cần tiền?
- Có ai hỏi anh có cần tiền hay không đâu. Chỉ hỏi có muốn kiếm một món kha khá không?
- Các ông làm ở ngành nào đấy nhỉ?
- Thôi! Ngấy lắm rồi! Bỏ cái trò làm cao đi! Muốn hay không muốn?
- Mẹ kiếp! Tất nhiên là muốn rồi. Nhưng này, cẩn thận đấy nhé! Để xem phải làm việc gì đã.
Hai người kia đưa mắt nhìn nhau rất nhanh. Người cao tên là Percy. Người kia to hơn, mập mạp tên là Wise. Họ có cái vẻ đúng như của họ, những kẻ vẫn lởn vởn ở các bến tàu thủy, nghĩa là họ không lạc điệu chút nào, trong cái đám khách của tiệm rượu Mỏ Neo, một trong những tiệm dành riêng cho đàn ông ở bến tàu, trên đường Bankside. Percy trả lời:
- Muốn đùa bọn tư sản một chút. Làm lộn nhào đêm đại hội của chúng nó. Để cười cho khoái mà!...
- Thì phải nói ngay là để đùa chứ! Tớ là đứa thích đùa. Bao nhiêu?
- Mười bảng!
- Phải làm gì?
- Đi theo bọn này. Lên xe vận tải rồi sẽ nói rõ chi tiết với cậu.
Người thanh niên lấy một đồng tiền gõ xuống quầy rượu để gọi người bồi. Wise khoát rộng tay, ngăn anh ta lại, vứt năm si-linh xuống mặt quầy, và nói với anh ta bằng một giọng thân mật.
- Để đó! Để bọn này trả!
Họ bước ra trong cái cảnh âm u của bến tàu, lởm chởm những cần cẩu, những đuôi tàu, những khung sắt. Không xa tiệm rượu, một xe vận tải chở hàng vô danh, đang đợi ở đó. Cửa sau xe mở ra.
- Lên đi! Cậu sẽ làm quen với những người bạn như cậu.
Trong xe, đã có đến mười người, ngồi chật hai hàng ghế hai bên, vừa hút thuốc, vừa chuyền cho nhau một chai Seagram mà họ lấy tay áo chùi miệng chai sau khi uống. Cùng lúc ấy, những vị khách của Kallenberg bắt đầu tới phố Mail. Đã hai tiếng đồng hồ, Percy và Wise đi khắp các tiệm rượu dành cho đàn ông. Họ bắt đầu từ tiệm Waterman’s Arms, ở đường Glengarnock, để lùng tiếp ở tiệm Round House ở đường Wardour, rồi tiệm Iron Bridge ở East India Dock. Ở đâu họ cũng chọn những thanh niên trẻ tuổi, đại khái có thể đóng vai sinh viên, nếu người ta không quá chú ý tới vẻ du côn và đôi mắt lấm lét của họ.
Percy và Wise là những thủ hạ của Bill Mockridge, người làm đủ cả mọi việc kể cả việc nhơ bẩn nhất của hãng International Shipping Limited (công ty hữu hạn quốc tế vận tải biển), một chi nhánh ở nước Anh của một công ty chuyên chở dầu hỏa nước Panama. Wise không ngốc gì. Trước khi hắn là chuyên gia về chữ viết, sau bị tù về tội giả mạo và lừa đảo. Hắn nghĩ rằng Mockridge làm cho Socrate, một trong những chủ tàu mạnh nhất lúc này. Nhưng do không tò mò và ba hoa - vì thế mà Mockridge đã trả tiền bảo lãnh cho hắn ra tù - Wise không hề nói chuyện nghi ngờ ấy với ai, ngay cả Percy, bạn thân nhất của hắn. Cùng với Percy, hắn hoàn thành nhiều việc rất kỳ lạ. Lúc thì là nhân viên vận động bầu cử, lúc thì đi phá các cuộc đình công, thỉnh thoảng lại đích thân ra tay “sửa” vài người hắn chẳng quen biết mà Mockridge bảo với hắn “là những thằng cha không đứng đắn”. Hôm nay, Percy và hắn được giao nhiệm vụ tuyển dụng khoảng một trăm thằng lưu manh để dùng vào một việc hắn đã được chỉ thị rõ ràng. Trên cơ sở trả mỗi tên mười bảng Anh, chúng sẽ đi theo Wise tới số nhà 71, phố Mail để làm cho buổi dạ hội của bọn nhà giàu náo động lên một chút. Không làm gì lớn, chỉ đẩy ngã vài tên, tung cứt vào đám khách. Lệnh cho đội quân biệt động ấy: làm náo loạn đủ cho cảnh sát phải huy động lực lượng tới, nhưng chưa thấy cảnh sát đã phải rút ngay. Wise tự hỏi không biết những thằng du côn tép riu ấy có đủ sức làm nhiệm vụ không, và bản thân hắn ta liệu có nắm chắc được bọn chúng không. Cứ đến nơi sẽ hay. Trong khi chờ đợi, hắn diễn thuyết một bài ngắn, giảng giải nhiệm vụ cho bọn kia. Sau đó, hắn sẽ chia tiền. Chiếc xe vận tải nhỏ hãm lại và đậu sát vào một cái kho lớn, vắng, lạnh lẽo, trong đó, Percy và hắn giấu bọn đã được tuyển dụng, Wise nhìn đồng hồ: một giờ nữa sẽ tới giờ G.
Raph Dun bảo người lái chiếc xe Cadillac mà hắn thuê, chạy nhanh lên. Anh ta vừa đi qua lâu đài của Kallenberg. Ở đó có chuyện điên loạn đang xảy ra, một cái gì như cuồng dại: từng đoàn người, kẻ nọ víu vào người kia, giành nhau chen lên bậc thềm để nhìn rõ các quan khách, xin chữ ký kỷ niệm, sờ mó vào họ, ngắm họ thật gần bằng xương thịt. Xe hơi đậu thành ba hàng san sát nhau làm cho Dun ngần ngại. Anh ta hoàn toàn không muốn đi vào một cách vô danh không ai biết tới. Anh mong chiếc Cadillac đỗ lại trước cửa, ở chỗ tuyết đang rơi xuống. Tài xế sẽ xuống mở cửa xe cho anh và người ta cũng vỗ tay hoan hô anh như những người khác, khi anh từ trong xe hơi bước ra, hai cô gái khoác hai bên tay. Một trong hai cô hỏi:
- Raph này... Tuyết thật đấy ư?
- Tuyết thật chứ sao, này em bé, ở đây cái gì cũng là của thật hết, đồ trang sức, tranh cổ...
- Gina, - Cô tóc vàng hỏi cô kia - xem hộ em tóc ở dưới gáy có giữ được nếp không?
- Tuyệt lắm rồi, tóc tuyệt lắm rồi. Đưa thuốc đánh mi mắt đây cho em...
Kallenberg đã nói với Raph: “Đưa ai tới cũng được. Tất cả bọn anh đều được hoan nghênh ở nhà tôi”. Ông chủ tàu tỏ ra thân ái. Những tư liệu người ta nộp cho ông buổi sáng nay ở nhà ông đã làm ông vui thích. Trong điện thoại ông đã nói thêm: “Anh bạn thân mến, đến tối nay, chắc chắn chúng ta sẽ tìm được cách ngồi riêng với nhau để nói về chuyện đó”. Dun tự phụ lắm về những lời ấy. Anh đã hẹn hai cô diễn viên ở Luân Đôn: Gina vừa từ Roma về trước đây hai tiếng đồng hồ và Nancy, một cô đào Pháp đang đóng phim ngay trên đất Anh này. Cả hai cô đều cố gắng hết sức mình: cô tóc nâu mặc áo trắng, cô tóc vàng mặc áo đen, như hai mặt của một con đô-mi-nô. Có lẽ chưa hết đêm nay, hai cô sẽ biến thành những miếng thịt tươi cho con yêu tinh. Tươi ư?... Đại khái cũng là tươi... Đã có thói quen dự những loại dạ hội như thế này, Raph thừa kinh nghiệm để biết rằng tới một lúc nào đó trong một đêm quá dài, nước da của những cô trẻ nhất cũng úa ra, của những nàng ít trẻ hơn thì ỉu xuống như những cái bánh rán để lâu, còn những nàng già thì lớp hóa trang trát trên mặt nứt rạn, để lộ ra cái bộ da mồi nhăn nhúm. Chiếc xe Cadillac đã đi hết vòng thứ hai, bắt đầu vào vòng thứ ba. Raph nhận định rằng việc mình bước vào nhà vẫn chưa được chắc chắn.
- Đi thêm một vòng nữa! - Anh nói với người lái xe.
- Lão ta có giàu như người ta nói không?
- Còn hơn thế nữa kia.
- Giàu hơn cả Socrate à?
Dun không thể nhịn cười:
- Cứ cho là hai người giàu ngang nhau. Nhưng những con hươu non của anh ơi, trong việc kinh doanh, bao nhiêu tai họa có thể ập tới. Cho nên mới giàu bằng nhau...
- Này Nancy, cậu có quen lão ta không?
- Quen ai kia?
- Kallenberg ấy.
- Không. Còn cậu?
- Cũng không. Lão ta có vợ chưa?
Dun thêm giấm thêm ớt vào câu chuyện của hai cô gái, bằng cách ngắt lời hai cô:
- Có rồi. Lão ta có vợ rồi. Nhưng đừng hy vọng lão ta lấy em nhé. Lão ta chỉ làm tình với em thôi, không lấy đâu.
Anh ta phá lên cười, nói tiếp:
- Sẵn sàng chưa? Tiến vào nhé? Nào, đi!
Rồi bảo người lái xe: “Dừng”.
Người lái xe luồn được vào hàng thứ hai là khá lắm rồi. Có tiếng kêu trong đám đông: “Tránh ra!”. Người ta nghe thấy tiếng còi của xe cấp cứu. Chiếc xe cấp cứu đã tới ngay sát lưng chiếc Cadillac, đèn pha nhấp nháy yêu cầu tránh sang một bên để nó lên trước. Người lái xe của Dun đành chuyển chỗ trước khi Dun và hai đồng hành kịp đặt chân xuống đất. Anh tài tiến lên năm thước nữa rồi bị kẹt cứng ở đó, đằng trước mặt là vỉa hè, còn bên phải, bên trái, đằng trước, đằng sau đều là xe hết. “Cứ đứng yên ở đây! - Dun kêu lên - Để tôi ra xem chuyện gì!”.
Anh ta đóng cửa xe và nhìn thấy hai người y tá xách một cái cáng tải thương, cắm đầu chạy ngược lên thềm nhà. Chỉ năm phút sau, hai người y tá đã khiêng ra một bà béo ị, đầy kim cương nằm thẳng cẳng trên cáng, bộ mặt đầy mỡ nhăn nhó vì đau đớn, chung quanh là một đám đàn ông mặc lễ phục hoa chân múa tay bu lấy. Mặc dù vẻ bi thảm của cảnh ấy, có ai kêu lên:
- Chính là con mụ vừa trượt chân ngã trên tuyết đây mà. Mụ ta gãy chân rồi.
Đám đông phá lên cười. Những người y tá gấp gáp lùa cái cáng vào trong xe cấp cứu, trong lúc một tiếng nói vang lên:
- Mẹ ơi, lần sau nhớ mang theo ván trượt nhé!
- Hay lắm! - Dun bực mình vì không tiến vào được như ý muốn, thầm nghĩ - Có điều là con mụ ấy đếch cần chúng mày. Và khi dạ hội vui nhất thì chúng mày đã ngáy o o trong cái chuồng súc vật của chúng mày rồi!
Anh ta tức giận đi về phía chiếc xe Cadillac để đón hai cô gái.
Amore Dodino làm cho huyền thoại thành ra không đúng: anh là ca sĩ nhưng anh lại không ngốc. Cũng cần nói thêm là giọng anh tồi lắm. Anh giống như một con ngựa đẹp. Cái đầu xương xương, hai quai hàm dài như cái bờm tuyệt đẹp, thân hình cứng quèo như tranh vẽ con nhân mã, hai cái mông giống như hai bán cầu hình bán nguyệt. Khi anh chuẩn bị phi nước kiệu để tới ôm một người bạn và hôn ba lần trên hai má bên phải, bên trái, bên phải, người ta cứ đợi tiếng hí của anh. Thay vào tiếng hí là một câu quái quỷ, bất ngờ như sét đánh, đả vào người bạn anh đang ôm hôn, làm những người chung quanh càng cảm thấy câu đó ngộ nghĩnh: Hoặc anh nói với Pierre một chuyện độc địa về Paul, rồi chạy tới hôn Paul - lại hôn ba cái phải, trái, phải - và tuôn ra một chuyện tàn ác về Pierre. Rút ra bài học: cả hai nạn nhân đều cười, biết rằng mình đang cười người kia, nhưng cũng vì thế mà coi như hòa. Ngược đời thay, những kẻ bị Dodino trêu chọc lại rất mê anh, biết ơn anh đã lấy mình làm đích để đả. Quả là Dodino không phải trêu chọc bất cứ ai. Thà bị những lời nhận xét độc địa của anh - thường được những người thán phục anh ta nhắc lại, bóp méo, làm đẹp thêm - còn hơn bị anh im lặng không nói gì tới. Vì sự im lặng ấy tương đương với một bản án tử hình ở trong cái vòng khép kín của “hội cà phê”, nơi mà việc bị gạt ra ngoài rìa còn giết người hơn cả án đầy biệt xứ dưới thời vua chúa. Không thật sự tìm kiếm nó, Dodino đã thấy mình nổi lên thành quan tòa của đẳng cấp ấy, thành ông chủ lớn có quyền thu nhập hoặc sa thải. Anh mà ghét ai thì người ấy khốn khổ! Chỉ bằng một câu thôi anh bắn trúng đích ngay, phanh ra những vết thương cũ mà tiếng cười của những người có mặt chung quanh, những kẻ đồng lõa với anh sẽ làm cho chúng bị nhiễm trùng thành hoại thư liền. Anh rất đáng yêu, tàn nhẫn không thương ai hết, đồng tính luyến ái như quỷ sứ và bất thường đến độ chẳng ai biết chắc rằng mình còn được anh thích thú lâu nữa hay không.
Lúc này, anh vừa chọn đánh vào một phụ nữ trẻ đang cười như nắc nẻ khi nghe những lời châm chọc của anh. Anh vừa nói với cô ta: “Cô bạn đáng yêu ạ, ở tôi chỉ có những lời châm chọc ấy mới làm cô co thắt được thôi!” Peggy Nash Belmont cười nấc lên và thấy Dodino “quả là một tay quá kỳ diệu”. Khi một người khách mới vừa bước vào phòng khách khổng lồ của Kallenberg, anh ta chỉ cần ba mũi tên sắc bén, không cưỡng được, là đã bắn trúng ngay người khách đó. Tất nhiên, anh ta thuộc làu danh sách những kẻ khổng lồ trên thế giới này. Và biết rất rõ Peggy là ai, tên tuổi, ông bà, của cải, quan hệ của gia đình cô, những lần lấy vợ của ông bố cô, tên tục của bà nội, bà ngoại cô, tên tắt của hai em gái cô, tình hình tài khoản của cô ở ngân hàng, tên người thợ may áo cho cô, người uốn tóc, và cả tên thứ nước hoa cô thích. Tuy vậy, Dodino lại đối xử với cô như chưa biết tiếng cô bao giờ. Peggy đã bị lừa, và cứ tưởng rằng mình vừa được “phát hiện ra”.
- Chị tha lỗi cho tôi một lát. - Dodino nói với Peggy.
Anh chạy vội tới gặp một bà to béo, đeo toàn đồ trang sức. Xuyên qua ánh lấp lánh của những đồ trang sức ấy mới thấy thứ hàng rất xấu màu xanh tươi của cái áo do một thợ may nổi tiếng cắt. Dodino nghĩ: “Áo đẹp đến đâu mà mặc vào người mụ ta thì...” Bà ta thừa thịt ở những chỗ phải thon, và mặc dầu bộ ngực đã nhô ra ghê gớm, bà ta vẫn to phía dưới hơn phía trên. “Nữ bá tước”! Dodino cười lúc cúc và gọi. Bà ta the thé kêu lên: “Dodino! Dodino bé bỏng của chị, lại đây với chị!”. Khom khom trên đôi vú của bà ta như kẻ trèo núi đang chơi vơi trên một tảng đá, Dodino cố vươn tới mặt bà ta đang rung rinh rất nhiều lớp đá - tùy theo cử động của bà, số cằm của bà tăng thêm hay rút đi. Một, hai, ba, hôn bà ta. Ông chồng của con khủng long ấy, bá tước Manfred Lupus, đi đằng sau, cười ngờ nghệch, như chiếc thuyền con mỏng manh bị một tàu chiến kéo theo. Ở Đức, ông ta là chủ hàng nghìn công nhân và một phần lớn tổ hợp công nghiệp ở miền Ruhr. Khi bà vợ nói, ông ta im lặng. Khi ông ta muốn nói thì bà vợ cắt lời, cái cuối cùng trên người ông, bà ta còn có thể cắt được, những thứ khác thì đã bị cắt hết từ lâu rồi. Dodino đã bỏ cặp vợ chồng ấy giữa biển, phi nước kiệu lại phía Raph Dun:
- Cậu cũng đến đây kia à? Thật là mời mọc lung tung quá! Giới thiệu mình với hai nàng tiên diễm lệ này đi... (nói nhỏ) Họ cũng để cậu đem hai khúc dồi này vào kia à?
- Đây là Gina... và đây là Nancy.
- Dễ thương quá! (nói nhỏ với Dun)... Hai đứa đều hôi nách! Các bạn có trông thấy con voi kia không? Con mụ Lupus... Tôi e mụ ta sẽ giở dạ đẻ ngay đêm nay mất! Thế mà người ta cứ bảo mụ ta ái nam ái nữ. Để tôi cho Jean biết mới được... Jeannot ấy mà? Các bạn biết chứ? Rostand ấy!...
Vừa nói, Dodino vừa đưa tay sờ đít Dun. Dun mỉm cười:
- Lại yêu à?
- Không, anh thân yêu ạ, hồi xuân. Tôi đang thời kỳ mãn kinh. Đừng có nhìn tôi như thế! Cứ tưởng như chính cậu ta cũng đang có mang ấy! (với hai cô gái) Nhìn hắn ta xem! Hắn có một bộ mặt người có chửa!
Gina và Nancy phá lên cười. Hai cô đã biết tiếng Dodino và sẵn sàng cười bất cứ điều gì anh nói ra, chỉ sợ anh cho rằng mình chậm hiểu. Những người hầu đi qua, mang theo những miếng bánh phết trứng cá trắng, theo sau là những đứa trẻ đeo tóc giả bưng cốc và rượu sâm-banh.
Trong một góc phòng, Socrate đang trêu vợ:
- Hình như em yêu chim đến độ phải thả hết cho chúng được tự do hả?
Khó chịu, Lena vờ ngắm say sưa bức tranh của Rubens treo trên đầu cô. Cách đó không xa, ngay dưới một bức tranh trinh nữ của Giotto, Belle Costa, vợ của Marc Costa, tài tử điện ảnh cấu rất đau bàn tay chồng:
- Anh không thoát được chuyện ấy với tôi đâu! Tôi muốn biết anh làm cái trò gì trong cái nhà bán khỉ ấy với con đười ươi cái kia!
- Em nghe anh nói nhé, Belle...
Ngay bên cạnh cái bục trải thảm nhung đỏ tươi, trên đó, một dàn nhạc thính phòng đang biểu diễn, Irène đứng tiếp nhận những lời chào hỏi kính trọng của các quan khách, những cái hôn tay ân cần, những lời chúc tụng, vẫn không ngừng mơ màng liếc về phía một nhà quý tộc trẻ người xứ Scotland. Đôi mắt cô mơn man vuốt ve cặp đùi chắc nịch và đầy lông lá của ông ta, lộ ra giữa đôi bít tất và gấu cái váy dân tộc. Được tốc cái váy ấy lên thì mất gì cô ta cũng sẵn sàng... Cô ta thở dài, dâm đãng.
Sáng nay, những viên thuốc an thần đã làm cô dịu đi phần nào. Cả đêm qua, cô ta không ngủ được. Kallenberg đã dùng thắt lưng quật cô ta liên hồi mà vẫn không thỏa. Suốt từ sáu giờ chiều tới giờ, cô đã uống thuốc kích thích thần kinh cộng với cà phê đen. Ngoài cặp đùi đang thôi miên cô, cô nhìn mọi vật qua một màn sương mù xanh xanh, xóa mờ vết nhăn của những người đối diện, làm cho khuôn mặt họ nhòa đi, chỉ còn hàm răng là cô ta nhìn thấy rõ lạ lùng và cô vô tình cứ đếm chúng. Một thay đổi đột ngột trong không khí buổi dạ hội kéo cô khỏi cơn mê mụ ấy: dàn nhạc chợt ngừng biểu diễn. Cô nhìn thấy Kallenberg đứng trên bục. Ông bắt đầu nói, hai tay giơ cao, tập trung mọi sự chú ý:
- Thưa các bạn...
Người ta vỗ tay hoan hô. Đứng bên cạnh Lena, Socrate bĩu môi khó chịu.
- Trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh hôm nay (tiếng cười vang lên)... Tôi muốn tặng các bạn một sự ngạc nhiên. Thưa các bạn... Món quà của tôi, đêm nay, đây...
Với cử chỉ một nhà ảo thuật, ông kéo tấm vải che một mặt bằng dựng tựa vào chiếc đàn dương cầm, lấy ra một bức tranh tuyệt tác của Degas “Bốn mươi hình múa”, hai vũ nữ ba lê đang tập ở gióng gỗ. Một tiếng kêu thán phục kéo dài vang lên.
- Bức tranh này là của các bạn! - Kallenberg nói.
- Bán đấu giá! - Một người nói đùa.
Kallenberg cười hiền hậu:
- Không, không bán đấu giá, mà là một cuộc xổ số. Một người trong các bạn sẽ được. Ở sau lưng tấm giấy mời của các bạn, có một con số...
Trong phòng lộn xộn hẳn lên: người ta lục lọi tìm lại các giấy mời.
Bà bá tước Lupus kêu toáng lên:
- Tôi trúng rồi, nhưng tôi đánh mất giấy mời.
Tiếng cười vang lên khắp mọi chỗ. Ông bá tước lại càng rúm người lại sau lưng bà vợ khủng khiếp:
- Và bây giờ, - Kallenberg nói tiếp - tôi cần một bàn tay vô tư...
Không ai động đậy hết. Kallenberg châm chọc: “Thế nào đây... Thế nào đây?...” Ông bước xuống ba bậc, từ trên bục đi tới, nắm lấy tay Lena một cách độc đoán. Cùng với cô, ông trở lại trên bục và xướng to:
- Vâng! Satrapoulos là em vợ tôi. Nhưng vợ Đức vua César thì không còn ai nghi ngờ được nữa.
Phần lớn các quan khách đều biết mối tình cuồng si của Lena với Marc Costa, và nhiều con mắt quay nhanh sang nhìn thẳng vào Socrate bề ngoài vẫn bình thản như không.
- Lena, nhờ cô rút hộ một số, một số thôi, được không?
Ông đưa cho Lena một cái bình bằng bạc chạm trổ tinh vi. Lena lấy ở trong đó ra mấy mảnh giấy gấp làm tư, giữ lại một mảnh, bỏ các mảnh khác vào trong bình. Kallenberg mở tờ giấy cô ta đã chọn và cất cao giọng, đọc: “93”. Trong một vài giây không xảy ra chuyện gì cả, rồi có những tiếng thì thào thất vọng và một tiếng kêu: “Tôi trúng rồi!”.
- Xin mời lên đây! - Kallenberg nói. Peggy bước lên bục. “Con yêu râu xanh” đỡ tay cho cô ta lên, lịch sự hôn những đầu ngón tay của cô và ôm hôn cô ta nói:
- Bức tranh Degas là của cô.
Người ta vỗ tay hoan nghênh, trong lúc Kallenberg cố nói thêm một lời trong tiếng ồn ào đó:
- Xin chúc một lễ Nô-en vui vẻ, các bạn gái và các bạn trai! Và bây giờ dạ hội thật sự bắt đầu! Xin mời tất cả vào bàn ăn!
Ở cuối phòng khách, cả một bức tường đồ sộ bằng gỗ tử đàn dịch chuyển, để hiện ra một căn phòng nữa cũng rộng ngang phòng khách. Và một phép lạ diễn ra: từ dưới mặt đất, từ từ dâng lên những chiếc bàn nhỏ, đầy thức ăn quý, trên có trang trí hoa, và những đèn chụp lụa hồng.
- Cứ y như trong truyện “Nghìn lẻ một đêm” ấy - Gina có bằng cử nhân văn khoa kêu lên.
- Không phải! - Dodino nghe thấy bình luận của cô ta, đáp lại - Đây y như ở lâu đài Châtelet... Ngày đại hội của bọn nhà quê.
Dàn nhạc thính phòng mở đầu, dạo những bản nhạc Nô-en, trong lúc bọn đầy tớ vội vã sắp xếp chỗ cho khách ăn. Dun hớn hở nghĩ rằng đây đúng là một ngày hội thật đẹp, tuy anh đã từng tham dự nhiều cuộc vui khác như thế.
Giữa hai đợt chúc tụng của quan khách, Irène lén chạy lên phòng riêng. Cô ta vừa vấp phải một chuyện hố to, và phải tìm cách sửa lại ngay bằng mọi giá. Có thể mất danh, mất giá chuyến này. Ngây thơ và không hề có ý xỏ xiên, em gái cô vừa hỏi Irène rằng chồng Irène đã tặng quà gì cho Irène nhân dịp lễ “Nô-en xinh xinh” của Irène chưa.
- Mười phút nữa, cô lên phòng chị sẽ rõ! - Irène đã trả lời ào cho xuôi, không nghĩ ngợi.
Thế nhưng, Kallenberg không hề tặng cô gì hết. Thường thường, ông không bỏ lỡ một cơ hội để tặng vợ những món quà kỳ lạ: đồ trang sức đẹp và quý như trong thần thoại, danh họa của các họa sư, áo đắt tiền, không phải ông coi những sự quan tâm vương giả đó là một biểu hiện của tình yêu, mà vì ông coi cô là đồ vật thuộc quyền sở hữu của ông và do vậy, đồ vật đó phải đóng góp vào việc nâng cao vinh quang uy thế của ông. Hơn nữa, từ sau ngày cưới, ông dùng những quà tặng để tiến hành một cuộc chiến đấu âm thầm chống lại Socrate. Trò ganh đua ấy dẫn đến những hoàn cảnh khá khôi hài, cả hai đều không muốn thấy vợ người kia được điểm trang tốt hơn vợ mình. Chỉ cần Lena nói với Irène về trò điên vứt tiền qua cửa sổ của Socrate cho mình là lập tức Kallenberg làm ngay một trò điên hơn, hoặc ngược lại. Ấy thế mà Kallenberg đã từng xô xát dữ dội với Irène về những chuyện bần tiện lặt vặt, ví dụ đã từng chửi cô ta khi cô ta quên tắt đèn, với cớ là cô định làm ông phá sản.
Còn những đồ nữ trang, thì vừa được tặng xong, chúng lập tức chui ngay vào các phòng bọc thép của các nhà băng để rồi chỉ được nhìn thấy ánh sáng mặt trời trong các buổi tiếp tân. Kallenberg rất dối trá, nói rằng hãng bảo hiểm thôi không nhận bảo hiểm những thứ nữ trang ấy nếu chúng không nằm an toàn trong các nhà băng.
Dù sao, để dùng hàng ngày, Irène cũng giấu đi được một vài thứ lặt vặt, trị giá tổng số độ hai triệu đô-la. Cô giữ chúng trong một tủ két giấu ở ngay trên đầu giường, bằng một bảng chép cùng thời một bức tranh của Titien, bức “Thần Vệ nữ và Adonis”. Sau khi lật bức tranh sang một bên, cô quay chữ số két và mở két. Vội vã run rẩy, cô lấy ra một vài thứ: một dây chuyền hình quả lê, nhiều nhẫn kim cương, những đôi hoa tai bằng hoàng ngọc, một đồ nữ trang bằng ngọc đỏ. Bàn tay cô dừng lại ở một cái vòng tay làm bằng ngọc lam và kim cương. Dưới ánh sáng của ngọn đèn trong két, cái vòng tay tỏa ra những ánh xanh lờ mờ. Cái vòng rất hài hòa với chiếc áo may ở tiệm Chanel, nhẹ như một đám mây bằng mu-xơ-lin màu xanh lá cây. Cô cô nhớ lại một cách tuyệt vọng xem em cô đã nhìn thấy cô trước kia đã từng đeo chiếc vòng ấy lần nào chưa. Nhưng đã có tiếng gõ cửa kín đáo ngoài kia và cửa mở ra, Lena bước vào. Irène không còn thời gian nữa, đành liều...
- Đây, cô xem...
- Khoan đã... Chị có phấn hồng ở đây không? Em có cảm tưởng mặt em nhợt nhạt ghê quá...
- Không đâu, cô trông được lắm mà... Lại đây xem đã...
- Chị Irène, chị khoan cho em một giây, em trông tởm quá...
Trong lúc Irène đang hư trương thanh thế thì Lena đã tiến vào trong phòng tắm. Sau ba phút chờ đợi khốn khổ khốn nạn, Lena mới xuất hiện.
- Đưa em xem nào...
Irène vứt cái vòng tay lên giường. Cô em hỏi:
- Của hãng Cartier à?
- Không, của hãng Zolotas.
- Cũng khá đấy... Em cũng có hai cái đại khái như thế này, nhưng của hãng Tiffany.
- Thế à? Chị chưa trông thấy cô đeo bao giờ.
- Chẳng có thời gian đeo nữa. Vòng đeo tay là cái tật của Socrate. Cứ tám ngày một lần, anh ấy lại tặng em một cái vào bữa điểm tâm.
- Hắn ta thiếu óc tưởng tượng quá nhỉ?
- Không đâu! Cách đây ba ngày, nhân dịp mừng đầy năm của hai đứa trẻ sinh đôi... Rồi chị thấy, lý thú lắm kia... Con bé hầu phòng của em mở cửa sổ phòng em vào lúc chín giờ sáng. Em thấy một gói đồ sộ buộc ruy-băng che kín cửa sổ, lấp cả phong cảnh bên ngoài. Em bảo nó: “Cái gì thế?”. Nó không trả lời, vừa đi ra vừa khúc khích cười... Một cái gói to lắm, có lẽ dài đến sáu mét, treo lơ lửng trên không. Chị thử nghĩ, phòng em ở tầng ba mà! Em ra cửa sổ nhìn xuống.
Bên dưới là một dàn nhạc đang chơi những bản nhạc chúc mừng. Cái gói từ từ hạ xuống. Em ra tới sân, xé giấy bọc, cắt ruy-băng... Một chiếc xe hơi Rolls... Khoan đã! Một chiếc Rolls trắng...
- Chà!
- Để em nói đã! Đây mới đến đoạn buồn cười... Trong xe, sắp chết ngạt là một anh chàng lái xe, người Philippin chính cống, mặc sắc phục đàng hoàng. Socrate đã biếu em chiếc xe kèm theo anh chàng lái xe ấy!
Khó chịu, Irène ngắt lời em:
- Này, còn chuyện Marc?
Lena tròn mắt nhìn chị:
- Ai kia?
- Marc Costa, diễn viên điện ảnh, hắn ta đang ở dưới nhà...
- À, Marc hả?
- Lena, tại sao cô cứ làm bộ giả ngây, giả điếc thế?
- Chị cho em xem những nữ trang của chị đi...
Tính thích khoe khoang đã thắng ý muốn châm chọc, Irène đi lại phía tủ két vẫn bỏ ngỏ:
- Lại đây xem cái nhẫn của chị.
Một viên kim cương trắng xanh, ít nhất phải tới ba mươi ca-ra gá trên một cái nhẫn vàng đơn giản.
- Đẹp tuyệt! Nhưng làm sao chị không đeo nó?
- Tùy cô muốn tin chị hay không thì tùy, nhưng cái nhẫn ấy nặng đến độ đeo khoảng một tiếng đồng hồ là chị không nhấc nổi tay lên nữa.
Lena vừa cười vừa nói:
- Sợ quá nhỉ!
Và nói thêm:
- Thôi, phải xuống dưới thôi!
Quay lại:
- Chị cho em hộp phấn hồng của chị, được chứ? Em bỏ quên hộp của em.
Irène ngần ngừ:
- Phiền quá, chị cũng gần hết. Mai phải đi mua mới được. Đợi một tí, chị gói một chút cho cô vào một mảnh giấy vậy...
Cảnh này diễn ra trong phòng kín. Mặc dầu phòng làm việc đã được cách âm cẩn thận, những tiếng nói, tiếng cười của phụ nữ, những tiếng nhạc rời rạc và một tiếng rầm, rì, vẫn cứ lọt vào tai hai người. Kallenberg cố tạo ra một bộ mặt lo lắng, đi đi lại lại, thỉnh thoảng dừng, đưa mắt nhìn một bức tranh. Bất động, mắt vẫn được che kín bằng đôi kính đen vĩnh cửu, Socrate không bỏ sót một động tác nào của Kallenberg. Hắn sẽ tấn công từ hướng nào? “Con yêu râu xanh” đánh lạc hướng:
- Tớ không hiểu tại sao cậu vẫn không lập một bộ sưu tập?
Socrate vẫn bất động, im lặng. Kallenberg nói tiếp:
- Dù cậu không thích hội họa về mặt mỹ học, thì đấy cũng là một cách đầu tư rất tốt.
- Cậu bảo tớ lên đây để dạy tớ một bài học về lịch sử nghệ thuật đấy à? - Socrate ngạc nhiên.
- Không đâu. Chuyện rắc rối hơn cơ. Và rất khó chịu.
- Cậu gặp chuyện khó chịu hả? Chuyện Irène à?
- Không, Irène khỏe lắm! Cám ơn. Chuyện cậu đấy!
- Tớ nghe cậu đây. Tớ có thể giúp đỡ cậu được không?
Kiểu chế giễu ấy làm Kallenberg sôi máu:
- Tớ nghĩ có lẽ chính cậu mới cần phải được giúp đỡ kia.
- Có chuyện gì thế?
- Tớ nói thẳng ra nhé. Tớ biết cậu rất quan tâm tới tay tiểu vương xứ Baran.
- Tớ không được làm như thế ư?
- Cậu hoàn toàn có quyền làm như thế. Vả lại chính tớ, tớ cũng quan tâm tới hắn.
- Thế thì sao?
Bực tức vì thái độ chế nhạo ấy, trong lúc ông ta đã nắm hết chủ bài trong tay, và biết trước kết quả trận đấu rồi, Kallenberg phải cố hết sức bình tĩnh, chọn chiến thuật thẳng thắn một cách thân mật, đồng lõa một cách trắng trợn:
- Tớ không hiểu tại sao cậu lại giữ miếng với tớ trong lúc tớ chỉ muốn cung cấp tin tức cho cậu. Chuyện này nói ra ngượng mồm quá...
- Cứ nói...
- Tớ thấy phiền quá. Đây không phải chỉ là chuyện tiền nong, mà là chuyện danh dự. Một chuyện có thể bôi nhọ cả gia đình.
- Gia đình nào?
- Nếu cậu quên, tớ kịp nhắc lại để cậu rõ chúng ta đã lấy hai chị em ruột làm vợ, và chúng ta là anh em đồng hao.
- Chuyện ấy có liên quan gì tới viên tiểu vương xứ Baran?
- Có, Socrate ạ, cậu không phải chỉ có toàn bạn. Cả tớ cũng thế. Tiềm lực của chúng ta, đoàn tàu của chúng ta...
- Liên quan gì?
- Tớ sắp nói đây. Vì những lý do tớ không rõ, nhưng có lẽ cậu rõ hơn tớ, có một nhóm các báo Pháp định đánh gục cậu.
- Thế hả? Đánh ra sao?
- Mẹ cậu.
- Sao? Mẹ tớ thì sao?
- Họ đã tìm thấy mẹ cậu. Bà ấy đã kể lại tất cả. Tớ không có quyền phán xét cậu, cậu nhớ cho điều đó. Nhưng chính bà cụ đã nói với họ rằng cậu để bà cụ sống rất khổ sở. Chưa bao giờ cậu gửi cho bà cụ một xu nào. Họ đã làm một cái phóng sự đầy đủ, ghi âm cẩn thận, rất nhiều ảnh.
- Rồi sao nữa?
- Thế là họ định đăng lên.
- Sao cậu biết chuyện đó?
- Họ tưởng tớ với cậu kình địch nhau và những tài liệu ấy làm tớ khoái chí.
- Bao nhiêu?
- Bao nhiêu cái gì?
- Cậu đã trả cho bọn ấy bao nhiêu tiền?
“Con yêu râu xanh” làm bộ buồn rầu:
- Tớ báo cho cậu biết tin mà cậu lại chửi tớ. Cậu thừa biết rằng mỗi dòng chữ viết về chúng ta đều được báo chí toàn thế giới đăng lại hết. Mỗi chúng ta đều có thể thua thiệt trong công việc làm ăn, nếu người kia bị chuyện tai tiếng.
- Tai tiếng ở chỗ nào?
- Hay thật! Cậu điên hay sao? Hay cậu nghĩ rằng ở cương vị cậu, có thể để mẹ cậu chết đói mà không bị trừng phạt?
- Vì sao thế? Bà cụ chết rồi à?
Kallenberg giận lắm. Ông đùng đùng đi lại cái bàn của ông - cái bàn chính Talleyrand đã dùng để kết thúc Hội nghị Vienne, rút một cái phong bì ra vứt lên đầu gối Socrate:
- Đây, cậu xem qua đi!
Vẫn đùng đùng, ông ta cắm điện vào máy ghi âm, trong đó có băng ghi lời tố cáo của bà cụ Athina. Đây là một sai lầm, ông biết lắm, vì động tác ấy tố cáo ông có chuẩn bị từ trước. Nhưng ông không thể cưỡng lại ý muốn lật ngửa bài ra. Trong cái im lặng của căn phòng, giọng nói của bà cụ Athina vang lên:
“... Ở đâu cũng bị đuổi cả. Chẳng trường nào chịu được nó quá tám ngày.
- Vì sao thế?
- Nó đã hư hỏng quá lắm rồi.
- Có bao giờ ông ta cố giúp đỡ cụ không?
- Không bao giờ hết!
- Ông ta có những lý do gì xác đáng để ghét cụ không?
- Nó không thể chịu được những người đã từng biết nó là một đứa yếu hèn, kể cả mẹ nó. Một hôm nó đã đánh tôi.
- Cụ chắc chắn thế chứ? Hồi nào?”.
Ấn mạnh tay, Kallenberg cắt đứt tiếng máy:
- Thế đã đủ chưa? Cả cuốn băng dài hơn hai tiếng đồng hồ. Còn những cái ảnh cậu đã xem rồi chứ? Cậu nhận ra bà cụ chứ?
Socrate đang lật xem qua những tấm ảnh ông cầm như kiểu một người chơi bài Pô-kơ, biết chắc đối thủ của mình có cả một bộ bốn vua. Ông ngần ngừ một chút rồi buông một câu:
- Không nhận được đâu.
- Điều đó làm cậu ngạc nhiên à? Cậu không gặp bà cụ bao nhiêu năm nay rồi nhỉ?
Socrate không trả lời, Kallenberg hỏi tiếp:
- Để tớ nói cậu biết: ba mươi năm! Cả điều ấy nữa, bà cụ cũng kể lại. Người ta thay đổi đi chứ. Suốt trong ba mươi năm trời kia mà. Nhất là khi người ta phải sống trong một chuồng lợn như thế!
Socrate đưa đôi mắt trầm ngâm ngắm “Con yêu râu xanh”:
- Dù không phải sống trong chuồng lợn cũng thế thôi. Cụ thể, cậu muốn gì nào?
- Chỉ muốn báo trước cho cậu biết mối đe dọa đang đè lên người cậu. Thế thôi.
- Thế ư? Thế còn Hadj Thami el-Sadek?
- Đừng làm bộ tinh khôn! Cậu thừa biết, vì những lý do chính trị, lão ta không thể ký kết với một chủ tàu buôn mà đạo đức không trong sạch... Tóm lại... tớ muốn nói... với một người bị lôi thôi về một việc dính dáng đến vấn đề gia đình thần thánh.
Socrate không thể nhịn được cười. Kallenberg chỉnh ngay:
- Chuyện ấy làm cậu cười được à?
- Mẹ cậu đâu nhỉ?
- Sao kia?
- Tớ hỏi cậu là mẹ cậu ở đâu?
- À... cậu thừa biết mẹ tớ chết rồi!
- Xin lỗi, đúng thế thật. Tớ quên. Cậu quả là người may mắn.
- Dù sao, không hề có ý xỏ cậu, nhưng tớ có thể nói cậu biết là chưa bao giờ bà cụ tớ nghèo túng cả.
- Ta bàn chuyện cụ thể. Nếu tớ không lầm, thì cậu định khống chế, để tớ rút khỏi cái hợp đồng ấy, phải không?
- Cậu nghĩ thế thôi. Tớ chỉ báo tin để cậu biết. Bây giờ, quyết định là ở cậu.
- Giết người thì có lợi cho ai nhỉ?
Những tiếng gào thét đùa giỡn từ những phòng nhà dưới vẳng lên. Rượu vào, chắc người ta vui lắm!
- Nếu như có chuyện giết người, thì không phải tớ là thủ phạm. Tớ xin nhắc lại rằng mẹ tớ chưa hề thiếu thốn cái gì bao giờ.
- Vâng. Tớ biết rồi. Cậu đã nói rồi. Bọn... bọn nhà báo ấy... Cậu quen bọn chúng à?
- Không. Tớ chỉ nhận được một tấm ảnh của mẹ cậu, với một dòng chữ ngắn ghi rõ tên tuổi bà cụ.
- Cậu thấy đối với họ, cái bài phóng sự đó giá độ bao nhiêu?
- Tớ có cảm tưởng không mua được bọn họ đâu.
- Dù trả giá bao nhiêu cũng thế à? Họ đang muốn bán cho cậu kia mà? Này... Cậu đề nghị thế nào nhỉ?
- Tớ chẳng biết nữa. Tớ có phải là cậu đâu. Cậu thật muốn ký cái hợp đồng ấy à?
- Còn cậu?
- Chẳng ai chắc rằng tớ có thể ký được cái hợp đồng ấy.
- Thế thì ai ký được?
- Mười kẻ khác! Livanos, Niarchos, Onassis, Goulandris, bọn Thụy Điển, bất cứ ai, miễn là lão Ả Rập kia được trả đủ số tiền hắn ta muốn. Không phải chỉ có chúng ta muốn ký hợp đồng ấy. Chính bà mẹ vợ chúng ta cũng có thể ký. Rồi bọn Hoa Kỳ, Pháp, Anh. Cậu thấy đấy, chuyện có đơn giản đâu.
- Đúng, không đơn giản. Nếu cậu ở vào địa vị tớ, cậu sẽ làm gì?
- Trước hết, tớ không ở vào địa vị cậu. Nhưng tớ cũng có suy nghĩ. Nếu bài phóng sự đó đăng lên, cậu sẽ hụt vụ áp-phe đó, điều ấy thì cậu biết rồi.
- Còn nếu như nó không được đăng lên?
- Cậu làm thế nào để ngăn họ không thể đăng lên được?
- Đúng, cậu nói phải lắm. Có thể tớ hỏng ăn kỳ này.
- Tớ cũng lo như thế.
- Thôi thì mặc kệ!
- Tớ thấy chỉ có giải pháp đó là phải hơn cả. Cậu rút lui phải lắm!
- Ai nói tới chuyện rút lui? Trái lại! Đằng nào cũng hụt ăn rồi, tớ cần quái gì nữa! Hồi này, tớ không biết cậu xoay xở ra sao, còn tớ thì một bộ phận trong đoàn tàu của tớ vẫn chết dí ở cảng, chẳng có hàng gì để chở hết. Tớ phải tìm ra hàng cho tàu chở. Mà tớ còn ba chiếc tàu chở dầu khổng lồ đang đóng ở Oslo nữa.
- Thế cậu để cho vụ bê bối đó nổ ra?
Kallenberg tức đến nghẹn thở. Rõ ràng Socrate đang bịp ông để làm ông bực bội phát điên lên. Nhưng sao Socrate gan góc đến thế! Bằng một giọng hiền lành, khiêm tốn, điểm những động tác bất lực, Socrate nói với ông:
- Chính cậu đã nói với tớ rằng những thằng cha ấy không chịu để ai mua được. Thà cứ để chúng thực hiện lời đe dọa ấy, còn hơn luôn thấy nó lơ lửng trên đầu mình. Cứ để chúng nó đăng lên! Dù sao tớ vẫn còn hy vọng có thể ký với tay tiểu vương kia.
Vừa thất vọng, vừa giận dữ, Kallenberg cảm thấy mặt mình đang tím lại:
- Cậu dám làm thế kia à? Chính để gây áp lực với cậu mà bọn họ mới bày những tài liệu này ra! Có kẻ đứng sau bọn họ chỉ huy, họ chưa dám đăng lên ngay đâu.
- Kẻ nào?
- Tớ làm sao biết được kẻ nào? Nhưng tớ có thể thử điều đình, có thể tìm hiểu xem đó là kẻ nào.
Socrate đứng lên, khẽ phẩy những tàn thuốc vô hình trên quần:
- Nếu cậu gặp được bọn họ - tớ biết, chuyện này không dễ dàng gì - cậu hãy nói với họ hộ tớ rằng tớ ỉa vào mặt chúng nó, tớ sẽ làm ăn theo ý của tớ. Và tớ không thích bị đe dọa chút nào hết, nghe không?
- S.S, cậu làm thế là sai, rất sai! Cậu chưa thấy rõ điều đó đâu! Cậu hãy nghĩ đến tớ... nghĩ đến Irène, đến Lena...
- Tớ đang nghĩ tới đây, đang nghĩ tới đây! Tớ đang! Tớ đã tính tới mọi chuyện rồi. Nếu một ngày kia, tớ nghèo túng như mẹ tớ, hoặc tớ bị một tai họa gì đó, tớ đã thu xếp để tất cả các anh chị sẽ có một món tiền trợ cấp hàng tháng cho đến khi các anh chị chết.
- Việc cậu làm ngốc quá! Đây là một tai họa!
- Cứ để rồi xem sao! Xin lỗi cậu, tớ phải xuống với Lena. Không bao giờ tớ quên chuyện đối xử của cậu ngày hôm nay. Rất cảm ơn và chúc cậu một lễ Nô-en vui vẻ.
Trước khi Kallenberg kịp tìm lời giữ ông lại, Socrate đã mở cửa bước ra khỏi phòng, trong tiếng hát, tiếng cười, tiếng kêu thích thú từ nhà dưới ào ào như một làn đạn liên thanh. Kallenberg ngồi xuống ghế một lát, đưa mắt ngơ ngác nhìn bức tranh của Cranach, chẳng tìm thấy ở đó một chút gì làm dịu lòng, bèn đứng dậy, bấm nút cho máy ghi âm chạy. Giọng nói của bà Athina làm ông yên tâm. Bà cụ nói:
- Nó lao vào đánh tôi.
- Năm ấy ông ta bao nhiêu tuổi? - Nhà báo hỏi.
- Mười ba tuổi.
“Con yêu râu xanh” vừa bị sự bình tĩnh của Socrate làm lung lay tinh thần, nay lại thấy khỏe lại. À được, hắn muốn chơi trò chiến tranh hả? Tốt lắm. Phải chơi cho hắn một đòn Trân-châu-cảng. Tất nhiên, ông muốn Socrate chịu thua một cách âm thầm, nhưng vì lão ta giả vờ như không hiểu... Có lẽ lão ta tưởng Kallenberg không hiểu... Có lẽ lão ta tưởng Kallenberg không dám thực hiện đến cùng những lời đe dọa chăng? Thế thì mặc xác lão ta, Kallenberg đi ra cửa. Ngay lập tức, ông sẽ bật đèn xanh cho Raph Dun.
Tiếp ngay sau không khí buốt lạnh của cuộc trao đổi, Socrate bị sức nóng và tiếng động của nhà dưới vả vào mặt như một cái tát. Bữa ăn tối kết thúc, rượu sâm banh Pérignon hồng Cliquot 1928 đã gây tác động, nhất là lại dại dột uống lẫn với Uýt-ki và Vốt-ka; những thứ rượu nặng này như có phép phù thủy không biết từ đâu đã hiện ra trên tay các vị khách. Mọi người đều nhún nhảy theo nhịp một dàn nhạc jazz đã đuổi dàn nhạc thính phòng ra khỏi phòng khách, S.S đưa mắt tìm cô vợ nhưng không thấy. Ông rẽ những cặp đang nhảy để tìm Lena. Ông gần như vô danh trong cái đám đông mà ông coi như những diễn viên phụ, một thứ bối cảnh của trận đấu vừa diễn ra ở hậu trường. Chỉ có Dodino, con người lúc nào cũng rình mò không để lọt một chuyện gì, nhận thấy Socrate có vẻ như vừa đánh mất một vật gì:
- Giai cấp vô sản đã trở lại với chúng ta! - Anh nói với chàng trai mà anh đang định dụ dỗ.
- Ai thế? - Chàng trai kia hỏi.
- Trời ơi, chú bé đáng yêu ơi, chú bé vừa rơi xuống đây hả? Cái gì cũng phải nói rõ với chú bé hết! Để anh giảng cho chú bé.
Hai tay anh ta nắm chặt lấy bàn tay chàng trai kia và bắt đầu dạy cho chàng về quan hệ xã hội, trước khi dạy về quan hệ tình ái.
Lena đâu nhỉ? Phía sau cái bục vừa diễn ra cuộc xổ số, Socrate mở một cánh cửa dẫn vào một hành lang đưa tới nhiều phòng, phần lớn đều đóng cửa. Ở một trong những căn phòng đó, ông nghe thấy có tiếng nói. Rất nhẹ nhàng, ông vặn núm cửa: ông ngửi ngay thấy mùi cần sa nhàn nhạt. Trong căn phòng căng toàn vải xanh da trời, ba cậu con trai và hai cô gái còn rất trẻ, đang vụng về hút những điếu thuốc cần sa như kiểu bọn học trò tiểu học hút thuốc trong chuồng xí. Một trong hai cô gái nằm trên giường, váy tốc ngược, để yên cho hai cậu con trai sờ soạng. Ông đóng cửa phòng lại mà không một ai trong bọn họ nói một lời nào, rồi mở cửa phòng thứ hai. Phòng tối mù mịt. Trong đó, những tiếng động khác nhau làm Socrate không nghi ngờ gì về nguồn gốc của chúng và cả con số người dự vào cuộc nữa.
Đúng lúc định quay trở lại phòng khách, ông vấp ngay phải Irène. Cô vừa vọt ra từ một cái cửa ở cuối hành lang, chắc dẫn đến một cầu thang nhỏ dùng riêng cho đầy tớ. Ông định cất tiếng nói với cô ta, nhưng cô ta không để ông có đủ thời gian nói. Cô ta đi lướt nhanh qua mặt ông, hình như không nhận ra ông, hay đúng hơn, có một thái độ kỳ lạ, máy móc mỉm cười với ông, kèm theo một tiếng lúc cúc nhè nhẹ trong họng. Socrate tròn mắt ngạc nhiên, không hiểu cô ta vừa giở trò gì trong cái phòng cô ta vừa đi ra. Thế rồi - Irène đã biến mất, bị nuốt chửng trong tiếng động và sự cuồng loạn của căn phòng dạ hội. Ông trầm ngâm đi tới cuối hành lang, hé cửa, đưa mắt nhìn vào. Chẳng có gì hết, ngoài một anh chàng người xứ Scotland mặc đầy đủ quần áo dân tộc, đang từ trên cầu thang bước xuống, vừa đi vừa đội lại mũ. Socrate tránh sang một bên để anh ta đi qua. Anh chàng người xứ Scotland kiêu căng nhìn ông từ đầu đến chân, như nhìn một người đầy tớ, khẽ gật đầu và lịch sự nói: “Xin lỗi...” rồi cũng biến mất luôn. Chẳng hiểu sao, Socrate nhún vai, quay trở lại phía ồn ào, để tìm Lena. Cuối cùng ông trông thấy cô ta ngay cạnh đấy đang say sưa nói chuyện với cô gái tóc nâu vừa trúng xổ số được bức tranh của Đê-ga, và một anh chàng duyên dáng đẹp trai, tóc mai hơi bạc mà ông không biết là ai. Ông đi lại phía bọn họ, khẽ đưa tay vuốt nhẹ lên đôi vai trần của vợ và xin lỗi:
- Lena, có lẽ chúng ta xin phép về thôi.
Lena quay lại, nói với những người bạn:
- Cho phép tôi được giới thiệu chồng tôi. Còn đây là ông Raph Dun, cô Peggy Nash Belmont.
Cái tên ấy S.S thấy quen thuộc.
- Cô có họ hàng với Christopher Nash Belmont không ạ?
- Thưa, đó là cha tôi.
- Ông ấy cũng là bạn thân của tôi. Xin phép cô cho tôi được lộ một chuyện. Cô và tôi đã từng ve vãn nhau đấy ạ, thành tâm tốt bụng thôi. Tôi đã gặp cô trong một cuộc đua ngựa. Ông thân sinh ra cô đã đưa cô tới đó. Lúc ấy cô độ sáu hoặc bảy tuổi.
Dun lập tức ca lên ngay. Anh khẽ nghiêng người về phía Peggy:
- Bạn đồng nghiệp thân yêu ạ, quả là bạn đi tới đâu cũng để lại dấu vết không phai mờ.
Kín đáo, Socrate bấm tay Lena nhiều lần. Họ chào Raph Dun và Peggy rồi theo bức tường để cô tìm lối ra.
- Thế còn Irène? - Lena hỏi - Em cũng chẳng kịp chào cả chị ấy nữa (Thực ra, cô ta chẳng cần quái gì phải lịch sự với chị gái; nhưng cô muốn đi thêm một vòng nữa để được trông thấy Marc. Vì có mặt vợ, Marc không dám ngẩng mặt nhìn cô, khi cô đi qua lại nhiều lần gần anh ta).
- Chị ấy nhức đầu.
- Ai nói với anh thế?
- Anh ấy. Anh vừa nói chuyện khá lâu với anh ấy trong phòng làm việc của anh ấy.
- Hai anh nói những chuyện gì thế?
- Chuyện hội họa. Anh ấy cô thuyết phục anh bắt đầu một bộ sưu tập hội họa.
Hai người ra tới hành lang, trước cánh cửa đồ sộ của lâu đài. Hai người đầy tớ mở hai bên cánh cửa.
- Thôi cũng được, để thứ ba tới, em sẽ gặp chị ấy ở New York vậy. - Lena nói.
- Em đi New York à?
- Chỉ đi ba ngày thôi, để xem trình diễn các kiểu áo mới mà.
Socrate cũng chẳng nghe rõ những lời vợ nói nữa. Ông chỉ có một ý nghĩ trong đầu: rời khỏi lâu đài càng nhanh càng tốt. Kallenberg có thể thành công trong việc làm cho tuyết rơi buổi tối nay, nhưng ông Socrate, sẽ tặng cho thằng cha ấy một trận pháo hoa lóa mắt! Ừ, pháo hoa? Ông khoái pháo hoa lắm! Đó là một món quà đẹp nhất ông có thể tặng cho thằng yêu tinh râu xanh đểu cáng kia, để soi sáng cái đêm Nô-en của hắn!...
Bill Mockridge đã dặn rất kỹ Percy và Wise là nên cố hết sức khoác cho trận đánh một cái vỏ tự nhiên và bộc phát, một thứ gì đó vừa trẻ vừa vui, kiểu sinh viên. Trong kho hàng ngoại cảng, Wise đã nói kỹ những điều cuối cùng với bọn đi đập phá thuê của hắn. Rồi từng nhóm nhỏ từ tám đến mười người, bọn chúng đi lẫn vào những người đi dạo mát đang đứng đợi xem các quan khách đến chậm hoặc những vị về sớm. Trước cửa nhà số 71, tuyết đã tan, nhưng trên các cành thông, tuyết chưa tan hết và nước từng dòng nhỏ chảy xuống. Trước cửa lâu đài, vẫn cái tiếng ồn ao ấy, vẫn những chiếc xe hơi chạy vòng tròn để tài xế cố tìm chủ trong đám người chen lấn lộn xộn. Đột nhiên, chẳng có gì báo trước, một vòng các thanh niên thành hình, bất ngờ như kiểu quần chúng tự phát. Hai viên cảnh sát vẫn đứng gác và những người hầu được phân công đứng ở cổng trông thấy một đám thanh niên vừa cười vừa hát, nhảy lên các bậc thềm, rồi ùa vào trong lâu đài như một cơn bão. Những kẻ đứng ngoài xem khuyên khích họ.
- Vào đi! - Một trong bọn họ kêu lên - May ra được ăn trứng cá đấy!
Chỉ có một người cảnh sát linh cảm thấy chuyện nguy hiểm có thể xảy ra... Anh ta bực vì thái độ thờ ơ của người bạn đồng nghiệp vẫn cứ cười về trò đùa ấy. Anh ta cố ngăn bọn thanh niên lại.
- John! Đừng để cho chúng nó vào! Chúng nó làm loạn lên bây giờ!
Người cảnh sát có tên là John nhún vai, cũng hơi bực vì thái độ quá nguyên tắc của anh bạn đồng nghiệp. Quan trọng cái quái gì kia chứ? Buổi dạ hội sắp chấm dứt và cũng cần phải được khuấy động lên chứ! Hơn chục thằng nhỏ - chưa tới hai mươi tuổi giờ đang chạy vào tòa lâu đài, vừa cười đùa, vừa xô đẩy mọi thứ trên đường đi, kể cả bọn đầy tớ. Bên trong, đầu tiên là một phút ngơ ngác ngạc nhiên. Rồi có tiếng the thé của bà bá tước Lupus kêu lên:
- Ồ! Trông bọn này chúng nó khôi hài chưa kìa! Dodino, mời một thằng vào khiêu vũ đi!
Xen lẫn với tiếng cười của bọn lưu manh, là tiếng rú lên thích thú của các phu nhân. Nhiều tên thanh niên cứ tự tiện ôm ghì lấy các bà, và kéo các bà vào một điệu nhảy điên cuồng. Dàn nhạc lại chơi mạnh hơn, kích động hơn. Từng đôi một hình thành, tan ra, quay cuồng. Và các ông chồng, chồng chính thức và không chính thức, hơi khó chịu, đành vờ cười gượng và tham gia vào sự vui vẻ ồn ào chung.
Đột nhiên, mọi chuyện thái quá với tốc độ rất nhanh của một tiếng xé, khi người ta dùng dao cạo cắt một mảnh vải rồi lấy hai tay kéo toạc ra. Bị một tên lưu manh gàn dở, vừa gầy vừa xanh ôm chặt, nhảy chồm chồm, bà bá tước Lupus muốn ngừng nhảy. Tên kỵ sĩ của bà chống lại, cứ quay tít bà đi. Con voi thời thượng cổ kia đã gỡ ra được và thuận tay tát luôn tên lưu manh một cái, như kiểu tát chồng. Mọi chuyện diễn ra rất nhanh. Tên thanh niên tái mặt, lấy đầu húc thật mạnh vào cặp vú của bà béo, hai tay túm chặt lấy tóc bà. Cảnh tượng bất ngờ đến độ không ai phản ứng hết: người ta chưa trông thấy rõ là chuyện gì. Mớ tóc của quý phu nhận chợt rơi khỏi đầu bà, để lộ một cái sọ gần như nhẵn thín, lác đác một vài mảng tóc xỉn màu. Cảnh ấy gây cười đến nghẹt thở. Bà bá tước mệt quá, tim đập thình thịch, không kịp chống lại khi tên kia cuồng lên, thô bạo xé nát cái áo của bà, móc từ vai áo, kéo một đường xuống đến tận gấu áo. Im lặng ghê rợn - bản thân các nhạc công cũng ngừng biểu diễn - trước người đàn bà to béo nhão xệ ấy, nom đáng thương khi mất mớ tóc giả, mất cả sự chanh chua, mất hết những lá chắn bề ngoài.