← Quay lại trang sách

Chương 7

Suốt ba mươi năm làm nghề khách sạn, Édouard Fouillet chưa bao giờ chứng kiến một chuyện như thế! Cảnh tượng xảy ra ở cửa ra vào của công viên khách sạn Ritz. Trước thang máy tải hàng, có một cái lồng khá rộng. Trong lồng, một con dê đen tuyền, chỉ có một túm lông trắng trên móng. Đứng bên lồng là hai người mặc áo bảo hộ lao động. Đích thân giám đốc khách sạn và Albert, trưởng phòng tiếp tân điều khiển công việc. Một người mặc áo bảo hộ lao động nói:

- Tôi đã nói các ông rằng nó đang sợ! Nó muốn ra khỏi lồng. Nếu không thả nó ra, nó sẽ kêu be be rầm lên, ỏm tỏi cả cái khách sạn khốn nạn của các ông.

- Anh điên hay sao thế! Anh tưởng khách sạn Ritz là chỗ gia súc có thể tự do dạo chơi à?

- Tôi nhắc lại với các ông là tôi sẽ có dây buộc cổ nó!

Albert tự nhiên lại dại dột chơi chữ:

- Thưa ông giám đốc, nếu ông tha lỗi, cho phép tôi trở về phòng làm việc. Dù sao, tôi cũng chỉ là trưởng phòng tiếp tân.

Fouillet quay lại cáo với cấp dưới của mình:

- Chính thế! Ông hãy tiếp con dê cái này với đầy đủ lễ nghi như bất cứ một vị khách nào khác!

Và ông ta chua chát rít lên:

- Đối với các vị khách trả 60.000 phơ-răng một ngày, phải chăm sóc họ chứ!

- Thưa ông, xin tuân theo ý ông.

Con dê cái lấy sừng húc vào thành lồng. Một trong hai người công nhân vận tải nổi nóng:

- Thế nào? Quyết định đi chứ? Có cho nó ra hay không nào?

Không thể giải quyết được một việc vượt quá sức mình, Fouillet đưa mắt nhìn Albert cầu cứu. Albert tiếp nhận tín hiệu cấp cứu của ông, bèn cầm cân nẩy mực:

- Anh có bảo đảm với tôi rằng nó không lồng ra hành lang khách sạn chứ?

- Tôi chẳng bảo đảm đếch gì hết! Hai chúng tôi, Marcel đây và tôi, được thuê tiền để đưa con dê này tới tầng dưới nhà. Theo đúng luật lệ công đoàn, chúng tôi không được phép bước vào trong cái nhà khốn nạn của các ông nữa kia! Thế thì sao hả? Chúng tôi cũng muốn giúp đỡ các ông, nhưng phải thông cảm chứ!

Ông giám đốc buông xuôi hai tay tỏ vẻ thất bại. Ông đành chịu thua. Rồi ông nói với Albert:

- Ông đi theo hai ông này, tới phòng 504.

Một trong hai công nhân tải hàng, dùng kìm nhổ những cái đinh đóng chặt nắp chuồng dê. Lập tức con dê muốn nhảy ra khỏi chuồng nhưng người công nhân kia đã đợi sẵn. Rất nhanh, anh ta buộc ngay sợi dây thừng vào cổ nó, và thả thừng ra. Con “Lông lá” - đó là cái tên bà cụ Athina đã đặt cho nó từ lúc lọt lòng - bật lên bằng hai chân sau, ra khỏi chuồng. Nó đi thẳng lại phía ông giám đốc Fouillet và nghi ngờ ngửi tay ông. Ông giám đốc thấy tởm quá, vừa định quay đi thì chợt ông đứng cứng người. Ở cầu thang của nhân viên, vừa xuất hiện ngài Seymour, nhà quý tộc người Anh, một trong những người khách sang nhất của khách sạn. Sau lưng ông ta là một cô gái bé nhỏ, khoảng hai mươi tuổi, có vẻ bẽn lẽn. Ông quý tộc già ý hẳn không muốn trưng bày ở cửa trước, cửa danh dự, những cô gái ông chinh phục được, nhất là khi bà vợ ông đi Luân Đôn cách đây tám hôm, ngày mai sẽ trở lại Paris. Cả hai bên đều im lặng ngượng ngùng, trong lúc Fouillet cúi chào. Nhà quý tộc phá tan sự im lặng ấy. Ông ta quay lại cô gái đi cùng:

- Em thấy đấy, khách sạn Ritz, ngoài những ưu điểm khác ra, còn khai thác thêm một món ăn rất đáng chú ý.

Ông chỉ vào con dê, nói với Fouillet:

- Anh bạn thân mến, làm ơn dành cho tôi một đùi cho bữa tối mai, nhé!

Thế là xảy ra cái điều mà người ta thường gọi là một sự dao động nào đó. Và trong lúc nhà quý tộc Seymour lẩn đi, cô bạn gái nói nhỏ vào tai ông ta:

- Ôi! Anh John yêu! Sao anh lại có thể tàn ác như thế được.

Như mọi người, Lena cũng đọc báo. Cô ta nằm dài trên các mỏm đá, dưới cái bể bơi của Eden Roc. Một ông to béo, nằm chảy ra không xa cô ta, giở rộng tờ báo “Herald Tribune” hôm trước, và cô ta đã đọc thấy chính tên cô ta bằng chữ lớn trên trang nhất. Khi lão ta bỏ đi để nhảy xuống biển bơi, cô liền chộp lấy tờ báo đầy vết nhờn: “Bà mẹ bị bỏ rơi của Socrate Satrapoulos”. Thế ra Socrate có một người mẹ... Cô thấy thật ngu ngốc đã có ý nghĩ như vậy, cô không thể cam chịu hình dung ra chồng cô đã có một thời là trẻ con. Ông ta không bao giờ nói tới bản thân cả. Ông ta có bố không nhỉ? Con người không dĩ vãng... Socrate chỉ sống trong hiện tại và cho tương lai, lướt qua quá khứ, y như ông ta có phép hồi sinh và tự tái tạo ra mình mỗi ngày, hoàn toàn mới, khác hẳn hôm qua.

Cô nhìn bức ảnh của bà già và tự hỏi không biết bà cụ bao nhiêu tuổi. Bảy mươi lăm? Tám mươi? Bức ảnh không được rõ lắm và ở đúng chỗ mặt bị một vết nước làm ố. Cô ngạc nhiên nhận thấy cô gần như không biết gì về Socrate, chẳng biết nơi ông ta sinh ra, sinh ra bao giờ, và sinh ra như thế nào. Nếu chuyện này đúng, tại sao ông ta lại có thể để bà mẹ chết đói, bỏ rơi, trong lúc vợ ông ta có biết bao nhiêu nhà cửa ở khắp nơi mà chẳng bao giờ ở tới. Ở những nơi đó, bà cụ có thể sống những ngày sung sướng kia mà? Nếu ông ta chỉ nói qua với Lena, Lena sẽ thông cảm ngay. Có lẽ ông ta xấu hổ phải nói với cô về những bước đầu của ông ta? Nhưng ông ta biết cô không ham tiền, cô chỉ mong được hy sinh, cô muốn biết người đàn bà già nua ấy, muốn được coi như người mẹ thứ hai của mình, muốn bà cụ nói về con trai của bà cụ. Socrate thì lại quá bí mật...

Ở Luân Đôn, trong nhà Kallenberg, ông ta đã bóng gió không che đậy lắm về cái cảnh cô đã gây ra với Marc ở Paris. Liệu ông ta có biết không, hay ông ta muốn thăm dò tình hình để biết thêm? Lấy nhau năm năm rồi, Lena đã chán Socrate. Lúc đầu, cô đã nhiệt thành yêu ông ta như một vị thần. Đối với cô, Socrate là sự cởi bỏ mọi điều cấm đoán, cái cánh cửa đưa mình ra khỏi thời thơ ấu và bổn phận của nó để dẫn mình vào thế giới người lớn và những quyền lực của người lớn.

Tuần trăng mật của cô thật tuyệt vời. Socrate đã dạy cho cô tất cả, dạy một cách kiên nhẫn: dịu dàng, và cô đã tỏ ra là một học trò dễ bảo và say mê. Lúc đó, cô không biết rằng Socrate đã thu xếp để không làm một việc gì suốt sáu tháng, không hề tưởng tượng được rằng tất cả các cuộc du lịch ấy, những ngày nghỉ ngơi chẳng làm gì hết ấy, những chuyến đi chơi dài trên du thuyền ấy, những ngày hội ấy, tới một ngày nào đó sẽ chấm dứt. Rồi một buổi sáng, khi hai người ăn điểm tâm ở Portofino, ông ta cười cợt nói là những ngày nghỉ ngơi của ông ta đã hết, ông ta lại bắt đầu phải kéo cày để “nuôi vợ”. Đúng chính ông ta đã nói thế: “Anh phải nuôi vợ anh chứ”.

Từ ngày hôm sau, cô chỉ còn gặp ông giữa hai chuyến máy bay, giữa hai lục địa. Cô đã đặt câu hỏi, đã cố tìm hiểu, nhưng chẳng biết gì hết. Như đối với một cô gái nhỏ, Socrate đã giảng giải cho cô rằng một người đàn ông có những trách nhiệm, những công việc phải hoàn thành. Ông ta nói thêm:

- Em cứ nhìn ba em đấy. Em có được gặp ba em luôn đâu?

Không, cô không được gặp bố luôn. Nhưng cô đâu có làm tình với bố? Để cô tha thứ cho mình, Socrate đã tặng cô không biết bao nhiêu quà tặng mà cô chẳng biết dùng làm gì, chỉ biết cất vào két sắt. Sau này, kinh nghiệm đã dạy cho cô biết rằng tất cả những thứ gì làm nên giá trị cuộc sống, tất cả những thứ đẹp - đồ nữ trang, tác phẩm nghệ thuật đều chỉ để cất vào trong két sắt, cái quan tài của mọi vật quý. Và ngay chính bản thân cô, một năm sau khi sinh hai đứa con sinh đôi, cô cũng có cảm tưởng cô là một đồ trang sức quý giá khóa kín trong một két sắt, để mua vui cho một người mang tên Socrate. Ông ta chưa hề yêu cầu cô bất cứ một điều gì trên phương diện đời sống vợ chồng, không yêu cầu trung thành, cũng không yêu cầu nghi ngờ. Ông ta không hề dạy cho cô biết còn có những người khác đang sống nữa. Dưới con mắt ông ta, sợi dây ràng buộc của hôn nhân đã đủ bảo vệ cô chống lại với mọi cám dỗ, mọi sai lầm. Cô có thể đi đâu cũng được, tùy thích: lên đường đi California hoặc đi La Jamaïque, không cần báo cho ai biết cả. Ông ta chẳng hỏi gì cô hết. Rồi cô quen biết Marc, rồi ra như thế...

Bây giờ, tự nhiên cô có thêm một bà mẹ chồng bí mật. Cô muốn gọi điện thoại cho Socrate để hỏi rõ thêm, nhưng chợt nhớ ra rằng cô cũng không biết ông ta đang ở đâu nữa. Khi rời Roma, ông ta có nói lờ mờ cho cô biết về một chuyến đi chớp nhoáng tới Roma và Trung Cận Đông. Phải tìm mọi cách liên lạc với ông ta và biết rõ chuyệh này mới được! Cô vừa đặt tờ báo xuống đúng lúc người có tờ báo trở về chỗ đặt khăn tắm, cái bụng hiên ngang đi trước, lông tóc ướt lướt thướt. Ông ta nói với cô:

- Xin cứ giữ lấy tờ báo. Tôi tên là Smith, và tôi có những nhà máy giấy ở Oregon...

Lena nhìn ông ta từ đầu đến chân bằng con mắt nghiêm khắc. Cái khó chịu ở những bãi biển công cộng này là bất cứ kẻ nào cũng cho mình cái quyền được làm quen với người khác. Cô trở về phòng thay quần áo, mặc một quần màu xanh lá cây, một sơ-mi trắng, và đi ngược theo con đường dẫn lên khách sạn Cap. Cô nhờ một người bồi mở hộ phòng một người bạn, chộp lấy điện thoại.

Đầu tiên, cô nói chuyện được với Roma. Người giám đốc công ty vận tải của chồng cô trả lời cô rằng ông Socrate sau khi dự một cuộc hội nghị buổi sáng hôm qua, đã lên đường đi Vịnh Persique bằng máy bay riêng.

- Đi đâu? - Cô hỏi.

- Dạ, đi Baran. - Người ta đã trả lời cô như vậy.

Cô nhờ cô gái tổng đài nối liên lạc với sân bay Baran nếu như có một sân bay tên như thế... Hai mươi phút sau, cô nói chuyện được với sân bay Baran. Người ta trả lời cô bằng một thứ tiếng Anh tồi rằng máy bay của ông Socrate đã cất cánh đêm hôm trước.

- Cất cánh đi đâu? - Cô gần như thét lên, khó chịu vì nóng bức và phải chờ đợi quá lâu.

Từ xa lắm, ở đầu dây đằng kia, ở tận cùng thế giới, người ta trả lời rằng họ không biết. Chán nản, cô đặt máy xuống. Ông ta hiện đang ở đâu nhỉ? Có một lúc, cô nảy ra ý kiến đi Hy Lạp ngay tức khắc, để kiểm tra xem cái bà mẹ chồng bí mật ấy có thật hay không. Rồi cô bỏ ý định ấy. Sợ Socrate sẽ trách là hành động mà không báo trước cho ông biết. Trong tưởng tượng, cô thử đặt mình vào vị trí ông, hình dung lại con đường ông đã đi và những điểm ông có thể dừng lại. Cô gọi Athènes và nói chuyện. Người hầu phòng của Socrate không được gặp ông ta, nhưng “ông” đã nói chính xác: “Ông sẽ mang về cho tôi thứ thuốc lá tôi thích của Genève”.

- Anh có chắc chắn rằng ông đã nói với anh như thế không? - Lena hỏi lại, những ngón tay quắp chặt lấy máy điện thoại.

- Thưa bà vâng. Tôi chắc chắn. Ông đã nói với tôi như vậy.

Qua cánh cửa hé mở, cô nhìn thấy một đôi trai gái mặc quần áo tắm ôm sát ngang lưng nhau, lững thững đi theo con đường dẫn xuống bờ biển.

- Cảm ơn Niko... Rất cảm ơn.

Marc ơi! Anh đang ở đâu? Cô nhấn mạnh xuống trạc máy điện thoại nhiều lần. Cô gọi được người giữ tổng đài và yêu cầu gọi cho một số ở Genève, số điện thoại phòng riêng của Lena. Vài phút sau, cô nói chuyện được với Socrate. Ông có vẻ rất ngạc nhiên khi nghe thấy tiếng nói của vợ:

- Em đang ở đâu thế, ở Saint-Jean-Cap-Ferrat phải không?

- Không. Đang ở Eden Roc, ở Cap d’Antibes.

- Các bạn của em ở đó à?

- Socrate, em đã đọc báo.

- Anh cũng đọc rồi.

Im lặng một hồi lâu. Rồi, Lena nói:

- Đúng thế thật à?

- Sao em lại nghĩ thế?

- Có đúng thế không đã?

- Không có một chữ nào đúng hết!

- Thế thì anh không có mẹ à?

Cô nghe thấy tiếng cười của chồng ở Genève:

- Anh có bao giờ nói với em rằng anh mồ côi đâu...

- Anh cũng chưa bao giờ nói với em rằng anh có bố mẹ cả.

- Em có thấy người nào ra đời mà không có sự hợp tác của bố mẹ người ấy không?

Lena ngơ ngác về cái giọng đùa cợt và vui vẻ ấy, trong lúc tất cả trên các báo, cái tin kia được đăng tải ra thì lẽ ra ông phải coi đó là chuyện bi kịch chứ! Vì cô im lặng, ông hỏi:

- Lena, anh đang rất vội. Anh vừa bước chân đến đây và lại phải đi ngay. Em hãy nói đi... Em muốn biết chuyện gì? Nói đi... anh sẽ trả lời em.

Lena cảm thấy mình ngu ngốc khi những câu hỏi lên đến trên môi cô và cô lại dìm hết chúng đi. Đây quả là một chuyện quá lớn, cái điều mà cô phải hỏi một con người mà cô đã làm vợ từ năm năm nay. Tuy thế, cô cũng nuốt nước bọt, dụi đôi mắt mà cô thãy nhòa lệ và quyết định:

- Mẹ anh vẫn còn sống chứ?

- Vẫn.

- Có phải là bà cụ mà các báo nói tới không?

- Không phải!

- Anh có chắc như thế không?

- Chắc.

- Ngay bây giờ, ngay lúc này, anh có biết mẹ anh ở đâu không?

- Có.

- Ở đâu?

- Ở Paris. Ở khách sạn Ritz.

- Anh và mẹ anh có cáu về chuyện đó không?

Từ xa lắm, Lena nghe thấy tiếng thở của ông, cảm thấy sự chần chừ của ông. Cuối cùng, ông nói:

- Có... hơi cáu...

- Anh định làm gì để tránh chuyện bê bối om sòm ấy?

- Chậm quá rồi, không tránh được nữa. Nhưng muốn làm cho người ta quên khuãy chuyện ấy đi, anh sẽ cho ra một vụ bê bối khác.

- Thế là... bà cụ... trên tấm ảnh... không phải là mẹ anh ạ.

- Không phải.

- Anh thề với em như thế chứ?

- Anh thề.

- Thế thì... Tại sao?... Tại sao lại có chuyện ấy?

- Em hãy hỏi Kallenberg.

- Herman ấy à?

- Lena này, vì em thích đọc báo, đừng quên mua báo ngày mai. Và đêm nay nhớ nghe ra-đi-ô... Bây giờ thì anh phải đi rồi.

Lena sợ ông cắt máy. Cô chẳng còn biết nói gì nữa với ông, nhưng vì một lý do không rõ, lại muốn giữ ông ở đầu dây bên kia:

- Bao giờ thì chúng ta gặp nhau?

- Anh cũng chẳng biết nữa. Em nói với anh rằng em phải đi New York...

- Em chẳng muốn đi nữa.

- Em hãy đi tới gặp anh ở Rotterdam. Đêm nay sẽ tới đó. Em thích thế không?

- Em cũng chẳng biết nữa. Đến đó thì tìm anh ở đâu?

- Ở phòng của chúng ta.

- Anh Socrate...

- Anh nghe đây.

- Anh có yêu mẹ anh không?

Ông có một tiếng cười khe khẽ, buồn, kỳ lạ, và nói:

- Anh thờ phụng mẹ anh nữa kia... Và thờ phụng cả em nữa. Tạm biệt nhé.

Có tiếng cắt máy. Lena cứ đứng yên cầm máy trong tay. Trên con đường ra biển, cặp trai gái đã biến mất từ lâu. Chắc họ đang tắm. Tiếng nói của cô gái tổng đài kéo cô ra khỏi những suy nghĩ:

- Bà đã bị cắt máy chưa? Bà có muốn gọi nơi nào khác nữa không?

- Cho tôi người gác cửa.

Lena được trả lời ngay.

- Thưa bà Socrate, tôi sẵn sàng đây ạ.

- Anh có thể thuê cho tôi một máy bay hai giờ nữa sẵn sàng cất cánh ở Nice, đi Paris.

- Hoàn toàn có thể được, thưa bà!

- Tốt lắm. Anh tìm hộ người lái xe của tôi và báo cho anh ta tới đón tôi ở quầy rượu bể bơi, nửa tiếng đồng hồ nữa.

- Tôi làm ngay đây ạ. Xin cảm ơn bà.

Lena đã quyết định: cô sẽ đi kiểm tra ngay tại trận điều mà Socrate vừa nói với cô: Bà mẹ ông ở khách sạn Ritz, thì không có lý gì cô lại không tới gặp bà cụ cả.

Raph Dun đủ huênh hoang để nhắc lại tất cả những gì có thể làm tăng thêm uy thế của anh, nhưng lại không quá điên để nói trắng ra chính anh là nguồn gốc của câu chuyện quái đản đang tràn lan trên báo chí. Anh khốn khổ vì sự im lặng ép uổng ấy, về sự khiêm tốn bắt buộc ấy. Anh rất muốn được nói trước với bạn bè mọi chuyện, biến chính bản thân anh thành đề tài một bài báo, hoặc tổ chức một tiệc rượu mà trên thiếp mời có ghi dòng chữ “Raph Dun kính mời bạn tới dự một trong những thành tích cao nhất trong sự nghiệp của anh ta: sự phát hiện ra bà mẹ của Socrate”. Đáng lẽ được làm, anh giữ bí mật: “Hãy quên tôi đi, tôi chưa hề cho anh cái tin này!”.

Rồi đây, khi vụ bê bối om sòm này đã lắng đi, anh dự trù sẽ trả thù. Trong các cuộc bàn bạc, trao đổi, anh sẽ tinh tế hướng những người nói chuyện với anh tới đề tài chúa tể này. Khi người ta đặt câu hỏi này, anh sẽ nở một nụ cười bí mật và xa xôi của những kẻ biết mọi chuyện, nhưng không thể nói, để cho từng người nghĩ có sự tham gia của anh vào việc này, mà bản thân anh lại không cần nói rõ. Một vị được giải thưởng Nô-ben về vật lý khi được anh hỏi, đã nói ra công thức như sau: “Kẻ chẳng biết gì thì khẳng định. Kẻ còn nghi ngờ thì tuyên bố. Còn kẻ biết rõ thì không nói gì hết”. Và cuộc đời là như thế, bị những kẻ im lặng cai trị, bởi vì họ biết hết mọi chuyện. Vì vậy Raph đành im lặng. Trong lòng đau xót...

Anh đưa tay gạt hết các số ra buổi sáng của các tờ báo hàng ngày lớn ở châu Âu đang bề bộn trên giường anh.

Điện thoại reng chuông: đó là Bill, tổng biên tập tờ “Tia chớp”.

- Sáu giờ tối nay cậu làm gì?

- Bận, cả các ngày khác cũng thế. Và cả năm cũng thế, mình nghỉ. Có chuyện gì thế?

- Chuyện Socrate.

- Quái đản hả?

- Phải... Quái đản! Quái đản đến mức phải vứt đi toàn bộ số báo ngày thứ Bảy.

Dun như rơi tuột từ trên máy bay xuống.

- Nhắc lại xem nào.

- Toàn bộ chuyện đó là láo toét. Một con số không. Socrate kiện tất cả các báo đã đăng tin ấy. Những tấm ảnh chúng ta đã có, không phải là ảnh mẹ lão ta. Một trò lừa bịp...

- Cậu nói cái gì thế?

- Thế đấy! Xét cho cùng, chúng tớ cần đếch gì. Chúng tớ sẽ ra một bài báo đích thực về mẹ của lão ta.

- Bà mẹ đích thực nào?

- Cậu đang say rượu hay sao thế? Tôi đã nói là có trò lầm lẫn rồi mà! Chính tụi mình cũng sẽ kiện ngay hãng thông tấn đã cho tụi mình tin ấy. Với cái giá tụi mình đã phải trả cho nó để mua cái tin ấy thì kỳ này nó đền phải biết!

- Cậu đau đầu hay sao thế? Điều gì đã làm cậu tin rằng...

- Thôi đi! Nếu cậu muốn xem mặt bà già chính cống, thì tối nay đến khách sạn Rit. Bà ta họp báo đấy... Cậu có muốn viết bài ấy không?

- Cậu chắc chắn điều cậu nói chứ?

- Thưa ông anh, vâng. Và nếu tôi nhờ cậu làm việc ấy thì không phải vì tài năng của cậu đâu, mà chính vì cậu gần như ở ngay tại chỗ. Đúng nửa đêm, phải có tất cả cho tôi. Tôi cử Bob đến chụp ảnh, và cần lay cổ thằng cha ấy cho nó làm cho tốt! Thôi chào, và nên đúng giờ.

Dun tái xanh mặt. Anh vọt ra khỏi giường, xỏ vội quần.

Lena không cho người báo trước. Cô đi qua phòng ngoài khách sạn Rit, đến thẳng thang máy mà không ai nghĩ đến chuyện hỏi cô điều gì hết. Chỉ riêng cái dáng đi của cô đã đủ hơn mọi thứ hộ chiếu rồi. Cô thuộc loại phụ nữ người ta có thể lăn xuống cống rãnh đầy bùn, vứt trần truồng ra vỉa hè, nhưng vì bản năng bất cứ người cảnh sát nào tìm thấy cô cũng không đưa cô về đồn, không hỏi địa chỉ, mà đưa ngay về một khách sạn lớn gần đó, vì từ thượng cổ tới nay, loại đàn bà như cô chỉ có ở đấy thôi. Cô biết rõ điều đó. Lên tới tầng năm, cô đi theo hành lang dài, và hỏi một cô hầu phòng tay ôm đầy hoa đi ngang qua đó.

- Bà cụ Socrate ở phòng nào?

Người hầu phòng nhìn cô, thèm thuồng liếc vào cái vòng kim cương đeo ở cổ tay và trả lời:

- Thưa bà ở phòng 504.

Lơ đãng cô hầu phòng bị nhầm một số, sự nhầm lẫn có thể tha thứ được vì bà cụ ở hai phòng cạnh nhau: 504 và 503. Lena mỉm cười cảm ơn cô ta và tiếp tục đi. Tới trước cửa phòng, cô hơi ngần ngừ: nhảy thẳng vào những bí mật của Socrate có đúng không? Cô bấm chuông. Một người hầu phòng mặc đồng phục, hé cửa vẻ nghi ngờ:

- Thưa bà hỏi gì?

- Cụ Socrate?

Người hầu phòng muốn đóng vội cửa lại. Sợ chồng mình đã ra lệnh không cho ai vào, cho đến khi có cuộc họp báo chí, Lena nhanh nhẹn nói rõ tên tuổi mình:

- Tôi là bà Socrate, và tôi cần gặp bà mẹ chồng tôi ngay lập tức.

Người hầu phòng muốn giảng giải rằng bà cụ ở phòng bên cạnh. Nhưng Lena không để cho anh ta kịp nói. Cô đẩy cửa vào. Trước mắt cô hiện ra một cảnh tượng không thể ngờ được. Đồ đạc trong phòng không còn một thứ gì, chỉ còn gỗ quý lát tường, thảm trải đất, hoa và vài bức tranh từ cuối thế kỷ 18 vẽ những lâu đài La Mã đổ nát của các họa sĩ theo thường phái hoang tàn muộn mằn, học trò nhớ thương và rạn nứt của Hubert Robert. Trên một khoảng rộng độ mười thước vuông, thảm trải đất bị một lớp dầy đến hai mươi phân rơm tươi và cỏ khô phủ lên. Ở trung tâm cái nền cỏ nhân tạo ấy, có một cái vườn cho trẻ con cỡ lớn. Một người phụ nữ cao lớn mặc áo choàng trắng đứng tựa vào hàng rào quây vườn. Trong hàng rào, một con dê cái đen tuyền, chỉ có một tí lông trắng trên móng, và một bà cụ cũng mặc toàn đồ đen, cổ áo trắng, vài thứ đồ trang sức bằng vàng giản dị và đẹp. Bà cụ quỳ vắt sữa cho dê, tay lần lượt kéo những đầu vú con dê, với một nhịp điệu mềm mại, đều đặn mà người ta quen vắt mới có được. Tất cả những thành phần tản mạn ấy không phải Lena thấy trước sau mà là cùng một lúc, trong cái im lặng nặng nề chỉ bị cắt đứt bởi tiếng sữa tia dền vào một cái bình kim khí. Cô y tá là người đầu tiên có phản ứng:

- Thưa bà...

Lena gạt cô ta ra một bên:

- Tôi là vợ ông Socrate.

Và tiến lại thẳng cái cảnh nên thơ kia, nỗi ngạc nhiên ban đầu đã được thay bằng một sự xúc động thật lòng. Bà cụ Athina vẫn tiếp tục vắt sữa hoàn toàn tập trung vào công việc của mình. Bà cụ vẫn chưa quay đầu lại, Lena dịu dàng nói với bà cụ, bằng tiếng Hy Lạp:

- Thưa bà con là Helena, con dâu của bà...

Thấy bà cụ vẫn im lặng, Lena nói thêm:

- Vợ của Socrate, con trai cụ...

Lúc đó, bà cụ vẫn cúi xuống với công việc của mình, buông ra một câu với cô y tá:

- Vứt cái của bẩn thỉu ấy ra ngoài cho tôi.

Dun ngơ ngác nhìn bà cụ già: làm sao có thể như thế được nhỉ? Chắc rằng bằng cách này hay cách khác, Socrate đã đánh hơi được trò xuyên hông ông ta, và chắc rằng mụ Athina này không phải là mụ Athina chính cống.

Bắt đầu buổi họp báo, cô y tá đã đề nghị các nhà báo có mặt nên lịch sự đừng hút thuốc lá. Lúc đầu thôi... Rồi một thằng cha mặt tỉnh như không, rút tẩu ra, đốt lên. Một cha khác giấu điếu thuốc vào lòng bàn tay, như lúc còn nhỏ đi học, hít những hơi khói dài, ngon lành. Những người khác làm theo. Và lúc này trong căn phòng bé nhỏ lại vì hơn bốn mươi người chen chúc, khói thuốc dày đặc đến mức có thể lấy dao cắt được. Mọi người đều lợi dụng lời mời của cô y tá có vị nào muốn dùng một chút giải khát không? Scotch, gin, bia và vốt-ka rót tràn trề. Những người hầu phòng ở tầng gác đi đi lại lại, làm không xuể việc, và bị sai phái một cách vô tội vạ.

Ngồi trong cái ghế tựa, hơi ngà ngà say vì những viên thuốc an thần người ta nhồi nhét quá liều lượng, bà Athina nhìn đám người man rợ đối diện với mình, nheo mắt như con cú bị ánh chớp đèn ảnh chụp chiếu vào. Kèm chặt hai bên, phía trái là Maria, phía phải là người phiên dịch. Đằng sau ghế bành, hai tên Socrate đã đặc biệt chuyển từ Athènes tới. Lệnh cho tất cả: Nếu thấy bà Athina có biểu hiện gì đi chệch, lập tức đuổi hết mọi người ra ngoài, lấy cớ là bà cụ bị mệt. Vả lại, người phiên dịch đã nói ngay từ đầu cuộc họp báo là bà cụ Socrate vừa ốm khỏi, rằng bà cụ rất yếu, rằng cái chuyện làm cho choáng váng vừa rồi cộng với cái mệt mỏi tự nhiên của người già đã làm giảm sức đề kháng của bà cụ. Người phiên dịch là một anh chàng bé nhỏ trẻ tuổi, đeo kính gọng thép, vẻ đàng hoàng, lịch sự, tóc cắt ngắn, mắt tròn, thái độ bàng quan. Thực tế thì anh ta chẳng bàng quan chút nào. Bề ngoài chẳng lộ ra cái gì, nhưng bên trong thì mở cờ trong bụng, vì tự nhiên hắn ta thành giàu có. Nếu mọi chuyện diễn ra tốt đẹp, nghĩa là đúng như người ta yêu cầu, phải diễn ra, thì sau khi kết thúc cuộc họp báo anh ta sẽ có được một khoản tiền lớn đủ để anh ta sống ba mươi năm không phải làm gì hết, chỉ bằng lĩnh lãi suất của số tiền đó gửi ngân hàng.

Anh ta đã được chính Nhà tiên tri ở Cascais chọn. Ông ta cần phải cho anh ta biết bí mật nếu muốn anh ta đóng vai của mình một cách hoàn hảo. Nhà tiên tri đã giáo huấn cho anh liền hai tiếng đồng hồ, trước khi một chiếc máy bay đến đón anh đi Paris, nơi anh ta sẽ thi thố tài năng. Lúc này, anh ta có vẻ làm được việc. Công việc của anh ta được sự thụ động của bà cụ Athina bị nhồi nhét suốt mấy ngày hôm nay toàn thuốc an thần, đỡ cho một phần. Bị những câu hỏi ào ào đổ xuống đầu, anh ta vẫn thản nhiên, chỉ dịch những câu hỏi cho bà cụ Athina và dịch những câu trả lời cho các nhà báo. Có điều là giữa những câu hỏi và những câu trả lời đó, anh ta hoàn thành nhiệm vụ của anh ta, làm cái trò thích hợp với anh ta, khẳng định một cách thản nhiên những điều ngược hẳn với lời bà cụ vừa nói, hoặc hỏi ngược lại những câu hỏi của nhà báo. Nếu có một người khác anh ta, biết tiếng Hy Lạp trong căn phòng 503, thì người ấy sẽ nghe được như sau:

Nhà báo: Bà cụ có yêu con trai không?

Phiên dịch: (với bà cụ Athina) - Tại sao cụ lại ghét ông Socrate?

Bà cụ Athina (với phiên dịch) - Nó là một thằng bại hoại hư hỏng.

Phiên dịch (với nhà báo) - Bà cụ rất quý con trai bà cụ.

Kiểu đối thoại của hai người điếc đặc ấy diễn ra suốt hai tiếng đồng hồ trong hàng trăm câu hỏi đi hết theo đúng hướng Socrate mong muốn. Nhưng ngoài Maria và hai vệ sĩ không ai có thể đánh giá nổi cuộc phao tin nhảm tuyệt diệu của tay phiên dịch bé nhỏ kia.

Dun mang máng thấy có chuyện gì bí ẩn bên trong. Anh không chịu chấp nhận cái sự thật ấy, cái sự thật làm mất toi sự chiến thắng của anh, mất toi những công sức cố gắng và chắc chắn sẽ làm anh và Kallenberg giận nhau. Anh đứng ở mãi tít cuối phòng, rình kẽ hở xuất hiện. Nhưng không có kẽ hở. Anh rất khó can thiệp trực tiếp. Anh không muốn tự mình liều lĩnh lãnh lấy trách nhiệm làm cho người ta quá chú ý tới mình bằng những câu hỏi không hợp thời và quá chính xác đang đốt cháy đôi môi anh ta.

Không thể dừng được nữa, anh hỏi nhỏ với người nhiếp ảnh:

- Đề nghị người phiên dịch cho xem hộ chiếu của mụ kia.

Bob - ngang ngược và mắt châm biếm - chuyển ngay đề nghị đó. Người phiên dịch có vẻ hơi choáng, nhưng hướng về phía Maria và đề nghị cô ta đi lấy hộ tài liệu đó. Maria ra khỏi phòng khách, vào phòng ngủ và trở lại, tay cầm hộ chiếu. Cô ta đưa hộ chiếu cho người phiên dịch. Và từ tay nọ tới tay kia cho tới tay Rap Dun. Dun xem xét hộ chiếu rất lâu, rất lâu. Không thể cãi được, đúng là hộ chiếu thật, có dấu của nhiều nước.

Tất nhiên, Dun không biết được hộ chiếu đã được làm giả ở Luân Đôn, cách đây hai ngày. Bọn chuyên làm hộ chiếu giả đã đòi giá rất cao để tạo ra công trình nghệ thuật ấy. Chết nửa cõi lòng. Dun đưa hộ chiếu cho người bên cạnh. Người này lại chuyền đi, theo hướng ngược lại, cho tới địa điểm xuất phát là cô Maria. Và tiếp theo ngay sự im lặng của khung cảnh đó là một sự kiện bất ngờ: người ta nghe thấy tiếng dê kêu be be. Thế là những người có mặt ở đó phá lên cười. Người nọ nhìn người kia xem có đúng là nghe thấy thế thật không. Mọi cái đầu quay lại phía bức tường hình như vừa phát ra tiếng dê kia. Rồi tất cả lại quay về phía người phiên dịch. Suốt từ đầu buổi họp báo, lần đầu tiên thấy anh ta tủm tỉm cười. Anh ta phác một cử chỉ bất lực và thú thật:

- Thưa các vị, nếu muốn được giải thích thì xin yêu cầu khách sạn Ritz giải thích. Xin đừng yêu cầu cụ Socrate: cụ ấy đã giải thích quá nhiều rồi.

Nhiều tiếng cười lại phá lên, và các nhà báo lao ra ngoài cửa, chẳng thèm chào gì hết. Họ đã moi được hết chuyện họ muốn ở bà cụ. Trò nhảy múa đã chấm dứt, xin chào! Maria phải cắn chặt môi để khỏi phá lên cười khi hình dung thấy con “Lông lá” trốn thoát khỏi hàng rào vây quanh, đang gặm tấm thảm len trải đất.

“Kẻ gieo gió tất phải gặp bão”

Nói rồi, Nhà tiên tri ở Cascais nháy mắt đồng lõa với Socrate. Còn Socrate không phải không biết đùa, nhất là những lúc ông ta thắng và vui vẻ. Nhưng có thật người đối diện với ông ta đùa không? Socrate chưa bao giờ phán đoán được xem “người phù thủy” của mình tuôn ra những câu phương ngôn, tục ngữ ấy để nói thẳng hay nói queo. Đôi khi ông ta cảm thấy Nhà tiên tri bị rơi mặt nạ xuống rất nhanh, thoát qua, trong một câu, một ý trả lời hơi sắc sảo hoặc hài hước nhưng điều đó qua nhanh đến mức Socrate không bao giờ dám chắc rằng mình không ngủ mơ.

Về phía mình, Nhà tiên tri đã học được kinh nghiệm là không bao giờ từ trên cao bước xuống mặt đất. Không bao giờ để lộ chuyện đời tư, không bao giờ tỏ vẻ nghi ngờ, không bao giờ để khách hàng bấu víu vào chỗ nào được, nếu không để mất quyền uy đối với họ. Trước hết, đối với họ, phải trưng ra một niềm thông cảm đầy thiện chí, nhưng đừng có rơi vào cái cạm bẫy luôn luôn mở sẵn của tình bạn sẻ cửa sẻ nhà. Ông ta là một người tình cảm, nhiều lúc thấy xót xa vì chính thái độ ấy, thái độ do đạo đức nghề nghiệp áp đặt cho ông ta. Có những ngày ông ta chỉ muốn không phải bói bài cho người khách ấy, mà đi uống với người ấy một chai rượu, tán chuyện văn chương, triết học, thần học, bất cứ chuyện gì ngoài số tử vi và tướng số. Ngoài những lợi lộc vật chất khổng lồ mà nghề của ông đã mang lại cho ông, vị trí của ông đang có nhiều điều bất lợi. Trước hết là tất cả những lời tràng giang đại hải nói về mình mà ông bắt buộc phải câm lặng, tuy ông thích, gần như khắc khổ, được phóng chúng ra. Cái nghề buôn bán trên sự hoang mang của kẻ khác, làm ông chẳng còn một sự tin tưởng vững chắc nào hết: nếu chẳng may ông lo lắng hay băn khoăn thì ai là người làm cho ông yên tâm đây?

- Anh bạn thân mến ạ, chiến thuật của anh bậc thầy, suốt từ lúc khởi đầu cho đến cuối. Tôi đoán anh có đọc báo chứ?

Socrate giương cao trang nhất của tờ “Diễn đàn”. “Những điều bí mật của chiến tranh giành vàng đen”. Để thoát ra khỏi bước khốn khổ đã đăng một tin thất thiệt, các báo hàng ngày phương Tây cố tình cường điệu lên theo kiểu “chúng tôi đã mắc lừa”. Ai lừa? Họ không nói chính xác. Nhưng làm người ta, qua bản thân Socrate, đoán rằng họ là nạn nhân của cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn tư bản dầu lửa. Câu chuyện bắt đầu như một tin vặt hạ đẳng, bây giờ lại thành ra có tầm vóc quốc tế. Người ta cố tình khen ngợi sự thật thà trong nghề nghiệp của Socrate. Những “tập đoàn đối nghịch” đã tự hạ thấp đến mức tự bịa ra và dựng lên hoàn toàn cái chuyện hư cấu bà mẹ bị bỏ rơi và đứa con bất hiếu, để làm mất danh dự Socrate. Tiếp theo là những xin lỗi, và những bức ảnh chụp bà cụ Athina ở trong khách sạn Ritz tại Paris. Bà cụ đến đây để dạo phố sắm sửa lặt vặt. Trong ảnh, bà cụ đeo đồ nữ trang rất đẹp do ông con trai biếu nhân dịp sinh nhật của bà cụ gần đây. Không những Socrate được rửa sạch mọi vết nhơ, mà người ta còn ca ngợi ông về thái độ đúng đắn và can đảm đối phó với chuyện bôi xấu vô tình kia - đừng gán việc đó cho các nhà báo. Thiện ý của họ đã bị “đánh bất ngờ”.

Thật ra, các luật sư của Socrate đã phải làm dữ để những bản cải chính phải đăng ngay. Họ dọa trừng trị mạnh hết người này đến người kia. Những người phụ trách các tờ báo lớn hàng ngày đã phải họp những cuộc họp sóng gió kéo dài, để quyết định xem nên làm gì. Rất căm uất, nhưng họ đành phải chịu thua và viết những bài cải chính khốn nạn kia làm họ trở thành những thằng ngốc. Việc tất cả đều chui vào rọ cũng không ai an ủi họ chút nào về chuyện bị làm nhục ấy. Từ Roma đến Amsterdam, từ Paris đến Munich, điện thoại đã réo lên để tìm cho ra kẻ nào là thủ phạm đã gây ra tai họa lớn lao này. Nhưng ở hãng S.I.A tại Luân Đôn - hãng Scoop International Agency (Hãng quốc tế thông tin nhanh nhất), nơi mà mọi lời than phiền cáu kỉnh tập trung tới, Mike đã xây một cái đập chặn đứng lại hết, nhất định không chịu lộ tên của người đưa tin. Sự đánh giá mỏng manh đối với uy tín của Dun không phải là nguyên nhân. Nhưng chính là sự thèm khát trả thù ghê gớm của Mike không muốn ai chia sẻ với hắn hết. Tất nhiên công ty S.I.A phải trả lại những món tiền đã thu và sẽ kết thúc câu chuyện làm ăn béo bở này, chưa kể đến những thiệt hại tinh thần, sự mất tín nhiệm lâu dài... Mọi chuyện sẽ phải trả giá hết...

- Còn bây giờ?

Socrate nở một nụ cười thân mật:

- Bây giờ làm sao?

- Ông định làm gì nữa? Ông định tiến công cái gì nữa?

- Thế giới rất lớn, biển rất rộng.

- Ông có tin vào lão tiểu vương ấy không?

- Hoàn toàn không. Lão ta là một tên đầy ảo tưởng, một tên cuồng tín. Nhưng tôi lại tin ở cái tính mê tiền, mê quyền lực của hắn. Khi nào hắn được tiền và hy vọng có quyền lực, hắn sẽ yên và tôn trọng hợp đồng.

- Cái đó chưa đủ.

- Ông muốn nói gì?

- Ông cần buộc chặt lão ta vào ông hơn nữa. Để tới khi hắn muốn phá hợp đồng, hắn cũng không phá nổi nữa kia. Ông tưởng Kallenberg chịu bỏ cuộc ngay như thế này hay sao?

- Không.

- Ta cần hành động rất nhanh, để Kallenberg không chớp được thời cơ trước chúng ta.

- Hắn còn có thể làm gì nữa? Hiện nay hắn là người ngoài cuộc rồi.

- Ông tưởng thế thôi. Điều không thu được bằng thuyết phục, Kallenberg có thể thu lấy bằng nhiều cách khác.

- Lão tiểu vương có thể có những nhược điểm. Người anh rể của ông có thể tiến công vào những điều ấy.

- Tôi đã nắm hợp đồng trong tay.

- Đối với người ấy, hợp đồng chỉ là một tờ giấy, một con số không.

- Nếu vậy thì phải làm gì nữa đây?

- Thằng cha ấy cai trị ra sao?

- Lão ta có một thứ quyền lực tôn giáo và có thế lực đối với những tiểu vương khác ở khu vực đó.

- Dựa trên cái gì?

Socrate nhìn thấy Nhà tiên tri định làm gì rồi. Quả là khôn khéo thật. Ông trả lời:

- Dựa vào một cuộc sống khổ hạnh, một thứ gọi là không vụ lợi, một cái nhãn hiệu có thể gọi tên là sự trong sạch.

- Ông hoàn toàn đúng chứ?

- Suýt soát.

- Ông thấy đấy, bao giờ cũng có phương pháp...

- Đúng rồi, nhưng... như thế nào?

- Tôi cần phải bói một quẻ bài và xem lại số tử vi của ông để biết lúc nào thuận lợi nhất. Sau đó ta sẽ bàn chi tiết trận đánh này. Và tôi xin bảo đảm với ông, lần này ông sẽ nắm chắc lão ta!

- Ông có tin rằng Kallenberg cũng có thể nghĩ giống như thế không?

- Chưa đâu. Nhưng độ tám hoăc mười ngày nữa, ông ta cũng có thể có. Thà rằng mình làm trước. Nào, ta thử xem...

Bằng một động tác mềm mại, Nhà tiên tri trải những con bài lên trên tấm dạ đỏ phủ bàn tiên đoán. Socrate nhìn ông ta như bị thôi miên, khát khao muốn biết số phận mình được xào xáo ra sao.