Chương 5
Chú bé Spiro đã lùa dê vào chuồng. Đêm vừa xuống. Thường thường chú bé trở về nhà sớm hơn. Nhưng con dê đen bị thương vào móng chân trái trước. Chú bé sốt ruột khi thấy nó đi chậm quá, đã phải vác nó. Chú đã lần chần mãi trên đồi, mồm ngậm một cọng rơm, nhìn lên trời xanh gay gắt hàng tiếng đồng hồ đến choáng váng, tưởng như nhìn trời có thể tìm ra những câu trả lời cho những vấn đề chú đang đặt ra. Cuộc đời một chú chăn dê thật đơn giản: những con dê, ăn uống và ngủ. Chỉ cần không có cái gì tới làm đảo lộn trật tự bất di bất dịch muôn đời đó. Nhưng Spiro bị xúc động. Chú bé muốn tìm ra ý nghĩa những sự việc chú ta chứng kiến, cố tìm trong trí nhớ ngây thơ của chú những dấu hiệu có thể dùng làm mốc phán đoán: chú đã không tìm ra: Những chiếc xe hơi đi đi lại lại ở một cái làng chưa bao giờ có xe hơi chạy tới, những cái máy bay lên thẳng không biết từ đâu tới và lại biến đi mất hút không còn dấu vết gì. Những chuyện đó làm chú bé ngơ ngác và hơi lo lắng. Cái không biết thường làm lo sợ.
Đã hai ba lần, chú bé đặt câu hỏi với ông chú ruột, nhưng rõ ràng ông này không muốn trả lời. Tại sao? Vẫn nghĩ tận đâu đâu, chú bé vặn chốt khóa cửa chuồng dê lại rồi vào trong căn nhà tường vách, nơi ông chú ruột và cậu ta vẫn ăn cơm. Đôi khi ông chú nấu một nồi cháo nóng, nhưng đại bộ phận thời gian, họ chỉ ăn vài quả ô-liu, một miếng phó mát trắng và một củ hành sống. Một năm hai lần, người ta giết một con dê con và chặt ra từng mảnh to, nướng ngay trong lò sưởi. Trên cái bàn gỗ to, hai cái ca sắt, một cái kia cho người đàn ông, đầy rượu vang đặc sánh có mùi nhựa cây, cái kia cho đứa trẻ, đầy sữa. Spiro được chú khuyến khích, đã nhấm thử một chút rượu vang. Mặc dầu thích làm người lớn, chú ta cũng phải nhổ ra, cổ họng chú ta không chịu nuốt thứ nước pha táp nham đó. Có lẽ khi lớn lên, chú ta sẽ uống được nó chăng? Chú ta ngồi bên trái người chú ruột. Câu nói buột khỏi miệng chú ta, mặc dầu chú ta không muốn nói:
- Tại sao bà cụ Athina lại đi khỏi đây?
Người đàn ông vẫn cắm mặt xuống đĩa thức ăn, không nhìn chú bé. Không biết nói thế ông ta đã nghe thấy chưa, chú bé nhắc lại câu hỏi:
- Họ đưa bà cụ đi đâu nhỉ?
- Ăn đi!
Chú bé chăn dê chỉ moi được có một câu như thế ở người chú.
Cùng lúc ấy, trên nước Anh và ở hầu khắp thủ đô các nước châu Âu, những tờ báo xuất bản buổi chiều, đăng lên trang nhất, chữ lớn, chuyện buổi dạ hội của Kallenberg. Ngay buổi sáng hôm sau, ông chủ tàu đã ra lệnh cho gọi điện thoại đi một số nơi, định dìm chuyện đó đi. Ông đánh giá rằng việc phô trương lên báo chí một đêm dạ hội bi kịch như thế chỉ có thể phản tuyên truyền cho công việc làm ăn của ông. Ông ngạc nhiên về phản ứng của những người nói chuyện với ông ở đầu điện thoại đằng kia:
- Ông quả là khiêm tốn quá đấy - Họ trả lời - Ông đã hành động như một vị anh hùng, và chẳng có lý do gì để giấu diếm chuyện đó!
Nhưng đó lại không phải là ý kiến của bà mẹ vợ ông. Ngay từ sáng sớm, bà ta đã gọi điện cho Kallenberg (đứa nào đã báo tin cho bà ta biết nhỉ?) hạ lệnh phải đưa trả Irène về Athènes một thời gian cho chuyện bê bối đó lắng đi đã. Lúc ấy, “Con yêu râu xanh” đã xử nhũn. Bây giờ ông mới thấy hối hận. Nếu ông biết được rằng báo chí chuẩn bị tuyên dương vụ giết người của ông, thì ông đã cho hê mụ mẹ vợ sớm rồi. Bà ta dính dáng gì vào chuyện của ông kia chứ? Thật ra, cũng chưa hẳn rõ ràng là một cuộc tuyên dương, nhưng dù sao, những lời nói về ông cũng là những lời khen đối với nghị lực và phản xạ của ông. Ông đọc lại đầu đề bài báo của tờ “Tin nhanh hàng ngày”: “Chém giết vì một đêm Nô-en”. Dĩ nhiên chữ chém giết thì...
Cái cảm giác được bắn vào thằng ấy thật khoái trá. Ông đã bóp cò súng, như ông đã bóp hàng nghìn lần ở phòng tập bắn, hoặc khi đi săn, môn thể thao ông thích nhất. Thằng thanh niên kia bị đốn gục giữa lúc đang hăng, đã rơi xuống, mọi cơ bắp của hắn tuyệt vọng căng ra. Khác với bắn vào một con vịt lắm chứ! Rất nhiều lần, đặc biệt đối với đàn bà, Kallenberg đã phải hết sức kìm bản thân lại, khi hai tay ông nắm chặt lấy cổ họ. Hoặc khi họ quỳ mọp trước mặt ông, chiều theo ý ông, ông chỉ muốn đá nát mặt họ ra. Đáng lẽ thế, ông lại phải làm bộ đùa bỡn, nắm lấy tóc họ, vờ đỡ cho họ đứng dậy, đôi khi tự hỏi những người đàn bà ấy có linh cảm thấy cái chết đang ở sát bên mình không? Tờ “Mặt trời” viết tế nhị hơn: “Tàn sát ở nhà một ngài tỷ phú”. Bài báo viết một cách trung lập. Thiếu hẳn những tiếng thét, máu, mùi thuốc đạn, làn khói xanh hai lần tất cả, bay từ nòng súng ra. Có ai ngờ Socrate, khi cử bọn du côn đập phá tới nhà ông, lại tạo cơ hội cho ông thỏa mãn cái thèm khát giết người mà ông khốn khổ mới kìm hãm được?
Tên người em rể tự nhiên cứ đến trên môi ông. Nhưng liệu có đúng hắn đã tổ chức ra trò ấy không? Kallenberg chắc chắn như thế đến từng thớ thịt trong người. Điều làm ông ngạc nhiên chính ở chỗ Socrate đã trả thù trước khi bị đánh, trước khi biết tin. Cho đến hôm qua, Socrate chưa thể biết được rằng Kallenberg có những vũ khí chống lại Socrate. Thế thì tại sao Socrate; lại nảy ra ý đồ biến buổi dạ hội thành một cuộc giết chóc? Có cái gì chưa ăn khớp ở chỗ đó. Kallenberg đọc lại bài đăng trên tờ “Mặt trời”:
“Trong một buổi dạ hội hoàn toàn tư riêng nhằm ăn mừng lễ Nô-en vào ngày 13 tháng 8, một bọn lưu manh côn đồ đã xông vào nhà riêng ở Luân Đôn của ông chủ tàu Kallenberg. Chúng đã làm các vị quan khách sợ hãi và đã làm một số người bị thương, khi những vị này chống lại chúng. Rất dũng cảm, sau khi đã báo cảnh sát, ông Kallenberg đã chống lại bọn côn đồ có vũ khí đang đe dọa vợ ông. Ông Kallenberg đã hạ sát được một tên. Trong người tên này không có giấy tờ gì hết. Cuộc điều tra đã chứng mình rằng tên này là Bi-đen Mua, một thủy thủ thất nghiệp đã có nhiều tiền án và đang bị truy nã. Bọn lưu manh giả làm sinh viên đi dạo, đã xông vào nhà, nên các quan khách không nghi ngờ gì...”.
Và sau đó một đoạn: “Bá tước Lupus, nhà đại tư bản ở vùng Ruhr, đã bị thương tích khá nặng trong cuộc xô xát. Bọn lưu manh đã ném ông từ trên gác ba xuống. Một bi kịch nữa đáng phàn nàn: vết thương trầm trọng của nhà quý tộc Scotland tên là In-tai. Ba tên lưu manh có lẽ say ma túy đã đánh ông ta rất dã man”.
Kallenberg, trước kia vẫn ngây thơ tưởng mình độc quyền về bạo lực bây giờ mới ngớ người ra khi thấy Socrate cũng dùng phương pháp đó, dù là thông qua lũ tay sai. Dù sao đi nữa, hắn ta cũng sẽ phải trả giá rất đắt về chuyện này, và phải trả ngay.
Sáu giờ sáng mới đi ngủ, “Con yêu râu xanh” đã trở dậy ngay sau hai tiếng đồng hồ. Ông lập tức viết cho tiểu vương một bản trần thuật dài, để báo cho tiểu vương biết rõ người ta đã định gây tiếng xấu đối với ông bằng cách nào. Wolf, người tâm phúc của ông, vài phút sau đã lên chiếc máy bay riêng của Kallenberg đặc biệt được chuẩn bị cấp tốc, bay thẳng tới Baran. Trong cái cặp trao cho Wolf, ông đã đặt những bức ảnh chụp ở nhà bà cụ Athina, cùng với một băng nhựa ghi những lời nói của bà cụ.
“Con yêu râu xanh” đã nói rõ trong bản trần thuật:
“Khốn thay, tôi không có đủ quyền lực - và xưa nay chưa hề đủ quyền lực - ngăn chặn vụ bê bối ấy. Theo những nguồn tin chắc chắn, tôi biết rằng những tài liệu về hành động xấu xa của người em rể tôi, sắp được đăng lên các báo chí. Quỷ thần chứng giám cho tôi là tôi đã làm tất cả để ngăn cái tai họa ấy giáng xuống gia đình chúng tôi. Bản thản Socrate cũng được tôi báo trước những âm mưu nhằm hại ông ấy. Thật đáng ngạc nhiên tôi thấy ông ta không hề xúc động mảy may”.
Tám giờ sáng, sau khi đứng nhiều phút dưới vòi hoa sen nước thật lạnh cho tỉnh táo, Kallenberg cho triệu Dun tới. Trọ ở một phòng trong khách sạn Westbury, phố New Bond, Dun vừa chuẩn bị đi ngủ thì điện thoại réo. Anh mệt bã người rồi. Sau chuyện lộn xộn, anh đã phải tới Sở cảnh sát vì người ta muốn được nghe chính anh thuật lại chuyện đó. Ở đấy, anh đã xác nhận lời khai của Kallenberg: đúng là ông Kallenberg đã bị hai tên dùng dao găm dọa và lôi ra khỏi phòng làm việc. Ông đã chống lại bọn chúng, giằng thoát khỏi tay bọn chúng, và đã lấy khẩu súng Beretta của ông bắn. Vâng, chính mắt Dun đã trông thấy hết, sau khi gọi cảnh sát. Anh đã chạy ra hành lang để tiếp cứu cho ông Kallenberg. Người ta đã cảm ơn Dun và trở về khách sạn, anh thấy Gina và Nancy vẫn đợi anh, rất lo lắng.
Mệt bã ra, vẫn còn run bần bật, anh đã chạy vào phòng tắm mở vòi nước nóng và để cả hai cô diễn viên giàu tình mẫu tử đến ghê gớm kỳ cọ lưng cho anh khá lâu. Thật ra anh cũng chỉ hơi ngạc nhiên thấy hai cô gái mặc có áo choàng ở trong phòng anh. Lơ đãng, đến lượt anh vuốt ve hai cô, cho đến khi cảm giác thống khoái làm anh quên dần được vụ ghê rợn anh vừa dính líu vào. Đúng lúc anh vừa nằm xuống giường giữa hai cô gái, thì anh nghe thấy tiếng chuông điện thoại khó chịu kia.
- Chuyện ấy có thể để chậm lại độ bốn, năm tiếng đồng hồ không? Tôi muốn ngủ một chút.
Kallenberg chỉ đơn giản trả lời:
- Tôi đợi anh đến ngay lập tức. Tôi có ngủ đâu kia chứ?
Anh đành lại mặc quần áo vào, mặc dù có sự phản đối của hai cô bạn gái mà anh không bao giờ ngờ rằng cả về mặt này, hai cô lại có thể đồng ý và đồng lõa với nhau được.
- Ngủ đi một chút, hai con hươu nhỏ của anh. Sau một tiếng đồng hồ, anh sẽ trở về.
Anh đã bắt xe tắc-xi ngừng lại ở một quán rượu để đủ thời gian uống hai tách cà phê thật đặc. “Con yêu râu xanh” đang đợi anh, tỉnh táo, tràn đầy sức sống, râu cạo nhẵn, và mặc bộ quần áo màu xám nhợt, y như một người vừa được xoa bóp sau một cuộc đánh khúc côn cầu. Ông vào thẳng ngay vấn đề:
- Chuyện vừa xảy ra đêm qua thúc giục tôi phải tiến hành gấp dự định của chúng ta. Bao giờ anh định cho đăng những tài liệu ấy, đăng ở những tờ báo nào?
Mệt đến ù tai, Dun cố trả lời cho chính xác:
- Trước hết các báo hàng ngày phải được thông báo. Tôi quen một hãng thông tấn có thể chịu trách nhiệm thổi tung các tin ra cùng một lúc cho các báo hàng tuần. Phải có một thời gian nhất định để in các ảnh màu...
- Anh có ảnh đen trắng không?
- Tất nhiên là có rồi...
- Thế thì hãy dùng ngay ảnh đen trắng trước. Còn các đài phát thanh?...
- Tôi sắp nói tới đây. Tôi sẽ liên hệ với một vài người bạn thân ở đài B.B.C để tối nay, anh ta cho phát đi một phần của cái băng ghi âm này.
- Còn các đài khác?
- Nếu tôi không để cho đài B.B.C độc quyền tin này thì có khi họ không chịu phát cho mình.
- Bậy! Đúng là một đề tài quá ngon lành nên họ không thể không dùng! Tôi muốn cùng một lúc, tất cả thiên hạ đều biết được chuyện này.
- Tôi sẽ cố làm cho tốt nhất việc đó.
- Phải rồi, cố làm cho thật tốt.
- Tôi không muốn vì quá vội vã mà lại bán thiệt thòi những tài liệu này.
- Đừng quan tâm tới chuyện ấy! Nếu anh bị thiệt bao nhiêu, anh cứ báo cho tôi biết, tôi sẽ trả anh một số tiền gấp mười lần, chưa kể mọi khoản phí tổn anh đã chi, tôi cũng trả hết.
Dun trầm ngâm thơ mộng. Bán khéo thiên phóng sự này có thể thu được tới ba mươi triệu đô-la. Đủ tiền để lao về Monte-Carlo hoặc Cannes, đánh bạc bù lại những thua thiệt anh ta đã phải chịu suốt mấy tháng nay. Anh ta liền trả lời:
- Tôi sẽ nghỉ độ vài tiếng đồng hồ, và sẽ bắt đầu cho tiến hành mọi chuyện.
Kallenberg cố kìm cơn nóng giận đang bốc lên: việc quốc gia đại sự như thế mà thằng ranh con ngu ngốc lại nghĩ đến chuyện đi ngủ! Ông nói bằng một giọng quá ngọt ngào, hoàn toàn trái ngược với trạng thái độ phẫn nộ đang có:
- Anh Dun ạ, nếu tôi có được địa vị như ngày hôm nay anh biết đấy, thì chính vì, khi cần thiết, tôi đã có thể vượt qua hết những bản năng sơ đẳng. Vì những lý do anh chưa biết được, tôi muốn những tài liệu này được lên báo chí trong một thời gian ngắn nhất. Anh muốn phụ trách việc này ngay tức khắc hay muốn để tôi bảo người khác làm?
Trong một giây, Dun thấy diễn qua trước mắt cái bóng ma của bao nhiêu chủ nợ, những món nợ đến hẹn chưa trả được chồng chất lên nhau, chiếc xe Ferrari sắp bị tịch biên. Anh đã phản ứng đúng hướng:
- Ông hoàn toàn đúng. Ra khỏi đây, tôi sẽ làm ngay mọi việc.
- Anh thật đáng quý đấy. Tôi xin phép nhấn mạnh rằng từng giờ một, anh nên báo cho tôi biết công việc tiến hành ra sao. Một giờ nữa, anh phải báo cho tôi biết phản ứng của các báo hàng ngày.
- Có điều là... Tôi sợ các ông tổng biên tập còn đang ngủ. Và tôi không liên hệ được với hãng thông tấn của tôi.
Dun cảm thấy mình đã đi quá xa.
Câu trả lời của Kallenberg chứng minh ngay cho anh thấy điều đó:
- Anh Dun ạ, thế thì đánh thức chúng nó dậy! Có nhiều lúc, tôi có cảm tưởng là chính anh cũng còn đang ngái ngủ...
Dun cố chữa bằng một câu đùa nhạt nhẽo:
- Có gì lạ đâu? Tôi chưa ngủ mà!
Và anh vội nói thêm, vì thấy Kallenberg có vẻ không tán thành:
- Tôi đi ngay đây. Từng giờ một, tôi sẽ gọi điện thoại về cho ông.
Về đến khách sạn Westbury, anh mới nhớ rằng phòng anh bị hai cô diễn viên xâm chiếm. Phải đuổi tụi nó đi ngay! Anh vào phòng, hai cô gái nhỏ ngủ. Anh lay Nancy:
- Dậy thôi! Đến giờ rồi!
- Đến giờ gì! - Cô tóc vàng cô tỉnh ngủ, và nói.
- Giờ cac em chuồn đi! Anh có việc.
Gina cũng bị đánh thức dậy. Cô ta rên rỉ vài tiếng rồi lại rúc đầu vào trong chăn.
- Mấy giờ rồi? - Nancy vừa gãi tai vừa hỏi.
- Sáu giờ chiều! - Dun nói dối.
- Chết thật! Em có cảm tưởng mới chợp mắt được mười phút.
- Đánh thức con bạn em dậy, nếu không, anh vào phòng tắm lấy nước lạnh dội vào người nó đấy!
- Anh Dun này, đúng sáu giờ chiều thật chứ?
Cô ta cầm lấy cái đồng hồ trên bàn ngủ:
- Đồ đểu! Chưa đến mười giờ sáng!
Bực bội, vừa mệt lử vừa vội vã, Dun trắng trợn nói hết lời cho cô ta hiểu!
- Ngấy lắm! Tôi đã bảo các cô cút đi mà! Tôi cần làm việc, cần gọi điện thoại. Đây là chuyện bí mật! Cô hiểu chứ!
Gina đã tỉnh hẳn, chanh chua nhận xét:
- Chưa ai dám đối xử với tôi như thế bao giờ! Người mới lịch sự hào hoa làm sao chứ!
- Bao giờ cũng phải có người bắt đầu! - Anh chàng nhà báo cáu lắm, gào lên.
- Anh bảo chúng tôi đi đâu bây giờ, vào mười giờ sáng với quần áo dạ hội thế này.
Dun đã gọi phòng tiếp tân:
- Tôi, Raph Dun ở phòng 425 đây. Ông có một phòng nào không có khách ở tầng hai không?
- Xin ông đừng rời máy... để tôi xem. - Người nhân viên tiếp tân trả lời.
Năm giây sau, anh ta trở lại máy:
- Thưa ông, phòng 427 không có khách. Mấy giờ thì các vị khách của ông tới ạ?
- Họ đang ở đây rồi...
- Thế ạ? Các vị ấy sẽ ở lại mấy ngày ạ?
- Một ngày hôm nay thôi. Cho tôi một cô hầu phòng lên đây. Các cô bạn của tôi sẽ nhận phòng ngay.
Anh cắt máy, nói thêm với hai cô diễn viên:
- Nghe thấy chứ? Cả một phòng rất rộng riêng cho hai cô. Chẳng cần mặc quần áo nữa. Cứ cởi truồng như thế đi qua hành lang cũng được.
Nhớ lại hình ảnh Ingeborg trần truồng đi trong hành lang khách sạn Ritz, anh mỉm cười.
- Đã thế hắn lại còn coi thường tụi mình nữa kia chứ. - Gina lầu bầu.
Dun ngồi xuống giường, phía trên đầu Nancy, hôn vào mép Gina.
- Em yêu ơi! Không phải anh coi thường em đâu. Anh đang trúng một quả vô địch, tuyệt vời, một quả như từ trên trời rơi xuống. Đây là chuyện ăn nhau từng phút. Tối nay, anh sẽ mời hai em đi ăn cơm tối, cùng với Zanuck. Không, anh không đùa đâu. Để hai em tha thứ cho anh mà. Bây giờ hai em đi ngủ đi. Và khi anh làm xong việc, anh sẽ tới đánh thức hai em dậy.
- Chuyện đi ăn với Zanuck là thật đấy chứ?
Nancy nghi ngờ hỏi.
- Xin thề trên đầu của Gina đây. Anh có hẹn gặp ông ta ở tiệm Mirabelle, chín giờ tối mà.
Có tiếng gõ cửa. Người hầu phòng gái thò đầu vào:
- Phòng đã sẵn sàng rồi ạ!
Khi Nancy và Gina đã đứng dậy, Dun phét vào mông hai cô. Anh lấy đầu lưỡi lướt trên vú Gina, tay thì sờ vào bụng Nancy:
- Hai em cứ đợi, không thiệt gì đâu! Số tiền thu được do bài phóng sự của anh, ta sẽ ăn mừng.
- Anh viết về cái gì đấy?
- Em sẽ đọc trên các báo.
Vừa ngáp, hai cô vừa khoác cái áo choàng bằng khăn bông ở phòng tắm vào. Nóng vội Dun đã mở sẵn cửa phòng cho hai cô. Hai cô đi ra. Anh nói với theo:
- Lát nữa nhé! Ngủ cho say vào để tối nay thật đẹp nhé!
Thở dài dễ chịu, anh vươn vai, nhấc điện thoại, nói với cô gái tổng đài:
- Raph Dun nói đây. Trước hết cho mang lên đây cà phê, trứng, mứt, toàn bộ, gì cũng được... Sau thì cô đừng có buông máy ra. Tôi cần gọi liền năm mươi cú điện thoại. Đầu tiên gọi cho tôi Victoria 25-03. Rồi...
Anh yêu cầu cả một loạt số điện thoại. Vừa nói vừa phác kế hoạch tiến công. Khi đã nói xong, theo thói quen anh không kìm được, hỏi cô tổng đài:
- Nói thật, cô tóc vàng hay cô tóc nâu thế? Thôi... thôi... để tôi đoán nhé... chỉ nghe giọng nói là tôi có thể biết được rồi! Cô tóc vàng sẫm!
- Ông thua cuộc rồi! - Cô gái cười rúc rích trong máy - Tôi hói đầu.
- Tuyệt vời! Tôi thích nhất hói đầu! Mấy giờ cô được nghỉ?
- Mười giờ tối nay.
- Làm việc mười hai giờ liền à? Bọn chủ khách sạn này đúng là chủ nô! Cô có phòng riêng ở đây không?
Cô ta ngắt lời anh:
- Tôi nối cho ông số điện thoại ông yêu cầu đầu tiên đây.
Nét mặt Dun trở nên chăm chú. Anh tháo lỏng nút ca-vát. Nếu làm ăn khéo, chuyến này chắc chắn ba mươi triệu nằm trong túi anh rồi. Sau năm lần chuông, Dun mới nói chuyện được với người ở đầu dây đằng kia:
- A-lô! Mike hả? Raph Dun đây! Nghe kỹ đây nhé và thật tỉnh ngủ đi!
- Tôi đếch cần biết! Tôi có được ngủ đâu kia chứ!
Thế là bây giờ anh nói hệt như Kallenberg rồi. Anh im lặng một chút, để chắc chắn rằng Mike đã tỉnh táo hẳn. Sau đó, anh nói tiếp:
- Tôi có một thứ... tuyệt vời! Không thể ngờ được... Bài phóng sự ghê nhất thế kỷ này... Trước hết cậu phải cám ơn tôi đã gọi điện cho cậu đi đã. Cậu có thể đủ tiền để nghỉ liền hai năm!
Édouard Fouillet làm giám đốc khách sạn Ritz ở Paris đã được gần sáu tháng, sau khi canh giữ số phận của khách sạn Ritz ở Luân Đôn suốt tám năm trời. Khi rời nước Anh, ông thở phào, quá sung sướng vì đã rời bỏ được cái tòa lâu đài cổ quá yên tĩnh với những phòng khách đồ sộ buồn tẻ, với những vị khách già quý phái. Bây giờ ở Paris, ông mới đang sống thật. Suốt thời gian ở Luân Đôn, bao giờ ông cũng thu xếp về nghỉ cuối tuần ở Enghien - nơi ông ta ra đời, nơi bà mẹ và ông bố dượng ở. Rõ ràng cái khách sạn ở quảng trường Vendôme này vô cùng náo nhiệt, hơn hẳn cái khách sạn ở Picadilly: rất nhiều khách vãng lai, những vị khách rất ông hoàng, một phòng ăn tuyệt diệu, và trước các bữa ăn tối, luôn luôn có những tiệc rượu đầy quan khách nổi tiếng.
Chỉ có điều là sự hoạt động không ngừng ấy sẽ không trôi chảy nếu không để một số chuyện bừa ẩu, hao phí xảy ra. Dao, dĩa ăn bằng bạc chuồn vào sọt rác, và những tên hầu bàn làm theo hợp đồng công nhật tới giấm giúi nhặt đem đi. Khăn ăn, khăn trải giường biến dần và ông đã phải sa thải một lão chuyên gia về rượu rất giỏi, về già lại thích nếm trước khách những rượu quý mà lão ta phải mang lên cho khách. Rượu xứ Bourgognes rất hiếm, của hãng rượu Romanée Công ty rượu vang đỏ, quý giá đến năm mươi ngàn phrăng cũ một chai. Những cái mất mát nho nhỏ ấy cộng lại hằng ngày, theo năm tháng thành một món tiền thiệt hại đáng kể. Cũng lại có những vị khách quyền lực quá cao, không thể đòi trả tiền ngay được - chuyện này ở Luân Đôn thì không hề xảy ra - lại cứ ở lì khách sạn, lần này qua lần khác, quên thẳng thừng những món nợ, và nếu đòi thì lại nổi đóa lên. Và nhất là ông phải chịu đựng những đòi hỏi ngày càng quá đáng của đợt sóng mới các ông con trai nhà giàu quốc tế. Có cậu tỉnh khô đưa vào phòng ngủ một lúc sáu cô gái, điều gây ảnh hưởng đáng phàn nàn đến các nhân viên. Có cậu tổ chức nhậu nhẹt chơi bời đến tận sáng rõ mặt người. Ông còn bắt được cả một sòng bạc bí mật ở một phòng sang trọng nhất. Tất nhiên, những con người ấy dù điên hay không, cũng để lại khá nhiều tiền vào quỹ khách sạn: nhưng cái thời của các nhà đại quý tộc đã qua mất rồi! Fouillet còn quá ít tuổi nên không được sống vào thời đó, nhưng ông được các bạn đồng nghiệp kể lại cho nhiều chuyện. Từ nay, và nhất là từ sau chiến tranh, ai cũng có thể có tiền được. Người ta thấy những người quái lạ vào khách sạn, bọn lái trâu, lái bò mới giàu, thô tục, nhồi nhét trứng cá vào cái giờ những người văn minh uống trà. Fouillet, người đã leo từng bậc thang của trường đời khách sạn, từ bao nhiêu đời nay đã biết khách bao giờ cũng đúng, cũng phải. Dù sao thì cũng phải có giới hạn nào đó không nên vượt qua, quá độ thì mọi chuyện thành điên loạn hết. Ông quay lại phía người trưởng phòng tiếp tân. Ông này vẫn đứng im đợi quyết định của cấp trên.
- Albert anh hãy nói thẳng cho biết ý kiến của anh.
- Thưa ông, tôi đã nói rồi. Tôi thấy thật khó có thể làm ngược với ý muốn của ông Socrate. Ông ấy là một trong những người khách tuyệt vời nhất của chúng ta. Và mọi người phục vụ ở đây đều sung sướng được hầu hạ ông ấy.
- Ông ấy đã trả bao nhiêu tiền cho chúng ta nhỉ?
- Ông thuê suốt năm một phòng lớn ở trên kia, mỗi năm tới độ hai, ba lần, và cho nhân viên phục vụ ào ạt tiền thưởng.
- Dù sao đi nữa, danh tiếng của khách sạn này...
- Ai biết được chuyện đó đâu ạ?
- Chỉ cần một tên bồi thang máy nào đó báo cho bọn nhà báo, thì chúng ta sẽ thành trò cười cho cả Paris.
- Thưa ông, không có tên bồi thang máy nào được vào các phòng hết.
- Thế còn các cô hầu phòng, những anh hầu buồng, họ cũng không được vào các phòng hay sao?
- Thưa ông, nếu đích thân tôi căn dặn họ thì tôi có thể bảo họ hoàn toàn kín đáo được. Nhiều người đã làm ở đây tới hai mươi năm và chẳng ai trong bọn họ muốn mất công ăn việc làm hết.
- Anh bảo đảm sự kín miệng đó chứ?
- Thưa ông, tôi nghĩ rằng tôi có thể làm được.
- Tốt lắm. Tôi giao toàn bộ trách nhiệm cho anh trong chuyện này.
- Xin cảm ơn ông. Để tôi lệnh dọn phòng số 504.
- Sao lại phòng 504? Tôi tưởng bà cụ Socrate ở phòng 503?
- Thưa ông, đúng thế ạ, đúng thế ạ... Nhưng... xin cứ tạm gọi là vị khách của bà cụ ở phòng 504.
- Quái đản thật! Anh có biết cái ông Socrate ấy không? Khi đến Luân Đôn, ông ấy không ở khách sạn của chúng ta, mà ở khách sạn Connaught. Ông ta như thế nào?
Albert suy nghĩ một lúc. Làm thế nào để tả lại Socrate nhỉ? Ông ta cố gắng:
- Đó là một người nhỏ bé, vừa đỏ vừa đen, khoảng từ bốn mươi đến năm mươi tuổi, rất hào phóng. Sao nữa nhỉ?... Đó là một con người mà không ai chú ý tới bao giờ, nhưng khi ông ta ở chỗ nào thì mọi người chỉ thấy ông ta mà không còn thấy ai khác nữa... Tựa như cái quá sức bình thường của ông ta lại làm cho mọi người phải càng chú ý tới.
- Ông ta có tật gì không? Đại khái, tôi muốn nói ông ta có uống nhiều rượu, hoặc đưa gái về phòng, hoặc thích bọn con trai nhỏ tuổi... Anh hiểu chứ?
- Khi ông ta tới ở đây thì chỉ chốc lát thôi, toàn giữa hai chuyến máy bay. Không ạ, tôi chưa hề nghe thấy nói gì về những chuyện đó.
- Thế mà đề nghị của ông ta...
- Cho phép tôi được nhắc ông chú ý là ông ta không hề dính dáng tới chuyện đó. Ông ta chỉ yêu cầu cung cấp tất cả mọi thứ bà mẹ ông ta thích, tuyệt đối không được làm trái ý bà cụ. Ông ta nhấn mạnh: từ ý thích nhỏ nhất.
- Cảm ơn anh, anh Albert. Tôi bị anh thuyết phục rồi. Tôi đồng ý. Có điều, tôi yêu cầu anh kín đáo và... và đưa... vị khách của bà cụ Socrate lên bằng thang máy dùng cho nhân viên phục vụ.
- Thưa ông, vâng. Để tôi thu xếp ngay.
Albert ra khỏi phòng Édouard Fouillet, để giám đốc của ông ta ở lại, lúng túng, băn khoăn với quyết định của chính mình. Quyết định ấy đi ngược lại tất cả những nguyên tắc cá nhân của ông. Tệ hơn thế nữa, đi ngược lại toàn bộ đạo nghĩa, của nghề khách sạn.
Để có thể chịu đựng nổi những chuyện vừa xảy ra, quả bà cụ Athina Satrapoulos mặc dầu đã bảy mươi lăm tuổi, phải rất khỏe và có một quả tim khỏe lắm. Suốt bao nhiêu năm ròng sống theo nhịp ngày đêm, không có gì làm mốc thời gian ngoài thời tiết bốn mùa, không có mối lo lắng gì ngoài những chuyện trước mắt với những chi tiết hèn kém nhất, hàng ngày nhất: bữa ăn, đàn dê, lò sưởi không thông khói, củi phải vác về, quần áo phải vá lại, cỏ cho thỏ ăn.
Rồi thình lình trong nháy mắt, sự đột nhập của thế giới bên ngoài vào cuộc sống như cây cỏ ấy, một thế giới mà bà cụ đã sợ hãi lẩn tránh, mà những tiếng vang điên dại, nhát gừng của nó không hề lọt tới bà cụ, một thế giới đầy những đe dọa, những bất ngờ, những hành động quái lạ mà bà cụ chẳng bao giờ đoán nổi mục đích, động cơ.
Bà cụ đang uống sữa trong căn lều của bà cụ thì có hai người đàn ông ập vào. Rõ ràng đó là hai người lạ. Bà cụ chỉ nhìn mặt là rõ, mặc dầu nếu họ không mặc áo choàng trắng đi nữa, cũng thấy ngay điều đó. Họ muốn gì? Bằng tiếng Hy Lạp, họ nói với bà cụ rằng mọi chuyện đã xong hết, bà cụ chỉ còn có việc đi theo họ. Đi theo họ ư? Đi đâu? Hơn ba mươi năm nay, bà cụ chưa hề rời vùng núi của bà cụ. Không nương nhẹ gì hết, bà cụ mời họ đi ra khỏi nhà ngay, lấy cớ là tới giờ ăn cơm và đúng là bà cụ đang uống bát sữa thật. Những lời nói của bà cụ có vẻ không thuyết phục được họ. Họ nghiêm trang, đứng như tượng, nghe bà cụ nói, gật gật đầu một cách hiền lành, thông cảm. Trước sự im lặng tươi tỉnh ấy, bà cụ Athina đã nổi nóng và dọa cho họ vài nhát gậy cời than. Từ lâu rồi, tư duy ý thức của bà cụ chỉ còn hoạt động từng lúc, một tia sáng nhỏ đủ soi chiếu cho những vấn đề hàng ngày của bà cụ, không còn đủ sáng suốt để hiểu nổi những vấn đề khó hiểu. Đôi lúc, tâm trí của bà cụ bận hàng ngày liền vào một vấn đề rất bé nhỏ, đại khái một cái khăn quàng mà ông chồng đã biếu bà cụ. Kỷ niệm ấy cho phép bà cụ suy nghĩ hàng tiếng đồng hồ, quên hết những gì không thuộc vào kỷ niệm ấy. Trong tâm khảm bà cụ thấy kỷ niệm ấy mãnh liệt, tràn trề, đầy màu sắc hơn cả cái thực tế nhạt nhẽo đã nuôi dưỡng nó. Có khi, rất hiếm hoi, một bà hàng xóm nói chuyện với bà cụ, bà cụ theo dõi minh mẫn câu chuyện của bà kia, cho đến khi bà cụ lãng đi, một vài giây thôi, nhưng đủ để bà hàng xóm ngơ ngác:
- Sao? Cụ bảo sao kia?
Bà hàng xóm nhắc lại câu chuyện và bà cụ Athina lại theo dõi được ngay. Với thời gian, những phút lơ đãng như thế dài thêm ra, nhường chỗ cho những suy ngẫm liên miên về quá khứ, hoặc những khoảng thời gian trống không, vô hạn định. Bà cụ chỉ thoát ra khỏi được sự trống không ấy khi phải làm những điều cần thiết cho sự sống còn của bà cụ: ăn, ngủ, lạnh, nóng, đàn dê. Những tín hiệu nhiều hơn là những hình ảnh, lời nói hoặc ý nghĩ. Bà cụ hoàn toàn không hiểu những người đàn ông này muốn đưa bà cụ đi đâu và tại sao? Bà cụ đang sống yên ổn trong căn nhà này và chẳng muốn động đậy đi đâu hết. Vả lại, làm gì còn có cái gì khác ngoài căn nhà này?
Bà cụ giận lắm, ra lệnh cho họ ra khỏi nhà. Đáp lại sự giận dữ của bà cụ, họ đã ra hiệu cho nhau, và tiến tới, một người bên phải, một người bên trái. Không biết nên đánh ai trước, bà cụ sơ ý một chút, là hai người kia liền lợi dụng tước luôn vũ khí của bà cụ, nắm chặt lấy hai tay bà. Bà cụ gào lên:
- Đàn dê của tôi! Tôi chưa cho chúng nó ăn gì cả!
Họ bảo bà cụ cứ yên tâm, thề rằng “Người ta” sẽ lo lắng chuyện đó, rồi kéo bà cụ ra ngoài. Trời đã tối, ấm áp dễ chịu, chân trời màu hồng và người ta trông thấy những ngôi sao đầu tiên. Có điều lạ là không một người hàng xóm nào ngó đầu ra mặc dù bà cụ gào thét. Bà cụ bất lực, thực tế bị hai người đàn ông nhấc bổng lên, đưa đi suốt mười hai căn lều mà không một ai tới cứu. Khi đi qua căn lều cuối cùng bà cụ thấy một chiếc xe hơi lớn màu trắng, bên sườn sơn một chữ thập đỏ to tướng. Tất nhiên bà cụ biết đó là một xe cứu thương và cơn giận của bà lại tăng gấp bội:
- Buông tôi ra! Các ông điên! Tôi có ốm đâu? Buông tôi ra!
Một người phụ nữ trẻ, tóc vàng, cao lớn, có vẻ rất dịu dàng cũng mặc áo choàng trắng, nở một nụ cười thân mật như rất vui sướng được gặp bà cụ, cô ta nói với bà cụ:
- Cụ Athina ạ, chúng cháu có làm gì phiền cho cụ đâu... trái lại nữa kia! Chúng cháu chỉ muốn mời cụ đi du lịch ngoạn cảnh và nghỉ vài ngày... Chúng cháu biết cụ đang cần nghỉ ngơi.
Bà cụ Athina tức uất người. Tâm trí của bà cụ hoạt động hết cường độ, tựa như bao nhiêu giờ vô tận hư không đã chuẩn bị cho nó lúc lâm sự thì tích cực tự vệ được. Bà cụ gào lên:
- Đi nghỉ ư? Nghỉ trên xe cứu thương ư? Buông tôi ra!
Bà cụ đã gọi to tên ông Alexandre, ông chồng bà cụ, người mà suốt bao nhiêu năm bà cụ không quên. Tưởng như ông chồng có thể bảo vệ được bà... Hai người đàn ông dùng sức đẩy bà cụ lên chiếc xe, họ nhăn mặt vì mùi hôi hám của bà già bẩn thỉu. Chỉ có cô gái tóc vàng là không chú ý tới mùi hôi đó, dỗ dành, dịu dàng nói những lời làm bà cụ yên tâm. Rồi, trong lúc một tên côn đồ thứ ba mở máy cho xe chạy, cô ta đưa cho bà cụ một cốc đầy rượu:
- Cụ uống đi... thứ này làm cụ đỡ căng thẳng.
Bà cụ Athina vờ nghe theo, uống một hớp và nhổ tất cả hớp rượu vào mặt cô kia. Cô ta không có vẻ giận, chỉ nói:
- Ô! Cụ Athina Satrapoulos! Như thế là không tốt!
Câu ấy làm cụ Athina cáu thêm. Nhưng dù sao, trong con mắt của cô gái ấy có cái gì đó làm bà cụ phải đề phòng. Sau lưng cô ta, bà cụ cảm thấy hai tên mặc áo choàng trắng đang làm một việc bí mật liên quan tới mình. Vừa kịp quay cổ lại thì một tên đã giữ chặt lấy bà cụ, mặt vẫn nhăn nhở cười. Tên kia chộp lấy hai chân bà cụ, mặc dầu có vẻ ghê tởm ra mặt. Cô gái lật ống tay áo rách nát của bà cụ mặc và tiêm vào cánh tay. “Con đĩ”; bà cụ còn đủ thời gian kêu lên. Rồi những bộ mặt chung quanh mờ dần; bà cụ thấy chúng không rõ nét nữa, nhân lên nhiều lần, bây giờ thì chúng thành sáu rồi. Những sáu kia ư? Trong cái xe cứu thương nhỏ như thế này sao có thể chứa được đến sáu đứa? Bà cụ Athina mê dần, buông thả dần...
- Sao con mụ già này hôi đến thế? Thật buồn nôn quá!
- Thấy ngay rằng các anh chưa bao giờ phải coi sóc những người già. Bây giờ các anh để tôi ở lại một mình với bà cụ. Tôi sẽ thu xếp...
- Nếu chị cần tới chúng tôi, chúng tôi ở ngay bên cạnh. Chị chỉ cần gọi.
- Được rồi, đồng ý.
Người nữ y tá đợi cho hai người nhân viên ra khỏi phòng. Rồi cô ta bắt đầu cái việc ít ngon lành nhất, cô nén cho khỏi buồn mửa: đó là cởi quần áo bà cụ Athina.
Qua cửa hé mở của căn phòng, cô ta đã nghe thấy nước ở trong phòng tắm chảy. Cô ta đã đổ nhiều muối thơm có mùi quả thông và hương thảo, dẫu sao vẫn không hy vọng chỉ một lần cọ rửa có thể làm bà cụ Athina mất được cái mùi dữ dội, rất mạnh, như mùi súc vật toát ra từ người bà từ bao năm nay. Bắp chân bà cụ, khi đã lột đôi tất rách nát, hiện ra mềm mại trắng lạ lùng trừ những chỗ ghét bẩn đóng lại thành từng mảng dày đến độ gần như cứng lên. Bà cụ lầu bầu cái gì đó, mở mắt ra, có vẻ không hiểu mình đang ở đâu. Bà cụ cố nói: “Khát!”. Cười rất tươi, Maria đưa cho bà cụ một cốc đầy nước mát lạnh và hơi ngọt:
- Mời cụ uống đi. Rồi chúng tôi sẽ tắm cho cụ.
Bà cụ uống hết cốc nước và thuận tay giúp cô cởi chiếc áo của mình...
- Cô tắm cho tôi à? - Bà cụ hỏi.
- Vâng. - Maria trả lời - Trước hết là tắm rửa, để cụ đẹp lên và thơm tho. Sau đó chúng tôi còn làm nhiều việc khác nữa. Những việc dễ chịu lắm, chắc cụ sẽ thích. Rồi cụ xem...
- Những việc tôi thích à? Tôi thích cái gì nhỉ?
- Khi cụ làm những việc đó, cụ sẽ thích. Bây giờ cụ đứng dậy! Cụ đi đi... Cháu sẽ đỡ cụ... Nước tắm của cụ sẵn sàng rồi.
Maria đưa hai tay đỡ hai bên nách bà cụ, vừa đỡ vừa không ngừng cười nói, mặc dầu cái mùi hôi không thể chịu nổi của bà. Ừ, thì tuổi già có thể coi như một nạn đắm tàu, nhưng tại sao lại coi là một tội lỗi được kia chứ? Một ngày kia, nếu Chúa thương, cô ta cũng sẽ già. Ai sẽ tắm cho cô ta? Hai người phụ nữ dừng lại ở cửa phòng tắm. Bà cụ đưa mắt nhìn Maria như dò hỏi. Cô nữ y tá gật đầu làm bà cụ an tâm.
- Rồi cụ sẽ thấy dễ chịu đến như thế nào.
Không nhìn thấy nước, chỉ nhìn thấy bọt nổi như núi, và mùi thơm cô chống lại mùi hôi của bà cụ. Bà cụ hoàn toàn trần truồng, cảm thấy mình không còn sức chống cự nữa. Vả lại bà cụ cũng không muốn chống cự nữa. Bà cụ chơi vơi, hiền lành, mềm mại, dễ bảo như một đứa trẻ buông thả mình khi biết mình sắp được nuông chiều. Cô gái tóc vàng này có vẻ dễ thương đây... Bà cụ ngồi lên thành bồn tắm, Maria đỡ cho bà tuột xuống cái biển bọt kia. Bà cụ nhớ lại ngày xưa bà cụ cũng đã có lần tắm rửa. Cũng cần phải biết xem mình sạch sẽ cho ai kia? Khi người ta sống một mình thì sạch sẽ làm gì kia chứ? Khi đã nằm trong nước ấm rồi, bà cụ thấy thần kinh mình đỡ căng thẳng và thoáng nhớ lại cảm giác một lần tắm biển, lúc còn con gái hai mươi tuổi, trong nước biển Địa Trung Hải ấm áp. Đột nhiên, mật độ của nước làm cơ thể nặng nề và đau đớn của bà mất trọng lượng. Đó là một điều không thể tả ra được. Nhẹ nhàng, Maria xát xà phòng lên lưng bà cụ, cố chống lại cảm giác tởm lợm, tự viện ra bao nhiêu cớ cho khỏi bỏ chạy.
- Bây giờ đến tóc.
- Cả tóc nữa ư?
Cô ta đổ thuốc gọi đầu lên những mớ tóc màu xám, khô kiệt.
- Xà phòng vào mắt, cay quá!
- Cụ nhắm mắt lại đi. Cụ cứ thoải mái. Dễ chịu lắm...
Đúng là dễ chịu thật. Bà cụ thấy những ngón tay nhẹ nhàng của cô nữ y tá xoa bóp khéo léo trên da đầu mình, như vuốt ve.
- Ta đang ở đâu đây nhỉ? - Bà cụ hỏi.
- Ở Athènes.
- Để làm gì?
- Chúng ta sẽ đi Paris. Rồi cụ sẽ thấy... Có rất nhiều quần áo đẹp đang đợi cụ. Và cả đồ nữ trang nữa.
- Đồ nữ trang à? Đâu?
- Ở ngay trong nhà này!
- Tôi thích có đồ nữ trang. Nhưng tôi chẳng nhớ những thứ đó dùng làm gì nữa...
- Để cho đẹp hơn.
- Tôi không đẹp. Tôi già rồi. Cô tên là gì?
- Cháu là Maria.
Maria cảm thấy mình đã thắng. Chưa tới một tiếng đồng hồ mà cô đã gần thuần hóa được con người này.
Thắng lợi này sẽ chứng tỏ chủ trương của cô là đúng. Cô chủ trương rằng sự dịu dàng có thể tạo ra phép lạ, cả cho súc vật và cho con người.
- Còn tôi tên là Athina. - Bà cụ nói.
- Cháu biết rồi.
- Cô muốn gì ở tôi?
- Cụ co chân lên... thế... lên một chút nữa...
Lát sau, choàng một tấm áo bằng khăn bông trắng tinh, bà cụ đứng nhìn những bộ quần áo mà Maria vừa lấy trong tủ ra.
- Cụ mặc thử nhé?
- Tôi ấy à?
- Vâng, cụ chứ còn ai nữa. Đây là quần áo của cụ.
Cô nữ y tá đã trải một vài bộ lên giường. Bà cụ nghi ngờ, bước lại gần rồi mạnh dạn sờ vào quần áo. Bàn tay bà cụ khô đét, gầy guộc, nắm lấy vải áo, vò nhàu, buông ra. Lần thứ hai, bà cụ lại sờ vào vải, lần này thì vuốt ve. Rồi bà cụ nhặt một cái áo, đưa lên gần mắt, mồm lẩm bẩm điều gì không rõ. Và thế là Maria đã chiến thắng: cô ta không cần nói một lời khuyến khích nào để xui bà cụ làm cái việc cô mong đợi. Thế mà bà cụ già nhà quê này, như có phép lạ, đã tìm thấy lại phản xạ bí hiểm của mọi người phụ nữ trước một đồ trang sức. Bà cụ khoác tấm áo lên người, tiến tới phía tủ gương, soi rất lâu vào đó. Bà cụ như ngạc nhiên khi thấy tấm gương trả lại cho bà cụ một hình ảnh đã quên từ lâu, đã thuộc về quá khứ nhưng vẫn mang cái tên Athina Satrapoulos. Maria nhẹ nhàng lại bên bà cụ.
- Để cháu giúp cụ mặc vào.
Bà cụ để cho cô gái cởi chiếc áo choàng ra, không phản ứng gì, nhưng khi không còn quần áo nữa, bà cụ quay mặt đi, không nhìn vào gương. Rất khéo léo, Maria đã mặc chiếc áo dài vào cho bà. Bà cụ cứ đứng cứng như tượng gỗ.
- Cụ đừng động đậy! - Maria nói. Cô chạy lại một ngăn kéo, lấy ra một vài thứ đồ trang sức, và quấn vào cổ bà cụ một chuỗi hạt trai.
- Bây giờ cụ ngồi xuống giường đi... để cháu đi giầy cho cụ...
Cô ta lấy bừa một đôi giầy, dễ dàng xỏ vào chân cho bà cụ và nói:
- Cụ ra soi gương đi... Cụ đẹp vô cùng!
Cô ta dẫn bà cụ ra trước gương. Bà cụ nín lặng, đôi mắt dán vào cái hình ảnh phản chiếu chẳng có ý nghĩa gì với bà. Sau khi đã ngắm mình rất lâu trong gương, nét mặt chẳng bộc lộ tình cảm gì, bà cụ có một phản ứng làm Maria phải ngơ ngác. Bà cụ phá lên cười, gò lưng xuống mà cười, chảy cả nước mắt. Cô gái lo lắng hỏi:
- Cụ không thích cái áo này ư?
Bà cụ càng cười ngặt nghẽo. Bỗng bà cụ ngừng bặt, nhìn thẳng vào Maria một cách nghiêm khắc, chỉ ngón tay vào mặt cô ta, như lên án. Bà cụ hỏi:
- Quần áo của tôi đâu?
- Thưa cụ... quần áo ấy rách nát quá rồi... cháu đã vứt đi rồi.
Bà cụ thét như phun ra:
- Vứt đi à?
Và bà cụ dữ tợn đi thẳng lại phía cô ta. Maria đứng lặng, hơi bực bội, chẳng biết nói gì, chỉ đưa tay ra như để bà cụ dịu đi. Cô ta bị ngay một bàn tay cào mạnh vào gò má, vết cào cháy bỏng. Cô bất giác đưa tay lên gò má bỏ xuống và ngạc nhiên nhìn thấy tay mình đầy máu. Hoảng hốt, cô ta gọi to về phía phòng bên cạnh:
- Các anh vào đây một chút... Nhanh lên!
Cô ta không muốn bà cụ thấy mình hoảng hốt đến như thế về sự man rợ của bà, nhưng cô cũng không kìm được để khỏi kêu lên hai tiếng “nhanh lên”! Cửa phỏng mở ra, hai người đàn ông xuất hiện, hình như họ vẫn rình ở phòng bên. Họ nắm lấy bà cụ, và nói với cô y tá bằng một giọng hơi chế giễu:
- Thế nào? Bây giờ thì làm gì nữa đây?
Maria vẫn đứng ôm má, thần ra nhìn bà cụ đang điên cuồng giãy giụa để cố thoát tay những kẻ giữ bà:
- Cụ làm thế là không tốt, cụ Socrate Satrapoulos ạ... không tốt... Quả là rất không tốt...
- Tại sao anh để em ở lại một mình lâu đến thế?
Socrate cố kìm một cử chỉ bực bội. Ông mệt lắm, và đang lo lắng thầm hỏi không biết câu chuyện khó chịu do Kallenberg gây ra sẽ diễn biến ra sao. Ông trở lại du thuyền hai tiếng đồng hồ không phải để chịu đựng những lời trách móc. Ngay những lúc bình thường, ông cũng không chịu nổi bất cứ một câu căn vặn nào nữa kìa.
- Sao em không đi cùng với anh tới Luân Đôn? Anh đã đề nghị em đi cùng mà.
- Anh cũng biết rằng em rất sợ cái kiểu dạ hội như thế. Anh có vẻ lo lắng? Anh có chuyện gì phiền không?
Ông cầm lấy tay chị và dịu dàng hôn lên tay:
- Em không tới đó là đúng. Dạ hội kết thủc một cách thực khủng khiếp. Rồi em sẽ đọc trên các báo... Thôi, em hãy nói cho anh biết về em đi. Em đã làm những gì?
- Em ấy à?... Em chán quá... Em đọc sách... Em ngắm biển.
Ông giữ trong tay mình bàn tay chị. Đối với ông, Wanda như một đứa trẻ nhỏ. Ấy thế mà chị sẽ mãi mãi vẫn là người đàn bà đẹp nhất thế giới, chừng nào mà loài người vẫn còn trí nhớ. Ông biết chị từ năm năm nay, và ông đã làm đủ mọi điều để chị khỏi chạy xa vòng tay ông, chất đầy lên chị những tặng vật mà chị dửng dưng, cho máy bay đi đón chị ở tận cùng trái đất đế đưa chị về du thuyền. Lúc đầu, cô vợ Lena của ông còn cáu. Rồi dần dần cô cũng quen đi, coi Wanda không còn là một người sống nữa, mà như một huyền thoại bị một vị thần bắt làm tù binh. Không phải một đối thủ mà là một thần thoại. Thật ra quan hệ giữa Socrate và Wanda ở vào cái tầm mà người bình thường không thể hiểu được. Khi chiến tranh kết thúc, ông thoáng nhìn thấy chị ở New York, giữa lúc chị vừa từ một khách sạn đi ra để chui vội vào một xe hơi. Hôm ấy, ông đã thề sẽ tới gần được chị, chinh phục và giữ được chị trong tay mình. Ông được biết chị vẫn thuê năm, một phòng ở khách sạn Waldorf, thỉnh thoảng lại về ở đấy giữa hai chuyến đi lang thang. Đổ tiền ra như nước trả một giá quá cao, ông đã thuê một phòng giáp tường phòng chị, ở tầng trên cùng của tòa tháp cao nhất của khách sạn. Ông đã run rẩy tới nhờ Nhà tiên tri bói hộ xem vào lúc nào ông có nhiều may mắn nhất để làm quen với chị, mà không bị đuổi đi.
Một hôm, giờ G. đã điểm. Nhờ sự đồng lõa của người gác cổng mà ông đã cho rất nhiều tiền, ông biết được chị sắp ra khỏi phòng. Phải làm ngay, nếu không sẽ vĩnh viễn không làm được. Ông đi đi lại lại trong phòng, lo lắng về ba bước chân sẽ đi trên thềm đầu cầu thang, tim thắt lại bởi một nỗi xúc động làm ông nhớ lại cuộc hẹn hò đầu tiên thời thơ ấu: Marpessa, mười bốn tuổi, gầy guộc, bẩn thỉu, bướng bỉnh, tuyệt diệu. Có điều ngày hôm nay ông không được hẹn. Chị sẽ phản ứng như thế nào khi ông lên tiếng với chị? Ông không muốn nghĩ tới chuyện đó nữa, định rằng sẽ tùy cơ ứng biến... Nếu như còn đủ khả năng! Ông lao vào phòng tắm, và tuy rằng ông đã chuẩn bị đầy đủ cho giây phút chờ đợi này từ mấy tháng nay, ông vẫn sửa lại nút cà-vạt đen, vẫn kiểm tra thật kỹ xem có sợi thuốc lá nào làm bẩn răng không, chạy ra tận cửa, mở hé ra. Cửa phòng đối diện vẫn đóng chặt. Ông chần chừ, bước ra ngoài hành lang, đi vài bước lưỡng lự và chậm chạp về phía thang máy, tự hỏi không hiểu nên vờ từ thang máy ra, hay sắp vào thang máy, khi Wanda xuất hiện. Nếu ông vờ từ thang máy ra thì thật khó có thể bắt chuyện với chị. Trái lại, nếu ông vờ vào thang máy, thì ông có thể cùng đi với chị suốt bao nhiêu tầng gác, ở bên cạnh chị trong cái phòng nhỏ căng toàn nhung xanh đen, hít thở mùi nước hoa của chị, hưởng thụ sự có mặt của chị, biết đâu chẳng được chạm vào người chị nữa... Nhưng sẽ nói với chị những gì nhỉ? Những lời nào? Ông cũng chẳng biết nữa! Ông đã chuẩn bị những lời nói đó từ lâu quá rồi đến nỗi tới phút quan trọng nhất lại đâm ra lúng túng. Ông cáu kỉnh nhận thấy ông có biết bao nhiêu quyền lực tồi tàn nhất: đó là quyền nói với một người đàn bà rằng ông thích chị ta, chính vì quả thật ông thích chị ta! Tại sao chinh phục những thứ khác - những thứ mà ông thờ ơ lạnh lùng - ví dụ tiền bạc chẳng hạn, hoặc đôi khi cả những người đàn bà khác thì ông táo bạo đến thế, trong khi có một ham muốn chính xác thì ông lại rụt rè? Ấy thế mà ông chắc chắn rằng nếu ông vượt qua được cái bước thứ nhất ấy, ông sẽ thành công ở chỗ mà bao nhiêu kẻ ghen tức với chị sẽ độc ác khẳng định rằng vị nữ thần ấy chưa hề được chiều chuộng bao giờ.
Chị bao nhiêu tuổi nhỉ? Phạm thượng! Ông tự giận mình đã dám đặt câu hỏi ấy. Bởi vì những giấc mơ làm gì có tuổi? Khi ông còn là thanh niên, ông đã được xem chị ở một trong những bộ phim đầu tiên của chị. Cũng như hàng triệu người khác, cùng một lúc với ông, ông đã thấy tim thắt lại trước sắc đẹp của chị, tuyệt diệu đến mức làm đau nhói. Ông đã thề sẽ tới gần chị, nói chuyện với chị, quen biết chị, và hồi ấy, còn thề sẽ tôn thờ chị. Sau đó, khi bản thân ông đã leo đến những đỉnh cao nhất của quyền lực, ông đã hình dung ra một cách thực tế hơn giấc mơ của mình: dù sao đi nữa, người đàn bà ấy chỉ là một người đàn bà, và những con người chỉ phải chịu đựng ở chung quanh đều không phải là thần thánh, mà là những con người, giống như tất cả những người vẫn phải quỳ phục trước quyền lực của ông ngày này sang ngày khác.
Ông đã bắt mình phải tự tìm biết thường xuyên mọi sự di chuyển của chị, đan một mạng lưới vô hình về tin tức do những người ông thuê tiền, chuyển từ khắp nơi trên thế giới về cho ông, nhưng vẫn cứ lùi lại mãi giây phút tiếp cận chị. Ông đã chần chừ mãi, trong việc tặng chị những quà tặng lộng lẫy đắt tiền, những món quà thật xứng đáng với chị, với ông, để rồi cuối cùng thì chọn giải pháp bình thường nhất: tặng hoa liên tục, điều không lo làm chị phật ý được. Ông không dám đề tên vào quà tặng, khó hình dung được rằng quyền lực và tên tuổi của ông lại có thể làm chị cúi đầu như những kẻ khác. Rụt rè một cách bệnh hoạn mỗi khi có chuyện gì dính dáng tới chị, dù lý luận thế nào, ông cũng không chịu coi chị khác với cái biểu tượng xa vời của những năm niên thiếu.
Cảm thấy can đảm của mình cứ tan rã dần, ông cố gắng dữ dội tự nhủ rằng chị cũng ăn, hai chân chị cũng đi trên mặt đất, cũng có lúc chị ngủ. Liệu có thật thế không nhỉ?
Tiếng đóng cửa kéo ông ra khỏi những mộng mị: chị đó, giữa lúc ông đang ở giữa đường từ cầu thang máy về phòng ông. Hoảng lên, quên hẳn không biết mình đang định vờ từ thang máy đi ra hay từ phòng ra thang máy, ông cứ đứng đực ra ở giữa hành lang, chết cứng, trong lúc chị đi thẳng lại phía ông, mặc một cái áo choàng nhẹ màu be rất giản dị, đôi kính râm vĩnh cửu trên mắt. Chị đi sát cạnh ông như một con tàu viễn dương choáng lộn đi qua một kẻ đắm tàu: không hay biết, không nhìn thấy. Không nhìn ngang nhìn dọc, chị rút vào thang máy, chẳng cả kiểm tra xem thang máy có ở đó không nữa. Nó có ở đó, rõ ràng là vĩnh viễn nó phải có mặt ở đó, vào chính lúc chị hạ cố mà xuất hiện. Ông còn lại có một mình, bị sự kiện nhanh chóng vượt qua. Lúc đó ông mới nhận thấy những bông hồng ông gửi tặng chị vẫn để ở ngoài cửa phòng chị. Cả ông lẫn chị đều như không nhìn thấy những bông hoa ấy. Ông cảm thấy mình mỏng mảnh, dễ vỡ: như thế là hỏng rồi. Ngay lúc ấy ông chưa biết nhưng trong suốt một năm, ông sẽ không còn được gặp lại chị nữa.
- Anh đang nghĩ gì thế?
- Nghĩ đến em. Nghĩ đến phương pháp anh đã dùng để gần em, trước khi làm quen được với em.
Wanda cười nhỏ nhẹ:
- Trước khi biết em, anh đã tồn tại chưa nhỉ?
Ông nghiêm trang nhìn chị:
- Đôi lúc chính anh cũng tự hỏi mình điều đó.
Ông buông bàn tay chị ra, nói thêm:
- Anh mệt quá. Anh đi tắm và thay quần áo đây. Lát sau anh quay lại.
Ông trở về phòng mình, trong đầu đầy hình ảnh của chị, chị không còn sống trong hiện tại nữa. Một lát sau, khi đang lơ đãng xát xà phòng, những chi tiết của cuộc gặp gỡ thứ hai lại hiện lên trong trí nhớ. Lần này thì ở Roma, ở nhà một người bạn chung của hai người. Người bạn này biết được nỗi si mê của ông đối với chị cộng với tất cả những lo lắng lần thất bại đầu tiên gây ra, lại thêm một ám ảnh nữa: ông thấp nhỏ quá. Wanda cao hơn ông hẳn một đầu. Trong lúc nữ chủ nhân với một vẻ châm biếm không thể chịu được giới thiệu hai người với nhau, ông vừa lúng búng những lời chào hỏi lịch sự thông thường và cố gắng một cách tuyệt vọng đi giật lùi về phía những bậc thang của cái cầu thang trong nhà: nếu tới được đó thì ông sẽ thoát!
Vừa đi nghiêng người, vừa huyên thuyên nói một tràng dài mà Wanda theo phép lịch sự cứ phải vờ nghe. Ông đã buộc Wanda phải đi theo ông cho tới khi bàn tay ông để ở sau lưng, sờ được vào tay vịn của cầu thang. Ông kín đáo thò mũi chân lại sau lưng sờ soạng: nhất định cái bậc thang khốn kiếp đó phải ở chỗ của nó chứ: Khi ông đã cảm thấy được cái bậc thang ở dưới gót giày, ông đặt hết trọng lượng của mình vào bàn chân phải và cố hết sức giữ thăng bằng, chưa dám đưa nốt chân kia lên. Một người khách vô tình đã cứu ông bằng cách chạm mạnh vào người ông: ông lợi dụng thời cơ leo liền một lúc hai bậc thang. Wanda vẫn đứng nguyên. Ông thở phào. Bấy giờ thì Wanda phải ngẩng đầu lên để nhìn được ông. Chị có nhìn ông không nhỉ? Đằng sau tấm bình phong của cặp kính đen to tướng, không thấy đôi mắt Wanda. Thật ra chị thấy rất rõ cái trò trẻ con của Socrate, và nghịch lý thay, chị lại mủi lòng vì một con người có quyền lực đến thế mà lại vụng về như vậy. Chị muốn giúp ông. Nhón chân, chị khẽ nói vào tai ông:
- Ông có muốn chúng ta cùng ra ngoài hiên kia không? Ồn ào nhiều người thế này, những lời ông nói, tôi chỉ nghe câu được câu chăng...
Năm phút sau, họ đã tới được hiên nhà. Đêm vừa xuống và trong không gian, khắp mọi nơi những chấm lóe sáng lên như mừng một hội vui mênh mông, không mục đích. Socrate mời Wanda ngồi lên một cái đu nhỏ, cố thu xếp để một trong những đèn pha chiếu thẳng vào Wanda. Nhưng vừa ngồi xuống, chị đề nghị ông đổi chỗ cho mình, vì bị ánh sáng quá rực. Đến lượt ông lại bị ánh sáng chiếu thẳng vào mặt, ông chỉ nhìn thấy những đường viền tuyệt đẹp chung quanh thân hình chị. Luống cuống, ông cứ nhấp nha nhấp nhổm cảm thấy mình phải nói nhưng chẳng biết nói gì, bàng hoàng bởi cái thực tế là ham muốn của ông đã được thực hiện. Ông đã tiếp cận được chị.
- Ông hãy kể với tôi về ông đi, ông Socrate...
Ông cảm thảy mình hoàn toàn ngốc nghếch, đã để cho chị nắm được ưu thế chủ động tiến công. Ông trả lời một cách nhạt nhẽo:
- Chị muốn tôi nói những gì kia ạ?
- Những điều ông không nói với ai khác. Tôi chỉ biết về ông qua báo chí, và qua kinh nghiệm, tôi biết rằng báo chí toàn nói dối. Ông là người như thế nào nhỉ?
Ông câm lặng. Chị lại nói tiếp:
- Tôi biết ông là chủ tàu, ông đã có vợ. Ông rất bận công việc... Cuộc sống của ông thế nào nhỉ?
Suýt nữa ông trả lời: “Sống khổ như chó!”. Nhưng định nghĩa ấy không phản ánh đúng ý nghĩ của ông. Thế thì nói sao đây? Thường thường người ta chỉ hỏi ông kiếm được bao nhiêu tiền, có ai hỏi ông là người như thế nào đâu... Những từ ngữ đến trên môi ông rất bất ngờ, nhưng ông không nói ra, những câu giải thích được tất cả, những chuyến đi, những cuộc chiến đấu, sự mải miết lao đầu về phía trước không ngừng, không thể giải thích nổi. Nỗi cô đơn về tâm hồn, tài năng lỗi lạc về tài chính, những lo âu, sự thèm muốn đến tuyệt vọng tìm được một người để tâm sự, một người hiểu ông, không giả vờ hiểu như Lena. Đáng lẽ nói những lời ấy ông lại chỉ nghe thấy mình trả lời đơn giản:
- Tôi luôn luôn thấy rất cô đơn.
Từ thẳm sâu sự suy nhược thần kinh của chị, Wanda thấy xúc động về sự khiêm tốn của lời thú nhận ấy mà đằng sau nó, chị cảm thấy có biết bao điều là chung của cả hai người, và liên quan tới chị. Chị cũng cô đơn, cô đơn một cách thảm hại giữa biết bao nhiêu tán tụng, tôn sùng mà không một điều gì có thể sưởi ấm được. Dịu dàng, chị thầm thì:
- Tôi rất hiểu ông, ông Socrate ạ... Ông tin vào số tử vi không?
- Sao kia ạ?
- Tôi muốn hỏi ông có tin vào số tử vi không?
Socrate không muốn bộc lộc hết ngay tâm trạng. Kinh nghiệm đã dạy ông rằng trong tình yêu cũng như trong việc kinh doanh, bao giờ cũng cần giữ lại một vũ khí bí mật, phòng khi đối phương tưởng chừng đã ngã, lại bất ngờ lật mặt hắn ra. Vì vậy ông không dám thú thật là ông chỉ tin ở số mệnh, và Nhà tiên tri đóng vai cố vấn tin cẩn nhất trong cuộc đời ông.
- Còn chị, chị có tin không?
Chị có vẻ ngạc nhiên:
- Sao lại không tin kia chứ? Những vĩ nhân cũng đã tin tướng số, tất cả những người mà ở mọi thời đại đã xây dựng lên thế giới này. Chúng ta chỉ là những con người hèn mọn...
Ông nghe những lời đó, ngạc nhiên vì một con người cao c?