Chương 6
Khi máy bay hạ cánh xuống Baran, Socrate đã dặn kỹ người phi công:
- Đừng có đi khỏi máy bay. Anh cứ ngồi trong buồng lái với anh giữ vô tuyến điện. Bọn dân ở đây có thể ăn cắp cả máy bay hoặc tháo rời ra từng mảnh mang đi bán lại từng bộ phận đấy!
Trên đường bay, Socrate thấy một xe hơi tiến lại phía ông, dĩ nhiên là một chiếc Rolls, cắm cờ mang quốc huy Baran. Ông bịt chặt hai lỗ mũi và thở ra thật mạnh để tai khỏi ù. Ông liền nghe thấy tiếng lốp xe hơi rè rè chạy trên con đường trải nhựa, đang sôi lên dưới nắng. Một người từ trong xe bước ra, mở cửa sau và đứng sang một bên để Socrate đi qua... Sáng nay, ngay sau khi đọc báo, Socrate đã gọi điện cho Hadj Thami el-Sadek đề nghị được vị tiểu vương tiếp khẩn cấp. Lúc đó ông đang ở Roma, nơi ông vừa bán cho tổ hợp những nhà kinh doanh Ý, mười một chiếc tàu chở dầu của lão. Sau buổi dạ hội ở Luân Đôn, Lena đã sang Pháp. Cô ta được những người bạn thân mời nghỉ cuối tuần dài ở Saint-Jean-Cap-Ferrat. Bạn thân nào nhỉ? Cô ta cũng chẳng nói cho ông rõ là ai. Ông sẽ không gặp cô trong vài ngày, vì cô đã nói với ông sẽ đi New York ngay sau những ngày nghỉ cuối tuần.
- Ông đi đường mạnh khỏe chứ?
Socrate đưa mắt nhìn người bạn đồng hành mà ông biết là cố vấn rất tin cẩn của tiểu vương Baran. Người này còn trẻ, ăn mặc theo kiểu phương Đông, và nói tiếng Anh không sai một âm nào. Anh ta đã học về luật pháp quốc tế ở Luân Đôn, chắc là để mang về trị dân ở xứ sở anh ta.
- Tôi khỏe, xin cảm ơn ngài. Tôi có được nói chuyện với Đức Ông sáng nay, và Đức Ông nói với tôi ngài rất khỏe.
- Dạ, rất khỏe, tuy ngài làm việc ghê lắm.
- Đúng là một con người khả kính, và một vị quân vương hiểu biết. Chỉ mong châu Âu chúng tôi có được những người như thế.
Người Ả Rập mỉm cười.
- Châu Âu các ông cũng không thiếu vĩ nhân đây chứ!
- Vâng, khi họ chưa nắm chính quyền kia. Sau đó họ sẽ sa vào chủ nghĩa mị dân, để được tái cử. Còn sự vĩ đại nào cưỡng lại nổi một chế độ như thế kia chứ?
- Hình như ông còn luyến tiếc chế độ quân chủ?
- Tôi chỉ buồn vì chế độ dân chủ đẩy mọi quyền lực tới chủ nghĩa mị dân thôi ạ.
Ông cố vấn hài hước:
- Quả là một chuyện đổi ngược tình thế! Xưa kia các vị vua đẩy thần dân tới chỗ nịnh bợ. Sự ti tiện đổi chỗ mà thôi ông ạ. Trước kia thì ở dân chúng, bây giờ thì chuyển sang những kẻ cầm quyền. Vấn đề chỉ còn ở số lượng người ti tiện thôi: trước nhiều, nay ít!
Đến lượt Socrate tủm tỉm cười. Chiếc xe bon đi trên một con đường bằng phẳng, trong một phong cảnh hoàn toàn bằng phẳng, không có một thứ gì hết, hoàn toàn không có. Chỉ có đất, trời, và mặt trời. Và có lẽ, dưới lòng đất là dầu hỏa, tuy rằng cho đến nay việc khoan thăm dò chưa tìm thấy gì. Họ có ý định khoan thăm dò ngoài biển không nhỉ? Con đường hình như trải ra trước sự trống không, thẳng băng trong một không gian vô hạn hình như xuất phát từ hư không để rồi chẳng đi tới đâu hết. Baran cách đây mười ki-lô-mét. Trái ngược lại với những thành phố châu Âu, chẳng có gì báo trước sắp có thành phố - chẳng có vùng lân cận, chẳng có ngoại ô. Chỉ có điều là thành phố ở ngay đó. Người ta đi vào thành phố như đi vào một bức tường, bằng một đại lộ rộng, hai bên là những nhà cao tầng hiện đại, độ mười hai cái. Ở cuối đại lộ, con đường đột nhiên chấm dứt, sau hai cây số chạy thẳng băng giữa cát. Và đến chỗ ấy thì cũng lại chẳng có gì hết, ngoài một con đường mòn mờ mờ mà người ta đoán được ra nhờ những dâu vết các đoàn người và lạc đà để lại đã từ bao nhiêu thế kỷ nay.
- Đức Ông yêu cầu tôi đưa ông tới biệt thự của ông. Đức Ông sẵn sàng tiếp ông để trao đổi với ông, tùy theo thời gian ông chọn.
- Khốn thay, tôi không có vinh dự được hưởng lòng mến khách của Đức Ông. Rất nhiều công việc quan trọng đang đợi tôi. Tôi phải có mặt ở Athènes, ngay tối nay.
- Xin tùy ý ông.
Người Ả Rập nói với người lái xe một tiếng, rồi quay sang phía Socrate:
- Như vậy chúng ta sẽ đi thẳng ngay tới cung Đức Ông.
Socrate không thể không nghĩ rằng Thami el-Sadek thật có thiên tài. Để duy trì huyền thoại về sự khổ hạnh của ông, ông đã tiếp các thần dân của ông ở một ngôi nhà nhỏ hoàn toàn trần trụi, không có một thứ đồ đạc nào, không giường ghế, chỉ có một cái chiếu trải trên mặt đất. Rất nhiều khi ông ở đó hàng tuần lễ liền, bị nhân vật mà ông tạo ra cho vào bẫy, ăn vài quả vả, uống trà và nước trắng. Đến nỗi, khi thấy ông gầy gò như thế, những bạn bè ông chỉ muốn đem biếu ngay ông một gói thịt nguội và vài chai rượu thật ngon. Ngược lại, các vị quan khách, tuy bắt buộc phải qua căn nhà nhỏ kia rồi mới được tới các biệt thự tiếp tân, phải chịu đựng một chế độ nóng và lạnh thay đổi đột ngột về tâm thần. Sau khi nhận cái ấn tượng cố ý về sự tự nguyện khổ nhục của tiểu vương, các vị khách sẽ được đưa tới một tòa lâu đài thần tiên, làm bằng đá hoa cương hồng, sân giữa nhà là một bể tắm điểm hoa sen và những cánh phong lan. Những tia nước trong suốt rì rào liên tục chảy vào bể. Chung quanh bể tắm, hoa và cây cam, cây chanh, cây vả nặng trĩu quả. Chim lạ được nhốt trong các lồng bằng vàng. Còn các phòng ngủ thì có thể dùng làm khung cảnh cho truyện “Nghìn lẻ một đêm”.
Thảm len dày, những mảnh sứ ghép thành các hình, cửa sổ hình cung, thảm trải tường tuyệt diệu, các đồ chơi nghệ thuật chạm trổ đá hoa cương quý và phụ tùng bằng vàng khối trong các phòng tắm bát ngát. Các quan khách của tiểu vương được tùy ý sử dụng các nô lệ người xứ Nuy-bi cởi trần chỉ mặc một quần dân tộc Mô-rơ rộng lùng thùng, cổ chân bó chặt. Ấy là chưa kể mỗi vị khách còn có một thợ xoa bóp riêng, vừa sáng ngày ra, đã tới làm cho khách thoải mái. Socrate rất biết những cố gắng phải chịu đựng để xây được tòa lâu đài này trên cát, lấy được nước dùng giữa một sa mạc khô cằn, nơi mà mỗi giọt nước đắt gấp mười lần một giọt dầu hỏa. Chiếc xe hơi đi chậm lại.
- Chúng ta đã tới nơi.
Socrate bước xuống một cái ngõ nhỏ xíu, bị cắt đôi ra bởi bóng râm và ánh nắng, một bên giếng sâu, một bên là lửa. Ông bước vào một căn nhà bình thường, tường trát vữa, đi theo một hành lang dài. Dọc đó, nhiều người bản xứ đứng im bất động như tượng, trong những bộ quần áo dân tộc lùng thùng: đội cận vệ của Hadj Thami el-Sadek. Trên người họ, không thấy một thứ vũ khí nào, nhưng Socrate không phải không biết rằng ở bộ phận này của vịnh Persique, người ta đã hy sinh truyền thống dân gian để đổi lấy hiệu quả. Ở một chỗ nào đó, trong những nếp của tấm áo lụng thụng kia, có giấu những khẩu súng liên thanh tối tân, những khẩu súng có khi do chính những tàu của Socrate tải tới. Trước một tấm cửa gỗ đóng đinh lớn, hai người gác cúi xuống chào ông và rẽ ra để ông đi. Đây là lần thứ hai trong đời, Socrate được chấp nhận vào cái nơi thiêng liêng nhất của những nơi thiêng liêng này, một căn phòng tu hành chật hẹp, không có một thứ đồ đạc gì, ngoài một tấm chiếu và vài cái đệm vứt đây đó ngay trên mặt đất. Ông tiểu vương đứng đợi, hai tay giang ra để ôm hôn. Bằng tiếng Anh, với một giọng rin rít, ông nói với Socrate:
- Tôi hy vọng người anh em của tôi đã đi một chuyến bình an. Tôi rất vinh dự thấy người anh em của tôi đã đặc biệt đi như thế để đến chào lão già là tôi!
Vẫn cái ngôn ngữ hoa hòe hoa sói làm người phương Tây ngơ ngác, cách nói giết người hoặc lột trần được người ta còn hơn cả một trận đánh cướp dọc đường bằng trọng liên. Đây không phải là “Hãy nói bằng hoa” nữa, mà là “Hãy giết bằng hoa”. Tiểu vương có cách phát âm quái lạ: những tiếng đa âm lại cắt ra thành hai âm chứ không nói một hơi.
- Trình Đức Ông, chính tôi mới là người cảm thấy vô vàn vinh dự được tiếp kiến Đức Ông. Tôi không bao giờ dám tự cho mình được xin tiếp kiến Đức Ông vì tôi biết giá trị của mỗi phút trong cuộc sống của Đức Ông. Nếu như điều mà tôi quý trọng nhất trên đời ngoài tình bạn mà Đức Ông đã ban cho tôi, mà không đang bị đe dọa nghiêm trọng, thì tôi không dám xin được tiếp kiến hôm nay.
Tiểu vương mỉm cười, giang hai tay, ra hiệu nên bình tĩnh:
- Có chuyện gì thế?
- Chuyện danh dự của tôi.
Lần này thì những kiểu nói loanh quanh rào đầu đã chấm dứt: người ta đi thẳng vào vấn đề. Như một học sinh ôn thi, Socrate đã đọc kỹ các hồ sơ trong khi đi đường, tìm xem nên dùng cách nào hay nhất để người đối thoại với mình tán thành thái độ của mình. Ông đã tìm ra: chỉ tiến công khi đã chín mùi. Ông cho rằng kết quả cũng giá trị như phương tiện sử dụng để được kết quả ấy. Và phương tiện thì ông không coi thường bao giờ. Trước hết ông cần thanh minh về một điểm, rồi tiếp theo, để giành phần lợi về mình, sẽ lật lại một tình thế mà Nhà tiên tri ở Cascais và bản thân ông đã đánh giá là nên để cho nó thối ruỗng thêm. Socrate đằng hắng, mở cặp lấy ra một xấp bài báo vừa được cắt rời. Ông tiểu vương ngăn ông lại:
- Sáng nay tôi đã xem những tư liệu này.
Socrate rất ngạc nhiên. Ông không bao giờ ngờ rằng cơ quan tình báo của tiểu vương lại hữu hiệu đến thế. Cụt hứng, ông chỉ còn lắp bắp:
- Xem tất cả rồi?
Tiểu vương cười tươi hơn...
- Vâng, tất cả.
- Tôi đoán rằng Đức Ông chưa một phút nào bị lừa về những lời tố cáo gian dối và bôi nhọ này.
Tiểu vương bâng quơ khoát tay, cái khoát tay có thể nói đủ mọi thứ, nhưng riêng Socrate thì hiểu ngay lập tức rằng “Cứ nói đi! Nghe thú lắm. Tao vẫn đợi mày xem mày hở cơ chỗ nào đây”.
- Thưa Đức Ông, - Ông tiếp tục nói - đôi khi kẻ thù của chúng ta lại ẩn náu ngay trong gia đình chúng ta. Không còn nghi ngờ gì nữa, người ta muốn bôi nhọ tôi và làm tôi mất tín nhiệm trước mặt Đức Ông qua âm mưu này.
Tiểu vương có một câu trả lời xỏ lá đến mức đáng phục:
- Tôi không ngờ ông đánh giá cao đến như thế quan niệm của tôi về ông.
Socrate, tuy chẳng kém tiểu vương mảy may về trò đóng kịch này, nhưng lại hơn ông ta một điều: đó là Socrate tin vào những điều mình bịa ra. Trong những việc tế nhị, có khi Socrate tự nạp cho mình một điện thế rất mạnh, điều cho phép ông nhất thời thấm sâu ngay chính những điều ông đưa ra, sống thật sự bằng từng thớ thịt làn da tình huống đã bịa ra, quên hẳn khởi điểm lúc đầu. Và do đó, đôi khi các đối thủ của ông thoáng nghi ngờ buộc họ lỏng tay tự vệ mà Socrate đã lợi dụng một cách thiên tài. Ông ta hít vào một hơi dài, nhìn thẳng vào mắt vị tiểu vương, và khi cảm thấy luồng điện mà ông cầu cứu tràn ngập cơ thể, thì câu trả lời của ông đã sẵn sàng:
- Thưa Đức Ông, chúng ta sống trong một thế giới tàn nhẫn, một thế giới mà mỗi chúng ta quên rằng mình đã có một thời thơ ấu. Quyền lợi là kim chỉ nam, cuộc đời chúng ta, trong lúc chúng ta bỏ hoang điều quý nhất trong con người chúng ta, đó là ý thức về phẩm giá chúng ta. Quan hệ của tôi với Đức Ông là quan hệ kinh doanh, đúng rồi. Và khi tôi được biết Đức Ông thì việc kinh doanh là việc quan trọng nhất, đó là sự thật.
Tiểu vương vẫn nghe ông nói, đôi mắt đen xảo quyệt nhìn ông đăm đăm. Socrate tiếp tục nói:
- Thế rồi tôi hân hạnh được tới gần Đức Ông. Và qua dư luận chung, tôi được biết Đức Ông đã sống đẹp đến thế nào. Tôi cũng được biết những điều Đức Ông đang chuẩn bị, những mục tiêu chính trị, và đạo đức của Đức Ông. Kinh doanh là công việc tôi làm hàng ngày, nhưng những con người như Đức Ông, tôi chưa được gặp bao giờ. Cái lợi tôi thu được khi làm bạn với Đức Ông mờ hẳn đi trước lòng kính phục của tôi đối với Đức Ông. Nếu Đức Ông cho rằng tôi đang nịnh hót cũng không sao hết. Tôi chẳng phải một diễn giả hùng hồn, tôi chẳng được học cao. Tôi diễn đạt dở lắm. Nhưng tôi hiểu con người. Tôi chỉ thành thật giãi bày tấm lòng của tôi, vụng về, nhưng thành thật.
Socrate ngừng nói, xúc động ngay vì chính những lời của mình. Mắt không rời Socrate, tiểu vương nhẹ nhàng hỏi:
- Ông muốn nói tới gia đình nào thế?
- Gia đình nào ư?
- Ông có nói với tôi: “Đôi khi kẻ thù của chúng ta ẩn náu ngay trong gia đình chúng ta”.
- Thưa Đức Ông, nói chuyện này ra với Đức Ông quả là khó quá.
Tiểu vương hơi nhếch mép vui vẻ:
- Thì chính ông tới đây để nói chuyện đó mà.
Và nói thêm, bằng một giọng rất dịu dàng:
- Thế là gia đình nào?
Rõ ràng là lão ta không giúp Socrate! Socrate đánh liều:
- Gia đình tôi.
- Ý ông muốn nói là một người trong gia đình ông tìm cách hại ông à?
- Đúng là điều tôi muốn nói.
- Ai thế?
Socrate tự hỏi không biết tiểu vương coi mình ngu đến mức nào. Dù sao, ông cũng lao vào cuộc:
- Herman Kallenberg.
- Tôi không biết hai ông có họ với nhau.
Socrate nhận thấy tiểu vương hơi quá đáng một chút. Ông không thể cưỡng lại ý muốn bỏ rơi mặt nạ trong một giây, nói rõ hơn bằng một giọng đanh hơn (nhưng làm thế để làm gì kia chứ, mọi con chủ bài chẳng đã ở trong cặp của ông đây, ngay trong tầm tay sao?).
- Đức Ông đã được báo rõ mọi tình hình, nên không thể không biết điều đó. Chắc Đức Ông quên, Kallenberg là anh em cột chèo với tôi. Vợ ông ta là chị cả của vợ tôi.
- Đúng, có lẽ tôi quên... Thế... Ông anh cột chèo của ông thù ông như thế nào?
- Chính ông ta đã làm nổ ra cái chiến dịch báo chí lố lăng làm mất danh dự này để chống lại tôi.
- Đáng buồn thật... Tất nhiên, tôi tin rằng ông có bằng chứng về điều đó.
- Tất nhiên. Chính ông ta đã cho tôi biết những âm mưu chống lại tôi.
- Biết đâu ông ta chẳng muốn giúp ông, để ông kịp ngăn vụ bê bối? Vì vụ bê bối ấy cũng làm xấu lây đến cả ông ấy.
- Hoàn toàn không phải như thế. Ông ta báo trước cho tôi biết, để tôi hiểu rằng chỉ có ông ấy mới có cách ngăn nó lại.
- Nếu tôi hiểu đúng lời ông nói, thì ông khẳng định rằng, trước tiên, ông Kallenberg đốt ngòi quả bom dùng hại ông. Và sau đó lại đề nghị tự ông ta dập tắt ngòi nổ đó?
- Thưa Đức Ông, đúng như thế.
- Thưa ông hãy cho tôi biết... Vì lẽ gì kia chứ?
- Để tôi rút lui khỏi một cuộc kinh doanh có lợi cho ông ta.
- Thực ư? Cuộc kinh doanh nào thế?
- Việc vận chuyển dầu thô của tất cả các xứ trong vùng Vịnh Persique. Chính những xứ ấy lại nằm dưới sự lãnh đạo tối cao về tinh thần của Đức Ông.
- Tôi sợ rằng ông Kallenberg và cả ông nữa đã gán cho tôi những quyền lực mà tôi không có.
Tiểu vương ngừng nói hồi lâu rồi mới tiếp:
- Cuộc trao đổi giữa ông Kallenberg và ông đã diễn ra ở đâu?
- Ở Luân Đôn, ngay cái đêm mà ông ta tổ chức dạ hội, buổi dạ hội đã kết thúc như thế nào chắc Đức Ông đã biết.
- Vâng... Tôi có nghe nói. Cả các cố vấn của tôi cũng thế. Và những cố vấn này thì, như ở châu Âu các ông vẫn nói, tôi e rằng họ “bảo hoàng hơn cả nhà vua”. Cụ thể là buổi dạ hội, cộng thêm chiến dịch báo chí được phát động để công kích ông, không quảng cáo tốt lắm cho gia đình ông. Ông nói là cuộc trao đổi giữa ông và ông anh rể đã diễn ra ở Luân Đôn ư? Có ai làm chứng không?
- Thưa Đức Ông, tôi không nghĩ rằng một mưu toan ép nạt lại có thể tiến hành trước nhân chứng được.
- Ông nói rất đúng. Nhưng tôi không thể lấy làm tiếc. Quả thật đáng buồn.
- Tôi có được phép hiểu rằng Đức Ông không tin những lời tôi nói không?
- Sao ông lại nghĩ thế? Tôi chưa bao giờ không tin lời ông cả. Bản thân tôi thì không bao giờ hết. Nhưng không phải chỉ có một mình tôi. Còn những người khác!
Có phải Socrate đánh giá quá thấp khả năng làm việc của lão già này không? Dù sao thì câu chuyện đã diễn ra không như ông muốn. Hay lão ta đã ký kết với “Con yêu râu xanh” rồi? Nhưng tên kia đã hiến dâng cho lão ta những gì mà Socrate không có khả năng hiến dâng? Về phương diện bê bối thì Socrate đã thu xếp để Kallenberg và ông bằng điểm nhau rồi. Vậy thì lão tiểu vương này chơi trò gì đây? Hoặc nếu lão ta chưa ký kết thì có phải đây là muốn nâng giá lên không?
Tiểu vương nói tiếp:
- Ông Socrate ạ... Quả thật là buồn khi thấy những gia đình bất hòa...
Ông ta nói câu đó một cách xiểm nịnh và buồn rầu. Muốn phản kháng, Socrate đã rơi vào bẫy của ông ta.
- Chuyện may rủi của các cuộc hôn phối, cuộc xổ số trong những ý thích khó chiều của đàn bà, chưa bao giờ thật sự tạo nên cái người ta gọi là gia đình. Gia đình là những con người cùng một dòng máu với mình kia.
El-Sadek đối lại, rất đẹp đẽ, ngọt ngào:
- Tôi có nói khác đâu? Nói về những gia đình bất hòa, tôi muốn nhắc tới những quan hệ của ông với bà thân mẫu kia. Và xin ông tin rằng tôi không hề tìm cách len vào chuyện riêng tư của ông hoặc tìm hiểu những lý do gây ra chuyện người ta trách cứ ông.
Socrate cố nén để khỏi chồm lên. Bình tĩnh là hơn cả. Ông gật đầu, vẻ hiểu biết:
- Thưa Đức Ông, như Đức Ông nói, tôi đã đọc những điều người ta trách cứ tôi. Nếu chuyện đó có thật thì tôi quả là một quái vật. Mỗi con người trên đời chỉ có một người mẹ. Tất cả những ai bỏ rơi mẹ mình trong cảnh khốn quẫn đều không đáng sống.
Thế là cả ông cũng rơi vào những lời triết lý rẻ tiền, vào kiểu nói hoa hòe hoa sói, do chịu ảnh hưởng của không khí cuộc trao đổi. Ông nói tiếp, giọng từ tốn và chua chát:
- Tất cả những tin tức Đức Ông đọc đều là tin bịa. Chúng chứng tỏ rằng lòng ham muốn chiếm hữu và quyền lực có thể hạ thấp một con người đến mức nào! Trong lúc những bức ảnh bịp bợm này được chụp ở Hy Lạp thì mẹ tôi, bà mẹ thật của tôi đang ở Paris, ở khách sạn Ritz, với hai người hầu phòng và bà quản gia. Và đây, xin Đức Ông coi xem...
Run run, ông lấy một xấp tài liệu từ trong cặp ra:
- Xin Đức Ông hãy nhìn bà cụ già nông dân trên ảnh này... Và bây giờ xin so sánh với bộ mặt đích thực của mẹ tôi..
Ông đưa ra một tấm ảnh chụp một bà cụ già, quần áo lịch sự, đầy đồ nữ trang, vẻ rất mệt mỏi (Để chụp được tấm ảnh ấy của bà cụ Athina dữ như chằn tinh, hai tay sai của Socrate đã nhét cho bà cụ bao nhiêu thuốc an thần).
- Thưa Đức Ông, hai con người này cớ gì giống nhau?
Tiểu vương cúi xem những tấm ảnh. Ông đã ngửi thấy mùi lừa bịp đâu đây, nhưng không biết chính xác chuyện bịp bợm là từ hướng nào tới. Nhưng ông thấy thích thú tình thế này. Hai người rất giàu có đến để làm duyên làm dáng với ông. Và số phận của cả hai lại tùy thuộc vào sở thích của ông, dĩ nhiên cũng tùy thuộc vào những số tiền và quyền lợi khác mà họ sẵn sàng nộp ông để ký cho được cái hợp đồng. Ông vờ tập trung xem rất lâu những tấm ảnh.
- Rõ ràng là... thoạt nhìn không phải cùng một con người.
- Thưa Đức Ông, ngày mai, toàn thế giới sẽ biết rõ chuyện này. Mọi người sẽ biết người ta đã dùng phương pháp nào để làm hại tôi và từng người sẽ tự đánh giá chuyện đó.
- Ý định của ông thế nào?
- Kiện tất cả các báo về tội vu khống, tôi xin nói rõ là tất cả, đã họa theo cái tin thất thiệt này. Và tất nhiên, buộc họ phải đăng lên một bài cải chính mà số lượng chữ trên mặt báo phải ngang với cái tin vịt kia. Các luật sư của tôi đã tiến hành việc này.
- Còn ông Kallenberg?
- Bản thân công lý tự tại đã trừng phạt ông ta rồi.
- Bao giờ thì những bài cải chính được đăng lên?
- Những bài đầu tiên sẽ đăng ngay ngày mai trên các báo hàng ngày. Còn các tạp chí quốc tế sẽ đăng ngay trong các số tới. Tối nay, các đài phát thanh châu Âu sẽ phát đi cuộc họp báo chí của mẹ tôi ở Paris.
- Trả thù như thế mới xứng đáng.
- Thưa Đức Ông, đây không phải là trả thù, đây là công lý. Tôi cố hết sức làm cho Đức Ông là người được biết đầu tiên, để cái trò phản trắc này không làm phai mờ sự tin phục của các thần dân trung thành của Đức Ông đối với Đức Ông, qua việc Đức Ông đã hạ mình coi tôi là bạn.
- Tôi xin cảm tạ ông đã nghĩ tới khía cạnh này của vấn đề. Và tôi cảm ơn ông đã cho tôi cơ hội thanh minh về ông với những người của tôi. Ông thấy đấy, ở xứ tôi, người ta vẫn giữ một đạo đức khắt khe... trung cổ. Tôi thấy thật khó khăn cho tôi, gần như không thể làm được, trong việc tiếp tục những quan hệ của chúng ta, nếu những lời lên án ông không phải là bịa đặt. Không một thần dân nào của tôi có thể tha thứ một cách thoải mái việc tôi tiếp một người không làm tròn bổn phận đối với người mẹ đáng kính của mình. Việc ông có mặt ở đây là bằng chứng của lòng tin của tôi đối với ông.
- Tôi muốn được Đức Ông ban cho một ân huệ nhỏ nữa. - Socrate nói bằng một giọng khiêm tốn.
- Xin cứ nói.
- Tất cả những tàu của tôi được dùng hết công suất. Tôi muốn Đức Ông cho phép tôi được thường xuyên tải tiếp nước ngọt từ những tàu Xi-tec vẫn chở hàng nghìn tấn nước ngọt tới Baran. Ở một xứ sở hấp dẫn đến như thế này mà cây cối không mọc được thì quả là bất công.
- Ồ! Ông Socrate... đây là một vấn đề rất lớn!
- Tất nhiên thôi, trong lúc những tàu đó chở nước tới, xin Đức Ông cho phép tôi được khoan thăm dò thêm những mũi khoan mới.
Tiểu vương châm biếm:
- Để tìm dầu phải không? Xin hết sức cảm ơn!
- Thưa Đức Ông, không. Để tìm nước ngọt. Nếu Đức Ông cho phép, tám ngày nữa, năm chục kỹ sư của tôi sẽ có mặt tại chỗ.
Kiểu ăn nói này thì tiểu vương nghe lọt tai lắm. Mỉm cười, ông ta hỏi, câu hỏi mở đường cho biết bao hy vọng của Socrate:
- Nhưng xin ông hãy cho tôi biết, nếu đoàn tàu của ông chở nước ngọt thì, trong trường hợp chúng ta ký kết hợp đồng, ông lấy tàu nào để chở dầu từ các vương địa khác nhau mà tôi kiểm soát?
Tim Socrate đập rất mạnh trong lồng ngực: liệu có chén được miếng này không? Dù sao thì ông cũng thắng thế rồi. Giọng chơi bời và thản nhiên, tiểu vương nói tiếp:
- Này, nhân tiện hỏi ông, ông có biết Kallenberg đã trả tôi giá cao hơn giá ông trả không?
“Bắt đầu vào những chuyện lý thú rồi đây...” Socrate nghĩ.
- Cao hơn bao nhiêu?
- Mười phần trăm.
- Thành số tiền lớn lắm.
- Đúng. Nhưng lãi cũng nhiều lắm. Vả lại, sau những chuyện xảy ra ở Luân Đôn, từ nay trở đi tôi rất khó làm ăn với ông anh cột chèo của ông. Tôi cũng được người Mỹ ướm trả giá...
- Cùng một giá với Kallenberg ư?
- Thêm mười phần trăm nữa.
- Tôi xin trả thêm mười phần trăm hơn cái mười phần trăm
- Ông có thể cố thêm một chút nữa không?
- Không phải cố thêm theo hướng Đức Ông nghĩ. Nhưng trước khi vụ bê bối đáng tiếc này xảy ra, tôi có một thứ làm Đức Ông ngạc nhiên... Tất nhiên, nếu Đức Ông chấp nhận. Và nếu Đức Ông chấp nhận, thì tôi làm ăn sẽ may mắn lắm.
- Tôi xin nghe.
- Đây ạ. Tôi nghĩ rằng, mười năm nữa, mọi quan niệm của chúng ta về hàng hải đều thành lạc hậu hết. Cùng chở một trọng lượng hàng, số lượng tàu sẽ bớt đi. Tàu càng lớn thì tiền chuyên chở càng hạ. Cho tới nay, trọng tải lớn nhất của một con tàu không quá mười ngàn tấn. Tôi có ý định làm cho những tàu chở dầu càng ngày càng lớn. Hiện nay ba chiếc đang được đóng ở Na Uy, trong đó có một chiếc thật là khổng lồ, chở được mười tám ngàn tấn và sẽ là chiếc tàu lớn nhất thế giới. Tôi muốn đặt tên cho nó bằng tên Đức Ông: Hadj Thami el-Sadek.
Tiểu vương đang đợi một cuộc mặc cả sít sao từng xu một như kiểu những anh bán hàng rong, chứ không hề trông chờ một đề nghị như thế này. Đề nghị ấy làm ông ta hài lòng, vừa làm ông hoa mắt đi trước cả những tham vọng thầm kín nhất của ông:
- Tôi rất vinh dự được ông nghĩ tới chuyện để tôi đỡ đầu cho con tàu ấy. Tôi xin thành tâm nhận việc đó.
- Xin cảm ơn Đức Ông, nhưng chưa hết...
Socrate muốn dành quà biếu ngon lành nhất cho chương nhạc “tươi vui nhanh nhẹn” cuối cùng, một quà biếu mà ngay một chính phủ cũng không thể cưỡng lại không nhận. Ông nhỏ giọt những lời sau đây mà ngài tiểu vương mỗi lúc một thêm ngạc nhiên uống lấy uống để:
- Nếu sự hợp tác của chúng ta hình thành, tôi mong được đặt ba phần tư đoàn tàu của tôi dưới quốc kỳ Baran.
Lần này, mặc dầu sự ranh ma và tự chủ của lão già, Socrate vẫn đọc được trong mắt lão ta, sự choáng váng. Để giấu nỗi xao xuyến, tiểu vương vờ suy nghĩ trước khi buông một câu:
- Ông bạn cao quý ạ, đề nghị đáng khích lệ của ông vừa có nhiều cái lợi vừa có những trở ngại cho chúng tôi. Một mình tôi không thể quyết định được một chuyện to đến như thế. Tôi cần lấy ý kiến của Hội đồng chính phủ đã!
Socrate phải cố nhịn để khỏi phá lên cười: Hội đồng chính phủ! Hội đồng gì vài thằng rách rưới mà lão ta bảo sao nghe vậy, làm theo lệnh của lão ta một cách thành kính! Ông nhìn lão tiểu vương: Lão đang mơ màng! Và Socrate thì quá thừa tinh tế để biết rõ lão đang mơ màng chuyện gì. Lão đang làm những con toán chót vót... Mười phần trăm cộng mười phần trăm cộng mười phần trăm, thế là ba mươi phần trăm... Cái tàu chở dầu lớn nhất mang tên lão ta, tàu Hadj Thami el-Sadek... Và hằng mấy chục con tàu phấp phới lá cờ xứ Baran trên mọi vùng biển thế giới, lá cờ của lão ta...
Đây sẽ là bắt đầu của những triển vọng nguy nga. Biết đâu Liên Hợp Quốc chẳng công nhận quốc gia Baran, điều sẽ cho phép lão ta moi tiền tối đa các chính phủ mà lão ta ủng hộ bằng lá phiếu, trong những cuộc biểu quyết quyết định. Hiện nay, lão ta vẫn chưa thể làm cái trò khống chế ấy được. Tối đa lão ta chỉ có thể tán tỉnh nước này hoặc nước kia, mà không ngả về nước nào hết. Lão ta không muốn người Mỹ bực bội với lão ta vì đã cho người Nga nhiều ưu đãi, hoặc bị các nước châu Âu tẩy chay vì một hợp đồng đã ký với người Nhật Bản. Cách giải quyết độc nhất của lão ta là làm ăn với chủ tàu tư nhân, những chủ tàu đủ quyền lực để viện trợ vũ khí cho lão ta, đủ tiền bạc để bảo đảm sự độc lập về tài chính cho lão ta. Ngay từ đầu, lão ta cảm thấy Kallenberg chưa đủ sức. Tay này quá huênh hoang, quá chăm lo đến bản thân, đến tác động của hắn tới người khác. Lão ta thấy Socrate ranh ma hơn, chín chắn hơn, hữu hiệu hơn. Ông ta vừa chẳng chứng minh những ưu điểm đó bằng cách lật ngược lại một tình hình bất lợi cho ông ta đó sao? Phải dựa vào Socrate và đầu tư vào ông ta. Cho tới ngày lão ta đủ sức để không cần sự giúp đỡ của Socrate nữa. Cho đến ngày lá bài của lão ta đủ sức nặng trên chính trường quốc tế. Và lúc ấy chúng nó mới biết giá trị của một hoàng tử Ả Rập chính cống! Lúc ấy chúng mới biết sức mạnh của tập đoàn các xứ Ả Rập Xê-Út, dưới ngọn cờ của Hadj Thami el-Sadek! Lão ta lại rơi xuống mặt đất, quên khuấy đi sự ngần ngại giả vờ của lão ta, và ý muốn để nhà chủ tàu phải chờ đợi:
- Tất nhiên ông sẽ trả tôi bằng đô-la, chuyển vào một tài khoản có số hiệu bí mật ở Ngân hàng Thụy Sĩ. Tôi sẽ đưa cho ông số hiệu đó.
- Thưa Đức Ông, - Socrate hân hoan nói - tất nhiên bằng đô-la. Mọi chuyện sẽ theo đúng ý Đức Ông.
- Mọi chuyện như thế là tuyệt lắm rồi... Và bây giờ, nếu người anh em của tôi muốn nghỉ ngơi, biệt thự riêng của người anh em đã sẵn sàng.
Socrate hơi bị động về lời mời không định trước trong chương trình ấy. Ông có kế hoạch về châu Âu ngay đêm hôm đó, cụ thể là về Genève, nơi ông đã hẹn các giám đốc ngân hàng của ông ở đó. Tiểu vương cảm thấy sự lưỡng lự thầm kín của ông. Vì một lý do không ai biết được, ông thì thầm bí mật, nhấn mạnh:
- Ông ở lại sẽ rất hân hạnh cho tôi.
Nói theo cách đó, chuyện thành ra khó xử. Socrate từ chối thì sẽ mếch lòng tiểu vương. Mặc xác bọn chủ ngân hàng vậy! Cái hợp đồng ngon đến như thế cũng đáng một vài sự hy sinh lắm chứ sao! Ông nghiêng mình, đồng ý:
- Thưa Đức Ông, Đức Ông vừa đáp ứng đúng nguyện vọng lớn nhất của tôi. Lời mời của Đức Ông là một vinh dự vô cùng to lớn đối với tôi. Tôi xin sung sướng nhận lời mời ấy, vì Đức Ông đã không coi tôi không xứng đáng với lời mời đó.
Khi Socrate bước ra khỏi căn nhà nhỏ lố bịch, choáng váng vì niềm vui chiến thắng, suýt nữa thì ông múa lên theo kiểu Hy Lạp ngay trước mũi tay cố vấn đang mở rộng cửa chiếc xe Rolls. Điều đó vượt khỏi ý ông: cứ mỗi lần thắng một trận, ông đều phải cố ghìm ghê lắm để khỏi múa lên.
Nhìn gần, đó là một hành tinh nhỏ, màu nâu, lô nhô những miệng núi lửa, mà một vài miệng đang rỉ ra hơi nước ẩm ướt. Nhìn hơi xa một chút, người ta nhận ra đó là một bên vú của bộ ngực đồ sộ, vây quanh bằng một hòn đảo tim tím mà mặc dù màu nắng rám vẫn làm thành một vệt dữ dội ở trên làn da. Tùy theo lúc bầu vú tiến tới hoặc lùi xa, Socrate cảm thụ thấy rất nhiều hình tượng khác nhau, những hình tượng mở ra những ý nghĩ cuồng loạn mọi vẻ. Có lúc đầu vú lướt vào mặt, vào môi ông, và Socrate phải cố hết sức cưỡng lại để khỏi chộp lấy, bú mút, thưởng thức hương vị của nó.
Thật ra, ông ngượng nghịu vô cùng trong hoàn cảnh bất ngờ này. Không phải không thích thú, không đâu! Nhưng ông không dám buông mình hưởng cái khoái lạc mà người ta bắt buộc ông phải hưởng. Ông lúng túng từ chối không chịu nhập vào nhân vật mà người ta bắt ông diễn.
Thế mà các cô gái có vẻ thấy vị trí của ông thật tự nhiên. Ông nằm dài trong một cái bể đầy nước nóng bốc khói, đào sâu ngay trên mặt đất một phòng tắm rất lớn. Và hàng chục bàn tay nhẹ nhàng xát xà phòng cho ông, nhấn vào những chỗ nhạy cảm trên cơ thể ông, vừa đủ để kích thích ông, mà lại không đủ để làm ông thoải mái. Nhận lời mời làm khách của vị tiểu vương một đêm, không bao giờ ông tưởng tượng rằng mình sẽ được dẫn vào hậu cung, giao nộp cho những cung phi hầu hạ như thế này.
Ông muốn chiếm đoạt, chứ không phải bị chiếm đoạt. Và ông thấy mình như ngu ngốc đần độn, thất vọng vì bị mất thế chủ động, khó chịu vì phải đi bên cạnh điều mà theo ông, là đặc điểm của người đàn ông: chinh phục. Ở đây thì không có gì phải chinh phục hết. Chỉ cần buông xuôi, biến thành đồ vật, trở lại thành trẻ con, điều ông kinh sợ, nhưng cũng lại là điều ở tận cùng đáy lòng ông thầm ao ước một cách cuồng phẫn ấy. Tuy ông đã cô nén đè ý nghĩ đó đi, nhưng nó cứ tàn nhẫn bủa vây lấy ký ức của ông: Ông lại thấy mình mới có ba tuổi và mẹ đang tắm rửa cho. Ông cảm thấy từng đợt, từng đợt sức mạnh của tình cảm hai chiều ấy, một mặt thúc đẩy ông buông thả hưởng thụ sự ve vuốt mơn trớn, mặt khác lại đồng thời làm cho ông muốn chạy trốn mãnh liệt. Ông cảm thấy các cô gái đọc được những ý nghĩ ấy trên mặt ông, và ông thấy xấu hổ.
Và chuyện còn ghê gớm hơn nữa. Khi bước chân vào phòng ngủ, ông thấy quả thật mình bước thẳng vào một bức tranh của họa sĩ Ingres, đầy những cung tần mỹ nữ, ngực hở hang kiểu cách mỉm cười tươi tắn, cô này dạo đàn cô kia tết hoa. Làm sao lại có thật một cái cảnh như thế này ở thời đại máy bay phản lực khổng lồ kia chứ? Vài cô gái đến gần ông, áo quần chỉ là một màn lụa trong suốt che người, có những chỗ dính sát da thịt, khi các cô cử động. Có những cô quỳ xuống trước mặt ông, nhẹ nhàng tháo giày cho ông. Ông rất ghét cái trò ấy, nhưng không dám đuổi các cô đi. Mỗi động tác của các cô đều là một vuốt ve mơn trớn làm ông ta sởn gai ốc từ ngón chân lên đến tận tóc gáy. Rồi các cô gái đặt ông nằm xuống một cái giường rất rộng, phủ đầy lông thú mềm, mát và bắt đầu cởi quần áo cho ông.
Socrate cảm thấy khó chịu. Xưa nay, phần lớn sự vững vàng và sức mạnh ép buộc người khác của ông, ông rút ra từ duyên dáng, tài thuyết phục, sự giận dữ hoặc vẻ dịu dàng, chúng tỏa ra ở chung quanh người ông một vùng hào quang giàu có, lịch sự và quyền lực khó có thể cưỡng lại được. Và có những từ ngữ mà từ lâu ông đã học được cách bắt chúng nói lên những cái mà kẻ đối thoại của ông muốn được nghe, dù rằng nó có trái với điều họ nghĩ. Ấy thế mà từ khi ông bước chân vào căn phòng này, không một lời nào được nói ra, không một câu nào được trao đổi, thâu gọn cảnh tượng mà ông là nhân vật trung tâm bất đắc dĩ của nó vào trong kích thước cao quý của một hành vi thuần túy.
Họa hoằn ông vừa mở miệng, để giải thích một động tác rụt rè cưỡng lại, thì các cô gái lại mỉm cười nhìn ông, không trả lời, như câm hoặc không hiểu. Tuy rằng một vài cô là người châu Âu và chắc phải biết một trong những thứ tiếng Socrate nói. Họ đã được huấn luyện như thế nào để thật sự ứng xử như nô lệ? Socrate không còn biết hai bàn tay đang cởi quần ông là thuộc về ai trong đám con gái cúi xuống ông nữa.
Từng lúc, từng đợt, ông lại cảm thấy muốn ù té chạy trốn: Ông không ưa hình hài của ông, thấy nó không phù hợp với trí thông minh của ông, bao giờ cũng chậm hơn những rung động của trái tim ông, chỉ là một cái vỏ bọc tồi tàn không xứng đáng với những ước ao thẩm mỹ của ông. Nhiều lúc ông giận điên lên khi nghĩ rằng bất cứ một tên mặt nghệch vô danh tiểu tốt nào, một tên đẹp mã dài đuôi tỉnh lẻ nào, một tên chuyên tán gái trên bãi biển nào không mua mà cũng chẳng xứng đáng, vẫn có được một thứ mà bao nhiêu tiền của ông cũng không mang lại được cho ông, đó là cao thêm độ hai mươi xăng-ti-mét nữa. Tất nhiên, ông bao giờ cũng tỏ ra khinh miệt những thằng “to xác mà ngu” như đôi khi ông vẫn nói về Kallenberg, nhưng trong thâm tâm, ông ghen tị với những thằng cha ấy, ngay cả lúc chúng quỳ rạp trước mặt ông, và ông có thể ra lệnh cho chúng làm mọi trò. Ông biết rõ rằng khi nằm cạnh một người đàn bà thì ông thừa sức thắng điểm bọn chúng. Nhưng phần lớn thời gian người ta lại sống đứng chứ không sống nằm! Khi các cô gái cởi chiếc xi-líp của ông ra, ông căng thẳng đến nỗi mặc dù cái hậu cung hầm hập nóng này, ông cũng không cương lên được, điều càng làm ông ngượng ngùng hơn. Những bàn tay đỡ lấy lưng, lấy nách ông, ông được nâng lên và bê đến cái bể tắm đầy nước xanh thơm phức. Ông được đặt nhẹ nhàng vào trong đó, cả thân người vẫn được đỡ nhẹ theo từng phần chìm dần xuống nước. Và bây giờ, những ngón tay sờ nắn ông trong cái biển đầy bọt xà phòng kia, lại cứ nấn ná một cách cụ thể ma quái ở tất cả những điểm nhạy cảm. Không hiểu tại sao, ông cố gắng một cách tuyệt vọng chống lại cái khoái cảm đương dần dần xâm chiếm ông, tưởng như chìm ngập vào trong đó là một thất bại thảm hại vậy. Một cách uổng công, ông cố chặn cái khoái cảm ấy bằng cách nhớ tới bộ mặt cau có của bọn chủ nhà băng Thụy Sĩ, rồi đến vụ tai tiếng mà ông suýt là nạn nhân rồi đến bộ mặt căm hờn của mẹ ông lúc bà cụ chửi rủa ông, rồi... rồi... không còn gì nữa hết.
Bước trên máy bay xuống, Peggy rất bực mình. Cô đã hy vọng có thể cặp bức tranh của Degas mang về New York. Các bạn mới ở châu Âu của cô đã hết sức can cô, đảm bảo với cô rằng thuế hải quan sẽ đắt đến mức không thể tưởng tượng được. Chết cả cõi lòng, cô đành gửi lại ở Ngân hàng Chase Manhattan tại Luân Đôn, quyết định có dịp sẽ đưa lậu thuế bức tranh đó về ngay, khi nào người ta chỉ cho cô mánh lới.
Sự thật là suốt bốn mươi tám tiếng đồng hồ liền, cô không chợp mắt phút nào. Nhưng sự kích động của buổi dạ hội ở nhà Kallenberg đã xua đuổi hết ý muốn ngủ. Cô đã lợi dụng thời gian ngồi máy bay để viết lại cho rõ ràng những ghi chép mà từ đó cô sẽ viết thành một phóng sự, một góc độ nhìn độc đáo, một cái gì đó thật hay khác hẳn với những chuyện lặt vặt mà các báo hàng ngày vẫn cung cấp cho bạn đọc của họ. Lúc đứng đợi kiểm soát hộ chiếu, cô đưa mắt tìm Julien, người lái xe, không thấy anh ta, nhưng lát sau, lại thấy anh ta đứng đợi ở chỗ trao trả hành lý. Thật là tai họa: đứng bên cạnh anh ta, có hai thằng cha cô không thể chịu nổi, vì cả hai đã nhiều lần tán tỉnh cô. Một người tên là Heath, phó tổng biên tập của tờ Bazaar, một thằng cha tốt mã luôn luôn cảm thấy mình quan trọng, và một anh chàng phóng viên nhiếp ảnh nhỏ bé, xanh nhợt mà cái tính liều lĩnh mặt dày của hắn làm Peggy rất ghét, Heath tiến tới, với một nụ cười có lẽ anh ta cho rằng chẳng ai cưỡng lại nổi:
- Xin chào!
- Xin chào! - Peggy trả lời, giọng nhạt nhẽo không chút tình cảm. Rồi cô nói với người lái xe:
- Anh Julien, vé đồ đạc của tôi đây. Anh mang đồ đạc ra xe hộ.
- Peggy này - Heath nói.
Peggy ghét cái kiểu anh ta gọi cô bằng tên thân mật.
- Sao kia?
- Jennifer Cabott nhờ tôi nói với cô...
- Để lát nữa! Anh cũng thấy tôi vừa từ trên máy bay xuống đấy thôi!
- Đây là chuyện tính từng phút!
- Đừng làm trò cười với tôi...
Anh chàng nhiếp ảnh xanh xao tiến lại gần, hy vọng cấp trên của anh sẽ mất mặt trước cô bé mới bắt đầu theo thời trang này.
- Peggy này!... Thằng cha mình cần phỏng vấn sẽ đi khỏi New York sau đây ba tiếng đồng hồ...
- Quan trọng gì! Ngày mai tôi sẽ gặp hắn, bất cứ hắn ở đâu.
- Peggy! Chỉ còn hai ngày nữa là hết hạn đưa bài. Người ta đã thử đủ mọi kiểu, hắn ta không chịu tiếp ai hết... Chỉ có cô có thể...
- Đừng nịnh hão! Tôi đang mệt đây.
- Jennifer chỉ còn hy vọng vào cô! Đây là một tin cần đưa sớm hơn mọi báo.
- Thằng cha ấy làm trò gì?
- Làm chính trị.
- Hắn tên là gì?
- Baltimore.
- Tôi không biết thằng cha ấy. Ở cái nước khốn kiếp này, có đến hàng nghìn thằng Baltimore.
- Scott Baltimore! Con trai chính thức của Alfred Baltimore Đệ nhị! - Heath gần như kêu lên với một thái độ trách móc.
Peggy cố nhịn cười: cô không biết rõ mặt người trong giới thượng lưu ở Mỹ thì cái thằng cha kiêu căng kia còn mệt! Cô biết rất rõ đầu cua tai nheo về họ hàng nhà Baltimore. Cô làm ra vẻ ngạc nhiên:
- Thằng cha Scott ấy có gì là quan trọng? - Cô nói chữ Scott như người ta hắng giọng khạc đờm.
- Hắn mới hai mươi hai tuổi mà đã ra ứng cử Quốc hội! Hắn vừa thành lập một đảng chính trị, lấy tên là “Những người cách tân”.
Peggy quay về phía người lái xe:
- Julien, anh mang hành lý về nhà cho tôi.
Và nói với Heath:
- Nào đi! Tôi cho các anh đúng một giờ, không thêm một phút. Tôi đang muốn tắm đây.
- Cảm ơn Peggy! Cảm ơn lắm!
Liếc thấy cái nhìn của tay nhiếp ảnh, Heath hối hận đã nói câu cảm ơn: cái thằng chết tiệt này có vẻ coi thường anh quá! Anh rất muốn văng tục với Peggy. Nhưng ở nước Mỹ này, họ hàng Nash Belmont không phải là cứt, và một người như Peggy không phải có thể xúc từng xẻng dưới móng ngựa đâu. Anh ta đành lầu bầu:
- Ta đi thôi...
Maria rất bồn chồn, cả đêm không dám chợp mắt. Vì trong hợp đồng đã ghi rất rõ cô không được rời bà cụ Athina Satrapoulos một bước, cả ngày lẫn đêm. Thành ra cô bắt buộc phải ở cùng phòng với bà cụ. Mỗi lần thấy gà gà muốn ngủ, cô lại phải cố gắng lắm để tỉnh dậy. Vết cào dọc trên má luôn luôn nhắc cô rằng bà khách hàng của cô rất nguy hiểm.
Buổi sáng, bà cụ Athina tỏ vẻ muốn đan len và những người hầu đã mang đủ các thứ cần thiết lại cho cụ.
Maria không rời mắt khỏi bà cụ, biết rất rõ, trong bàn tay nhăn nheo kia, đôi kim đan đáng sợ sẽ thành một thứ vũ khí ghê gớm. Luôn luôn theo dõi bà cụ, cô cũng lại gắn chặt vào điện thoại, ra lệnh cho người ta nhanh tay trong việc mời vị khách của bà cụ tới. Ý kiến mời khách này, cô vừa thấy hài hước, vừa phi lý, vì trò ấy sẽ thành tiền lệ ở một khách sạn lớn như thế này, và làm cho những người hầu hạ đã ngán ngẩm giờ lại rơi vào một tình thế khó xử: buồn cười đến chết được!
Cuối cùng mọi chuyện đều được thu xếp xong. Gần một tiếng đồng hồ nữa, vị khách sẽ tới. Người ta đã dùng máy bay đặc biệt, trực thăng đặc biệt và nhân viên chuyện môn, sang tận Hy Lạp để đón vị khách ấy. Nhiều người mặc quần áo bảo hộ lao động đã tới phòng bên cạnh, phòng số 504 để chuẩn bị mọi thứ. Maria cảm thấy mình cũng được hưởng lây những mảnh vụn quyền lực của Socrate. Chỉ cần cô nói là có người tuân lệnh ngay, vì cô là người phiên dịch ngoan ngoãn của mọi ý thích tế nhị nhất của bà mẹ ông chủ tàu. Khách sạn Ritz như thuộc về cô, cả nhân viên và cả ông giám đốc bị các sự kiện vượt qua đầu. Để giấu sự hoảng hốt do những ý thích của bà cụ gây ra cho ông ta, viên giám đốc đã làm đầy ắp căn phòng những hoa là hoa, tặng Maria với một nụ cười giả dối. Cô y tá biết rằng ông giám đốc Édouard Fouillet kẹt cứng rồi: hoặc thành đạt nhờ ý thích của bà cụ Athina; hoặc ông ta sẽ bị Socrate quật chết. Thôi thì cầu âu, ông ta thử nịnh cô ta, khen phương pháp chữa bệnh của Maria rất hữu hiệu, trong lúc mọi người sắp rơi vào giữa trò điên loạn. Maria không trả lời những sự nịnh nọt tuyệt vọng ấy, chỉ lạnh lùng rút lui vào đằng sau câu nói:
- Bà cụ Athina Satrapoulos là một người đặc biệt đáng chú ý và rất độc đáo.
Dù sao đi nữa, Maria chỉ là một công cụ trong cuộc đạo diễn một tấn kịch lớn mà màn sắp mở. Cô nghi rằng xa hơn trò hề này, có những quyền lợi mà cô đoán ra tầm quan trọng, nhưng không biết rõ uẩn khúc. Cô được thuê tiền, cô sẽ làm hết phận sự, hy vọng sau này sẽ có lợi, chẳng hạn được hầu hạ vĩnh viễn bà cụ Athina.
Nghe rõ tiếng khiêng dọn trong phòng bên cạnh, tiếng người nói. Chắc việc trang trí để đón vị khách không làm vừa lòng các nghệ sĩ chủ nhà. Bà cụ Athina bắt chéo hai que đan lại thật mạnh làm cho hai que sắt chạm vào nhau lanh canh và Maria theo bản năng vội đề phòng. Nhưng không, mọi chuyện vẫn êm đẹp, bà cụ yên tĩnh. Sự thay đổi làm sững sờ: trước đây bốn mươi tám giờ, cô thấy xuất hiện một mụ già lang thang, rách rưới, hôi thối, và bây giờ trước mặt cô là một bà cụ tóc hoa râm, đỏm dáng trong bộ áo đen, ngồi đan len bình tĩnh, và nhìn cô tủm tỉm cười hiền hậu. Sự biến dạng mới ghê gớm làm sao! Nhưng dù sao cũng không nên quá tin vào bề ngoài ấy, những cú quay ngoắt lại có cơ nhanh như sét đánh. Maria đã biết được điều đó qua kinh nghiệm bản thân.
Chỉ mong rằng bà cụ đừng có lên cơn giữa cuộc họp báo chí... Cuộc họp sẽ diễn ra vào lúc mười tám giờ. Từ nay đến đó, đủ thời gian để làm bà cụ yên dịu. Trong lúc người phiên dịch dịch những câu hỏi của các nhà báo, Maria cần phải đứng ngay đằng sau bà cụ, sẵn sàng đối phó với mọi chuyện. Trong tách cà phê sáng nay, cô đã hòa tan hai viên thuốc an thần. Vào lúc mười lăm giờ sẽ cho bà cụ uống thêm hai viên nữa. Đã thỏa thuận với nhau rằng phải làm sao cho bà cụ Athina đủ tỉnh để trả lời các câu hỏi, nhưng không quá để có thể gây ra bất cứ vụ tai tiếng nào. Lại có một tiếng động mạnh ở phòng số 504, tiếng một cuộc cãi cọ. Maria quyết định đi sang bên đó xem sao. Cô liếc nhìn bà cụ Athina. Bà cụ gần như đẹp đẽ, ngồi trong cái ghế đệm, những cuộn len dưới chân. Cô y tá dịu dàng cười với bà cụ, và giảng giải:
- Cháu mở cửa xem bên ấy có chuyện gì. Họ đang chuẩn bị phòng... Cụ đừng đi đâu nhé...
- Bao giờ thì nó tới?
- Chưa đến một tiếng đồng hồ nữa.
- Nó sẽ đói. Phải cho nó ăn.
- Cụ đừng lo. Mọi chuyện đã được chuẩn bị cả.
Lời hứa về việc vị khách sắp tới ấy có vẻ làm bà cụ Athina yên tâm. Bà cụ gật đầu, thỏa mãn, và lại tiếp tục đan. Maria mở cánh cửa thông sang phòng bên và thò mũi qua khe cửa: điều mà cô nhìn thấy quá đáng đến mức cô không nhịn được, phải bật lên cười thành tiếng. Cô khe khẽ đẩy cánh cửa để khỏi bị nhìn thấy, và lại rình xem chuyện gì xảy ra. Một thằng cha đang nổi đóa.
- Đừng có coi tôi là thằng ngu! Có những điều tôi không thể làm được! - Anh ta nói bằng tiếng Pháp với một giọng hài hước the thé.
Maria suýt nữa phá lên cười. Sợ bị bắt gặp, không một tiếng động, cô đóng hẳn cửa, và quay lại. Bà cụ Athina đứng ngay sau lưng cô, chỉ cách một mét. Bà cụ đứng đái, đái ngay trong váy, đái lên tấm thảm phương Đông trải sàn. Tay bà cầm một cái kim đan bằng thép dài, mắt nhìn vào cổ Maria, vẻ ngây dại.
Chiếc xe Pontiac ngừng ngay trước Viện bảo tàng Metropolitan Museum, ở góc đại lộ số 5 và phố số 81. Bên kia đường là khách sạn Stanhope. Peggy buông một câu với Heath:
- Anh có thể đi được rồi.
Cô dập cửa xe, nói với người nhiếp ảnh:
- Còn anh, theo tôi.
Cô đi thẳng ngay vào phòng ngoài khách sạn, anh chàng nhiếp ảnh nhỏ bé, xanh xao theo sau gót. Dọc đường, cô đã biết tên hắn: Benny. Heath đã tả cho cô một bức tranh tối mù về tình hình bài phóng sự và đã làm cho cô cay cú: ở nơi mà những kẻ khác thất bại, thì theo thói quen, cô phải thành công. Một đoàn nhà báo vừa vỡ mũi trước cửa phòng của Baltimore có hai tay vệ sĩ canh gác. Peggy vừa tìm ra một phương pháp không có cách nào đối phó nổi để được tiếp ngay tại trận, và cô cũng khoái là có một nhân chứng nhất định sẽ kể lại thành tích tuyệt diệu của cô.
- Đợi một chút!
Peggy tì lên cái quầy bằng đá hoa cương và không giấu Benny, cô rút từ trong ví ra một cuốn séc, ghi một tấm séc một trăm ngàn đô-la cho người lĩnh là Scott Baltimore.
- Khá lắm! - Anh chàng nhiếp ảnh cười khẽ - Chị cho rằng trò này ăn tiền hả?
Cô nhìn anh ta bằng con mắt kiêu kỳ, nhún vai. Trên một tập giấy, cô viết bằng thứ chữ rất trẻ con của cô:
“Kính biếu những người cách tân. Một người con gái hết lòng ngưỡng mộ hiện đang đứng trước cửa phòng ông, và muốn được chúc mừng ông”.
Cô đặt thư và tấm séc vào trong một phong bì ngoài đề “Scott Baltimore”.
- Nào, ta đi lên!
Thang máy đưa họ lên tầng tám. Peggy nói với Benny lúc này bắt đầu cảm phục cô rồi:
- Cứ nấp kín ở hành lang. Đếm đủ mười phút và vào phòng ông ta gặp tôi.
Cô rẽ ngoặt ở phòng ngoài, và thấy ngay hai người vệ sĩ lực lưỡng trước một cửa phòng đang cố đẩy lui cuộc xung phong của các bạn đồng nghiệp của cô. Cô đi thẳng đến hai người vệ sĩ. Khi cô tới gần sát mặt họ, cô đưa chiếc phong bì ra, mặt thản nhiên như không:
- Đề nghị đưa giùm thư này cho ông Scott Baltimore. Tôi đợi trả lời.
- Tôi sẽ đưa cho nữ thư ký của ông ta.
- Không. Đưa ngay. Đưa tận tay cho ông ấy!
Đến lượt anh chàng lực lưỡng lung lay trước uy thế đôi mắt xanh lá cây của Peggy. Anh ta hơi nhăn mặt, hỏi ý kiến người đồng nghiệp, và hé cửa đi vào trong phòng. Một phút sau, anh ta quay ra, có vẻ ngạc nhiên:
- Thưa cô, cô có thể vào được.
Có tiếng ồn ào phản đối trong hàng ngũ các nhà báo:
- Thế còn chúng tôi?
Anh vệ sĩ nhìn họ, kiêu kỳ:
- Không nên lẫn lộn báo chí với đảng viên!
Ở đầu hành lang, Benny, máy ảnh đeo lủng lẳng, ngạc nhiên thấy con bé ranh con ấy đã thực hiện được phần đầu chương trình. Anh ta vội xem đồng hồ và đếm phút.
Peggy nhìn Scott và thấy anh ta trẻ quá, đến cái mức đem anh ta vứt ra làm mồi cho bọn cá mập chính trị thì gần như là một trọng tội. Anh chàng thiếu niên này liên quan gì đến những chuyện bầu cử nhỉ? Scott cao, thanh mảnh, đẹp trai, đôi mắt xanh lơ tuyệt vời, một nụ cười mỉm hơi chế giễu, một vẻ thẳng thắn dễ làm người khác ngạc nhiên. Tay cầm tấm séc, anh hỏi một cách có duyên:
- Chị là ai?
Chỉ có ba tiếng thôi, như đủ để người nghe phải chú ý.
Giọng nói ấm, hấp dẫn tuyệt diệu.
- Tôi là Peggy Nash Belmont.
Cả hai không người nào rời mắt khỏi người kia... Sau cánh cửa phòng khách, có tiếng ồn ào cãi cọ rất to...
- Tôi đã nhìn thấy chị cưỡi ngựa.
- Tôi có được nghe nói về ông thân sinh của ông.
Lại im lặng. Rồi Scott chỉ vào tấm séc anh vẫn cầm ở tay.
- Đây là chuyện đùa phải không?
- Không hề. Để trả tiền mười phút thời gian của ông.
Scott nhăn mặt:
- Tôi hiểu rồi. Cô làm việc cho tờ báo nào?
- Tờ Bazaar. Chuyện đó làm ông phật ý ư?
- Một trăm ngàn đô-la không bao giờ làm phật ý ai cả.
Và anh cười. Peggy không thể cưỡng lại sự duyên dáng của anh ta.
- Chị cần biết những gì nào?
- Tất cả! Tuổi, cầm tinh sao nào, món ăn điểm tâm, nhãn hiệu nước hoa ông bôi, màu quần áo ngủ...
- Chị nói đứng đắn đấy chứ?
- Tôi rất đứng đắn. Năm triệu phụ nữ đọc bài của tôi hàng tháng. Họ đi bầu cả.
Scot cười:
- Còn chị, nước hoa của chị hiệu gì?
- “Thời gian xanh” của hãng Guerlain.
- Quần áo ngủ?
- Chuyện riêng của tôi.
- Thế hả? Thế hả?... Chị thấy đấy, trả lời các câu hỏi đâu phải dễ dàng! Lập gia đình chưa?
- Nếu có chồng thì ai cũng biết.
Đằng sau cánh cửa, tiếng ồn ào lại lọt vào tai họ.
- Tôi phải ra với họ... Hai tiếng đồng hồ nữa tôi phải lên tàu, mà còn bao nhiêu việc chưa làm. Thế này nhé...
Anh suy nghĩ một giây:
- Lát nữa, tôi đi Missouri. Tối mai tôi sẽ trở về New York bí mật không cho ai biết. Liệu như thế chị viết bài có chậm không?
- Không. Kịp thôi.
- Chúng ta cùng ăn cơm tôi với nhau được chứ?
- Được thôi.
- Đến tiệm Barbetta mười một giờ, được không?
- Rất tốt.
- Món ăn chán lắm, nhưng trang trí dễ gây tình cảm.
- Càng tốt, tôi không thích ăn đâu.
- Một lần nữa hoan hô về trò cái séc này! Đây, xin trả lại cô...
Peggy cầm lấy tờ séc.
- Nếu tôi không trả lại cô thì sao?
Cô tủm tỉm cười:
- Ra khỏi đây, tôi sẽ báo cho nhà băng không thanh toán.
Cả hai cùng phá lên cười.
- Tôi không biết chị có phải là một nhà báo giỏi không, nhưng chị có thể trở thành một chính trị gia cừ khôi!... Đến mai nhé?
- Đến mai.
Scott vẫy tay từ biệt cô và vui vẻ nói:
- Tôi trở lại với bọn ác thú đây.
Khi Scott mở cửa phòng khách bước ra, anh liền bị một cơn lốc tiếng kêu và khói thuốc cuốn đi. Peggy phải rẽ mãi đám phóng viên mới đi qua được. Cô nói với Benny:
- Chúng tôi đã hẹn gặp nhau ngày mai. Từ địa điểm gặp nhau, tôi sẽ gọi điện thoại cho anh vào lúc nửa đêm. Anh chỉ việc tới.
Cô không muốn cho thằng cha phóng viên nhiếp ảnh nhỏ con, xanh xao này, ngay sau lưng cô đi báo cho bạn bè hắn biết địa điểm. Đứng nhìn hắn đi xa dần, cô tìm một hình dung từ để đánh giá đôi mắt của Scott... Cô chỉ tìm được một chữ mà cô nhắc đi nhắc lại mãi trong thang máy:
- Hay! Ông ta có đôi mắt thật hay!