Chương 8
Suốt bốn mươi tám tiếng đồng hồ, mọi chuyện đều có thể biến thành cái cớ để Kallenberg nổi những trận lôi đình làm ông ta rã rượi, mặt tím ngắt, sắp sửa ngất đi. Những người xung quanh ông, tuy đã quen với những trận bực tức hung hãn như thế, cũng chưa thấy ông trong tình trạng ấy bao giờ. Người nào người ấy im hơi lặng tiếng, len lén đi lại và cố hết sức để khỏi phải tiếp xúc với ông. Ông vẫn còn ở Luân Đôn, khi ông đọc báo, tiếng vang của cá nhân ông thất bại, sự choáng sâu đến độ làm ông thẫn thờ, tạo ra một cái im lặng ghê gớm ở nơi mà, đáng lẽ ra, người ta chờ đợi một sự bùng nổ. Kallenberg tự giam mình trong phòng làm việc, bị sự thất bại làm cho mê muội như say ma tuý, không còn sức để tìm ra nguyên nhân hoặc rút ra một bài học nào nữa. Nhất thời thôi...
Một giờ sau, ông tỉnh cơn mê, cho người đi tìm Dun. Tìm không thấy, và thiếu cái để trút nỗi giận dữ của mình, lao như một con bò đực vào phòng của Irène, ông thấy cô ta đang trần truồng nằm ngửa trên giường, gối đệm lộn xộn. Mặt cô ta phủ một lớp bùn nuôi da mặt. Chẳng có gì đáng trách về chuyện đó cả nhưng ông không muốn mất thời giờ tìm một cái cớ đáng giá nữa.
Ông thét vào tai cô ta.
- Tôi đang sắp khánh kiệt gia tài, người ta đòi nợ tôi khắp các ngả; người ta âm mưu hại tôi! Thế mà tất cả những gì tôi tìm ra để giúp đỡ tôi lại là cái ủ mõm của cô vào thứ phân này à?
Irène khoái trá rợn người khi được nghe cái tin kia: Kallenberg đang khốn khổ. Có kẻ tỏ ra là bậc thầy của hắn, đã làm câm cái họng không chịu nổi của hắn lại, đã trị được hắn rồi! Cô trả lời:
- Ai đòi nợ anh, ai làm anh khánh kiệt, anh yêu? Nói hết cho em nghe đi!
Vừa nói, cô vừa ngồi dậy, mò mẫm xung quanh để tìm một cái khăn bông, tưởng là tìm thấy khi nắm được cái áo dài trắng của tiệm may Dior mà cô vừa cởi ra lúc nãy, rồi đưa lên lau mặt. Dần dần qua lớp bùn mỏng dính trên mi mắt, nhìn thấy bóng Kallenberg. Cô liền bị một quả đấm vào sườn làm cô nghẹt thở. Kallenberg thét sùi bọt mép:
- Con bò cái béo ị này! Mày không thấy mày chùi bằng cái gì đấy à?
Irène chụp lấy cơ hội để làm ông nổi nóng hơn nữa, để thắng điểm ông. Đau quá, phải nhăn mặt dưới lớp bùn, cô lại làm ra vẻ nghịch ngợm, mắng yêu Kallenberg:
- Anh yêu, nếu anh có khó khăn thật, thì lúc này không phải là lúc tán hươu, tán vượn nữa. Kể hết cho em nghe đi!
Kallenberg mất nốt chút tự chủ còn xót lại, lại đấm, lần này vào dạ dày:
- À! Mày tưởng tao tán hươu tán vượn à? Này! Đồ cứt khô!
Tức khắc cái tình thế hung bạo được nung nóng lên bởi thái độ của Irène, lại kích động ông, như hệt mỗi lần ông thấy có một kẻ thù nằm chịu chết trong tay ông, dù chính là vợ ông. Ông nắm chặt lấy một bên vú của Irène xoắn lại. Irène thét lên một tiếng thất thanh, nhưng vẫn cố thử lần cuối cùng nữa:
- Mỗi lần anh thèm muốn em, là em rất thích...
Và bị thêm một quả đấm thình lình, đau không chịu nổi nữa, cô thét lên the thé:
- Đồ đểu! Đồ bẩn thỉu! Đồ xúc vật! Tao muốn cho người ta đạp vỡ mồm mày! Tao muốn cho người ta cướp hết của mày tới đồng xu cuối cùng! Tao muốn người ta đâm thủng bụng mày!
Nụ cười lại hiện trên môi “Con yêu râu xanh”:
- Tuyệt... Thế này thì ít nhất tao còn nhìn thấy bộ mặt thật của mày! Đây mới là mày chính cống.
Và ông đi ra khỏi phòng, trong lúc Irène nức nở khóc, điên cuồng xé tan tấm áo mà cô ta vừa bôi bẩn. Ông trở lại phòng làm việc, gọi điện nhiều lần để tiến hành một cách kín đáo cuộc điều tra của ông.
Về cái “vụ” này, một trong những tờ báo đã viết một bài ngắn: “Ai có lợi trong tội ác ấy”, người ta tuyệt đối không nói đến Kallenberg, chỉ trừ để nhắc lại rằng chính ông cũng là nạn nhân của một vụ om xòm do những kẻ khác gây ra, mấy ngày trước. Có phải là hành động của một số cực tả nhằm làm sụp uy tín của những người là trụ cột nền kinh tế thế giới không? Hay mưu mô chính trị? Hay là cuộc chiến tranh giữa các chủ tàu? Người ký tên bài báo tự hỏi nhiều lần, đặt nhiều giả định, mà không có giả định nào đúng hết, vì đã bỏ vào cùng một rọ “nạn nhân” những kẻ đích thực chịu trách nhiệm về cuộc phá hoại lẫn nhau: Socrate và Kallenberg. Ít nhất về mặt đó, “Con yêu râu xanh” còn yên tâm: người ta không ngờ Socrate đã phá bĩnh cái đêm Nô-en xinh đẹp của ông, cũng như không ngờ Kallenberg đã khai quật bà mẹ Socrate lên. Tạm thời, vậy mà mọi chuyện vẫn còn ở trong phạm vi gia đình.
Đến tối, “Con yêu râu xanh” quyết định ngày hôm sau đi Côte d’Azur, cùng với Irène. Trong cái vịnh của nhà tỉ phú, sau Eden Roc, giữa Cannes và Antibes, ông có một biệt thự rất đẹp mà ông hầu như chưa hề đặt chân tới.
Ông nghĩ rằng tới đó vào thời kỳ mà bọn “được nghỉ hè có lương” sắp kết thúc những ngày nghỉ buồn tẻ của họ, thì ông sẽ làm cho không ai chú ý tới những kế hoạch trả thù ông đang nung nấu. Ông cần đóng vai người chồng chung thủy để có thời gian nghiền ngẫm cuộc phản kích. Irène được yêu cầu đi ngay buổi sáng, Kallenberg thấy cần thu xếp một vài chi tiết trước khi lên máy bay vào buổi chiều.
Khi ông tới Nice, một chuyện kỳ quặc đã xảy ra với ông mà sau này ông cho rằng do cơn giận dữ bị nén lại của ông gây nên. Người lái xe của ông đứng đợi ông ở phòng ngoài của sân bay, xin lỗi phải đón ông bằng một xe hơi thuê. Anh ta đã nghe thấy một tiếng kỳ lạ trong máy chiếc xe Cadillac và đã đưa nó cho người ta kiểm tra lại máy.
Kallenberg hỏi:
- Bao giờ thì xong?
Người lái xe sửng sốt vì một câu hỏi như vậy. Chủ anh chưa bao giờ nhúng mũi vào những trò ranh của việc quản lý:
- Thưa ông, hiện nay đã xong, tôi vừa gọi điện cho họ. Tôi sẽ tới lấy xe ngay sau khi đưa ông về tới nhà.
- Ta cùng đi lấy ngay lập tức.
Ngạc nhiên, người lái xe không có ý kiến gì, và lái xe về phía Nice. Tới nơi rửa xe, anh đề nghị “Con yêu râu xanh” đợi anh, và chạy thật nhanh lên các tầng gác trên để lấy lại cái xe Cadillac. Kallenberg bước ra ngoài xe cho khỏi cuồng chân, lơ đãng nhìn những người lau xe Bentley. Sau năm phút... Đột nhiên bực bội, ông chạy lên tận tầng bốn phát hiện ra người lái xe của ông đang kẹt trong một chỗ rẽ vòng ở đường cho xe đi xuống.
Hất tay, Kallenberg ra lệnh cho người lái xe nhường chỗ cho ông. Ngồi vào chỗ người lái, ông bắt đầu lái cho chiếc Cadillac ra khỏi đoạn kẹt, quặt sang phải, sang trái, tiến lên, lùi lại, mà không có kết quả gì đáng kể. Để giúp cho ông trong việc lái, người lái xe định làm hiệu cho ông, điều làm cho Kallenberg phật ý, bực mình vì đã thất bại ở một việc một người khác không thành công. Ông hét lên một câu gì đó qua cửa kính xe mà người lái xe không nghe thấy, vì động cơ đột nhiên gầm lên. Cáu đến nổ tung lên, “Con yêu râu xanh” giật rách tấm chắn bùn trước của chiếc xe Jaguar làm kẹt xe ông để ra khỏi hẳn chỗ kẹt, ông muốn dùng lại cần số tự động, làm cho 350 mã lực của chiếc xe gầm lên. Ông nhầm một số và cài số lui: như một tên lửa, chiếc xe Cadillac chồm lên trong xưởng sửa xe, tiếng bánh hú lên và chỉ trong tích tắc đồng hồ, nó đã vượt qua tầng gác phá thủng bức tường thủy tinh, sau khi đã đâm gãy cái chắn bảo vệ rất nặng. Trên đà lao đi, chiếc xe điên ấy bắn ra mặt ngoài của tòa nhà trên cao, cách mặt đường hai mét, đuôi xe mỗi lúc một chúc dần xuống từ từ nhào lăn một cách đáng sợ, làm cho khách bộ hành hoảng hồn.
Đúng lúc rơi xuống, chiếc xe bị móc lại lơ lửng ở cái dầm sắt bị đâm cong của hàng rào bảo vệ. Ra khỏi cơn ác mộng, người lái xe từ nãy không có thời giờ kịp động đậy, vội lao tới cứu Kallenberg. Anh cúi xuống lỗ thủng to tướng ở cửa và qua kính chắn gió nát vụn, thấy ông chủ anh ta mặt tái mét, đầy máu, nín thở như sợ chiếc xe tuột xuống. “Con yêu râu xanh” nhìn anh lái xe với đôi mắt đờ đẫn và dò hỏi.
- Thưa ông, ông có thể ra được... Chậm thôi... Xe không rơi được đâu...
Kallenberg bò ra, chưa tin là thực.
- Ông cứ ra đi... xin cầm lấy tay tôi.
Ông bám vào tay anh ta, chui ra khỏi những mảnh vụn của chiếc xe, và đặt chân xuống đất. Nín thít, những người làm trong xưởng xe quây lấy ông: ông không cần nhìn họ. Ông chỉ nói với người lái xe:
- Giải quyết các chi tiết với các ông ấy, Hubert. Trả tiền đền hết.
Ông lắc lắc người, lấy mùi xoa chùi mặt và đi xa dần trong sự im lặng mênh mông. Không một ai động đậy để giữ ông lại.
Bốn mươi lăm phút sau, ông tới biệt thự, máu vẫn chảy từ một vết đứt ở lông mày. Ông đưa một tờ bạc lớn cho người lái xe tắc-xi đang không dám hỏi ông:
- Thôi được... Cầm lấy tất cả.
Irène đang thử áo tắm trong phòng khách, ngơ ngác nhìn ông đi qua.
- Kallenberg!
Ông không trả lời vợ mà đi về phía phòng tắm. Irène theo ngay sau gót.
- Sao thế? Anh đã làm chuyện gì thế? Có chuyện gì xảy ra thế?
Ông có vẻ choáng váng, đờ đẫn. Ông không phản ứng gì khi cô lấy khăn lau vết thương cho ông.
- Anh ép chặt cái khăn vào trán đi... Khoan đã... Đừng động đậy...
Irène mở một cái tủ nhỏ trên tường, lấy bông, cồn chín mươi độ, thuốc đỏ, quan sát vết thương, rửa sạch.
- Không sâu đâu...
Kallenberg đồ sộ đã biến thành đứa trẻ và để yên cho Irène chăm sóc, điều làm Irène thấy bốc lên mặt mình những đợt nóng hổi của tình âu yếm thật sự. Nếu ông lúc nào cũng như thế, phụ thuộc vào cô, chịu nhận sự giúp đỡ của cô chứ đừng bắt cô phục tùng theo ý trí của ông! Kallenberg mở miệng nói:
- Anh vừa bị một tai nạn nhỏ... Anh đã lao chiếc xe Cadillac qua tường tầng thứ tư của xưởng sửa xe... không sao cả...
- Không... không sao cả, anh yêu ạ... Cứ để em chăm sóc cho anh.
Thế là cô quên ngay trận đòn ngày hôm trước, quên những lời chửi rửa, quên cuộc chiến tranh thường trực giữa hai người. Cô đột nhiên trở lại tầm vóc của người đàn bà, người vợ chiến sĩ, băng bó, làm yên lòng, vuốt ve, ru ngủ, an ủi...
- Anh vào nằm trong phòng chúng ta nhé...
“Phòng chúng ta”! Từ tuần đầu, sau ngày cưới, họ đã ở phòng riêng, không ở chung phòng! Mấy chữ đó tự nhiên đã đến trên môi cô, những sự việc xảy ra đã làm cô gắn bó lại với người chồng bị thương. Không hề phản đối, Kallenberg vươn cái thân hình to lớn kềnh càng ra, chậm chạp bước về nơi người ta vừa mời ông tới. Khi ông nằm trên giường, Irène để ông nằm một mình mấy phút, đi ra bảo người hầu phòng gái mang nước trà và rượu Uýt-xki tới. Cô quay lại giường Kallenberg, để tay lên tóc ông, và khe khẽ gãi lên da đầu. Cô thấy mình hơi lố bịch, vì đây là lần đầu tiên cô thử liều mình làm một cử chỉ như vậy, không khiêu dâm, cũng không thù nghịch, hai mặt của lòng đam mê. Đơn giản chỉ có tình thương mà thôi. Chừng nào cô cảm thấy có một may mắn là cô tồn tại vì ông thì cô sẵn sàng đứng về phía ông, chống lại những kẻ khác. Cô ngạc nhiên nhận ra mình có tình cảm ấy, đối với con người luật chơi xưa nay vẫn đòi hỏi là kẻ nọ phải tìm cách diệt kẻ kia. Có lẽ trên thế gian này có những lứa đôi chung mục đích, quyền lợi chăng?
Irène suy nghĩ và nhận ra từ tuổi thơ ấu, cô chỉ chịu đựng (và thực hành) những trò hai mặt. Từ lúc còn nhỏ xíu, cô đã biết lừa dối bà mẹ một cách đáng xấu hổ. Tại sao ông ta lại cư xử một cách khác đi khi gặp những khách lạ, và một cách khác hẳn khi chỉ có những người trong gia đình? Lúc nào thì ông ta đóng vai trò thật, trong gia đình hay ở ngoài? Cô chợt thấy hầu như không biết gì hết về ông Mikolofides bố cô. Và lần đầu tiên, cô hình dung ra ông bố khác hẳn với hình ảnh được nhìn bằng đôi mắt đứa con gái bé nhỏ sợ sệt vừa ghét vừa khiếp hãi ông bố.
Irène nghe tiếng thở đều đều của Kallenberg, sâu như trong khi ngủ. Tuy vậy ông không ngủ, đôi mắt mở to, nhìn thẳng lên trần nhà, ở trung tâm đồng tử ghim giữ màu xanh da trời, có những chấm nhỏ màu xanh lá cây lốm đốm.
- Anh có những chấm xanh lá cây trong mắt.
Kallenberg không trả lời. Rất tự nhiên, Irène nằm xuống bên ông nhấc đầu ông lên và luồn tay xuống gáy ông. Cô mạnh dạn ép mình vào người ông. Che chở cho chính kẻ che chở mình, âu yếm như mẹ của chính kẻ hành hạ mình. Ông đang nghĩ gì thế nhỉ?
- Anh đang nghĩ gì thế?
Ông thở rất dài:
- Tôi bị người ta làm phiền ghê quá!
Đây là lần đầu tiên, ông nói với cô về tình trạng tâm hồn. Cô càng ôm chặt ông thêm. Đúng là cô cũng có đọc báo nhưng chịu không hiểu nổi Kallenberg sao lại liên quan tới chuyện Socrate và bà mẹ Socrate.
- Phiền lắm hả?
- Ừ, phiền lắm...
Ông trả lời cô, cô như bị điện giật, và cảm thấy tự hào. Không kìm được, cô buông ra một câu ngu ngốc chắc sẽ phá tan giây phút hiếm hoi này:
- Anh cầm tinh con gì, ở cung nào?
- Bạch dương cung... Sao lại hỏi thế?
- Hỏi thế thôi... tự nhiên em lại nghĩ tới chuyện đó.
- Em có tin tử vi không?
- Em cũng chẳng biết nữa. Nhưng Socrate rất tin, Lena kể cho em nghe rằng Socrate không làm một chuyện gì trước khi hỏi ý kiến nhà chiêm tinh của ông ta.
Irène thấy ông giật mình.
- Nhà chiêm tinh à?
- Đại loại là một người thầy bói: Một thằng cha sống ở Bồ Đào Nha vùng Estoril... Khoan đã!... À... Hắn ta tên là... Nhà tiên tri! Nhà tiên tri ở Cascais.
- Cô chắc chắn chứ?
- Socrate còn thú thật với Lena, nếu lão thầy bói không tán thành thì ông ta đã không lấy Lena làm vợ.
Kallenberg nhỏm dậy, mắt long lanh:
- Cô tin rằng hắn ngu ngốc đến độ làm những trò ấy ư?
- Thì em đã nói với anh rồi mà! Ông ta không chịu ký bất cứ hợp đồng nào nếu chưa tham khảo ý kiến lão thầy bói.
Thoáng một cái, Kallenberg đứng phắt dậy, ý chí chiến đấu hiện lên trên mặt, tuy một chút máu vẫn còn rơm rớm chảy ra. Irène lập tức cảnh giác ngay: rõ ràng là ngày vui đã tàn. Nhưng không... Kallenberg âu yếm cúi xuống hôn lên trán cô và nói:
- Cảm ơn em! Em không biết điều em vừa báo cho tôi quý giá đến mức nào!
Irène tự hỏi không biết có phải mình nằm mơ không. Không biết ông ta có nói thật không? Hay bị choáng vì tai nạn vừa qua? Nhưng Kallenberg vẫn bình tĩnh, tươi cười. Cô ngơ ngác bàng hoàng...
Bà cụ Athina đang quỳ xuống bên cạnh con dê “Lông lá”, thì cô y tá phải rời bà cụ sang phòng bên xem ai gõ cửa. Maria vừa bước qua ngưỡng cái cửa thông hai phòng, thì bà cụ, lúc nào cũng chờ cơ hội đã vọt ra ngoài. Maria đã mắc sai lầm ở chỗ chỉ kéo chốt lên trong căn phòng. Đáng lẽ cô ta phải khóa cả khóa bên ngoài. Liếc mắt nhìn bên phải, liếc mắt nhìn bên trái, thế là bà cụ Athina đã lao ra ngoài hành lang, và cứ chạy theo hành lang cho đến chỗ tận cùng. Bà cụ đi theo một cái cửa dùng cho nhân viên phục vụ, xuống một tầng gác, rồi đứng lại ở giữa cầu thang. Bà cụ mặc một áo dài đen và đi giày vải. Thứ giày đi trong nhà. Bà mở một cái cửa tủ mà những người hầu trong khách sạn thường xếp quần áo riêng của họ, thò tay vào, sờ lấy những đồ vật bên trong đó: chổi, giẻ lau, một giỏ đầy xi đánh gỗ, một cái áo khoác dạ thô và mỏng của phụ nữ màu xanh tím. Bà ta mặc áo khoác vào, bỏ những chai xi đánh gỗ ra khỏi giỏ. Vài phút sau, trong lúc Maria hoảng lên vì thấy mất bà cụ, vội báo động, thì bà cụ Athina đi thoăn thoắt trong phố Rivoli, quay lưng lại quảng trường Concorde. Giữa tháng Tám ở Paris, một bà cụ già mặc áo đen, mang giày vải đi chợ mua bán thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên, ngay giữa Quận I cũng vậy thôi.
Ngoài chuyện lánh xa thật nhanh nơi người ta đang giam chặt mình, bà cụ chẳng có mục đích nào cả. Bà cụ đi nhanh dưới bóng râm những cửa tò vò, cứ nhìn thẳng trước mặt mà đi không hề quay đầu dòm ngó cả những tủ kính gợi cảm mà bà đã quên từ lâu trong ký ức. Bà cụ đi qua quảng trường Kim tự tháp, quảng trường Cung Vua, và tiếp tục đi nhanh, đều bước. Đi ngang qua Tháp Saint-Jacques, chẳng có lý do gì, do cảm tính, bà cụ rẽ sang phải, đi dọc Nhà hát Sarah-Bernhardt và rẽ sang trái. Lần này bà cụ đi theo bến tàu Gesvres. Chợt bà cụ thấy khó đi lên được vì những khách du lịch tụ lại bên các quầy sách cũ. Không khí khô, đặc sệt bụi, hơi nóng, mùi nhựa đường và ét-xăng. Bà cụ chỉ dừng lại một chút ở ngang cầu Arcole, để nhìn một ông già đang vãi thóc cho chim bồ câu ăn. Vụng về, bà cụ định vuốt ve một con chim ăn dưới chân bà: Nhưng con chim lại đi ra xa. Người cho chim ăn mỉm cười với bà cụ và nói bằng thứ tiếng của ông ta, bà cụ chẳng hiểu gì hết.
Bà cụ lại đi, cố để người ta không đuổi kịp bắt được mình. Bến tàu Tòa Thị chính, cầu Louis-Philippe, bến tàu Célestins. Đi đến gần bến tàu Henri IV, ngần ngừ, bà cụ quay lại để đi lên cầu Sully. Bà cụ qua cầu, Nhà thờ Đức Bà ở bên phải, con sông chảy xa bên trái, chỗ nào cũng thấy xe hơi, và mùi dầu khét lẹt. Vượt qua sông Seine, bà cụ đến góc, nơi mà phố Fossés-Saint-Bernard và đại lộ Saint-Germain cũng chấm dứt. Bà cụ đi tới chợ Rượu Vang và đi theo hàng rào của chợ. Đã bốn giờ chiều bà cụ đã đi qua phố Cuvier, và đưa mắt tò mò nhìn xuyên những hàng rào sắt. Sau những hàng rào đó, bà cụ rất ngạc nhiên thấy những con vật giống như con dê, những con chó và những con chó sói nhốt trong lồng. Bà cụ muốn vào nơi ấy, cái nơi bà không thấy lạc lõng. Bà cụ tìm mãi cửa, nhưng không thấy. Bà đi ngược lại và nhìn ngay thấy cổng chính. Bà cụ đi vào. Một người đàn ông mặc quần áo xanh, đội mũ cát két, giơ tay ngăn bà cụ lại:
- Bà cho xin vé vào cửa...
Bà cụ nhìn người đó không hiểu.
- Một phrăng! - Người đàn ông giơ một ngón tay lên để nói rõ hơn giá tiền và đơn vị.
Bà cụ lắc đầu. Thấy bà cụ luống cuống, người gác xoa ngón tay cái vào ngón tay trỏ bàn tay phải, động tác quốc tế ai cũng làm. Bà cụ lắc đầu một lần nữa. Người gác nói:
- Tiền... Một phrăng vào cửa. Bà không có à?
Vừa nói, ông ta vừa vỗ vỗ vào cái túi mà bà đã ăn cắp. Ông nghe thấy tiếng đồng tiền kêu lách cách trong đó. Bà cụ thò tay vào túi và móc ra, ngửa bàn tay, ba đồng một phrăng và hai đồng hai mươi xu. Người gác lấy một đồng và nói với theo bà cụ đang đi xa dần ở lối đi trung tâm.
- Đóng cửa lúc mười bảy giờ đấy!
Bà cụ nhập vào một toán khách du lịch đang đứng ngắm một lồng chim. Xa hơn, bà cụ đi vào một khu sặc sụa mùi dã thú và đầy những con rắn thật to. Bà cụ chưa bao giờ nhìn thấy những con rắn to như thế, và tự hỏi không biết phải nuôi chúng bằng bao nhiêu súc vật mỗi ngày. Ở một quầy, bà cụ lại đưa một đồng tiền nữa và cầm lấy một gói lạc. Bà cụ lơ đãng bóc vỏ lạc, mê đi vì những thứ mình nhìn thấy, quên hết, cả Maria, khách sạn Ritz, những thứ sang trọng bày biện ở đó, những tác phẩm hội họa ở đó.
Trước chuồng khỉ, bà cụ dừng lại rất lâu, đứng giữa một đám trẻ con đang vứt thức ăn cho khỉ. Xa hơn nữa, bà cụ nhìn kỹ những con gấu. Bà cụ thấy chúng thật đẹp, trái lại, những người đi chơi vây quanh chúng, nói với chúng, bà lại thấy họ xanh xao, mỏng mảnh, sức khỏe yếu đuối. Tại sao người ta lại nhốt súc vật lại nhỉ? Bà cụ cũng đi xem cả những con hoẵng, những con voi, những con nai vàng nhợt, và những lồng lớn trong đó có nhiều loại chim bay lượn. Những con chim bà cụ chưa trông thấy bao giờ, và không ngờ trên đời này có chúng nữa vì màu sắc chúng thật không tài nào tưởng tượng nổi.
Bà cụ đang đứng trước chuồng thú dữ thì nghe thấy tiếng còi. Tự nhiên bà cụ muốn chạy trốn, cho rằng tiếng còi ấy chỉ được thổi lên vì mình, do những kẻ đang truy lùng mình thổi lên. Nhiều tiếng còi tiếp theo. Và bà cụ thấy những người vây quanh bà cụ chuyển dần từ từ về phía cửa ra. Bà cụ lập tức đi ngược hướng đó. Bà cụ không muốn quay lại những đường phố nguy hiểm, đầy những điều chưa biết, ác cảm với mình. Bà cụ biết rằng trong khu vườn sắp đóng cửa này, bà sẽ được che chở, và không ai có thể tìm ra bà, nếu bà phát hiện một chỗ trốn kín đáo.
Bà cụ gặp những người khách cuối cùng của Vườn Bách thảo, một bà mẹ đang tập hợp lũ con, những cặp tình nhân. Khi bà cụ thấy một người gác mặc sắc phục, bà nấp vào sau một cái nhà bằng gạch, và cứ lượn tròn chung quanh nhà, đợi cho người kia đi ra xa. Rồi thì không còn ai nữa. Bà cụ đứng yên, rình mò xung quanh để chắc chắn rằng mình là người cuối cùng trong cái thiên đường ấy. Nhiều tiếng nói làm bà cụ co người lại thêm một chút. Hai người gác đi cách bà cụ vài thước mà không trông thấy bà. Họ đi ra phía rào. Im lặng trùm lên vườn cây. Thỉnh thoảng, tiếng súc vật bị khích động kêu lên, phá tan cái im lặng ấy. Chắc những con vật đang rũ lông, rũ cánh tìm chỗ ngủ trong đêm. Tiếng ồn ào của thành phố vẳng tới bà cụ, như tiếng thở hổn hển liên tục của một trái tim hình như không bao giờ ngừng đập. Bầu trời chuyển sang màu hồng ở phía tây, trong khi ở đây đó đèn nê-ông bật sáng.
Đêm xuống, đã ba tiếng đồng hồ liền bà cụ Athina lười nhác ngồi trong cái đài quan sát bằng gạch ấy. Rất thận trọng bà cụ đi xa dần ra, dễ dàng tìm thấy đường trong những lối đi có ánh sáng mờ mờ. Bà cụ mò ra một bãi cỏ, tựa lưng vào một gốc cây và thở hít thật mạnh. Bà cụ thấy mình đơn độc trị vì trong thế giới súc vật thần kỳ mà bà cụ chẳng biết tên nữa. Bà cụ thấy đói. Bà rời gốc cây để đi thăm dò khu vườn, tự hỏi không biết có tìm được thức ăn không? Bây giờ, bóng tối đã dày đặc. Chung quanh, bà cụ cảm thấy sự có mặt mang sức hút từ tính của súc vật, ngửi thấy mùi chúng, cố đoán xem đó là những con vật gì.
Có một lúc, bà cụ đi tới cổng chính. Bà cụ vội đi xa ra, khó chịu vì xe chạy như nước chảy bên ngoài. Bà cụ vấp vào một căn lều lung lay, sờ thấy một thứ vải bạt, thò tay vào bên trong và nhận ra đó là quầy hàng của cô bán kẹo. Vui không để đâu cho hết, bà cụ lấy đi nhiều gói, nếm thử. Kẹo lạc mềm, và lại lạc rang. Sau khi đã ăn, bà cụ cố nhớ lại xem nơi bà cụ đã thấy một cái máy nước từ dưới đất mọc thẳng lên. Có lẽ cái máy đó ở gần chuồng sư tử. Bà cụ cố tìm hướng, lạc tới gần chuồng khỉ, nhớ lại rằng chuồng thú dữ ở xa hơn, sau lưng mình. Bà cụ quay lại, mò mẫm tìm đường đi nhận ra chuồng thú dữ xây thành nhà tròn, lượn lờ chung quanh, tay lần sát vào hàng rào. Đột nhiên có một tiếng gầm vang làm bà cụ cứng người, nhưng rồi lại im lặng cười không thành tiếng: không có gì nguy hiểm cho bà cụ cả. Ban đêm người ta đã nhốt những con vật đó lại, nhưng không nhốt bà cụ. Chúng nó ở trong những hàng rào sắt. Còn bà cụ thì được tự do, không ai canh giữ, không ai bắt bà cụ uống những thứ của nợ làm bà cụ cứ lơ mơ, không thể tự quyết định được gì, chừng nào những của nợ ấy chưa nhạt.
Cái cô Maria ấy có vẻ hiền lành, nhưng bà cụ sẽ không ngần ngại gì mà không đâm thẳng mũi kim đan vào cổ họng cô ta nếu cô có ý định ngăn cản bà rời cái nhà tù ấy. Bà cụ tự nghiền ngẫm mãi về lý do những nỗi khổ trút lên đầu bà, từ lúc những người mặc áo trắng ấy tới lôi bà ra khỏi nhà, dứt ra khỏi những con dê, những con thỏ. Bà cụ đoán rằng cái thằng Socrate, cái đứa tự nhận là con trai bà cụ, không xa lạ gì với trò tra tấn hành hạ mà bà cụ phải chịu đâu. Cái thằng ấy nó muốn gì ở bà nào? Tại sao nó không để cho bà yên? Bà đã làm gì nó để đến nỗi nó hành hạ bà như thế? Bà cụ nghĩ đến con dê “Lông lá”, nhớ lại nó đã có một ổ nằm mát mẻ, có đủ cỏ và nước... Nước! Bàn tay bà cụ vừa chạm vào cái máy nước. Bà vặn máy, làm một tia nước mạnh vọt ra, ướt hết đôi giày vải. Bà cụ vặn nhỏ lại, đủ để có một tia nước mảnh dẻ chảy ra. Hai bàn tay cụ chụm lại, hứng nước mát rượi và uống liên tục, uống không kịp thở. Bà cụ đưa áo măng-tô lên chùi miệng, lật cổ áo lên vì không khí đã hơi lạnh, rồi lại đi ra phía gốc cây của bà. Bà cụ nằm dài dưới gốc cây, nghe tiếng khỉ kêu và tiếng linh cẩu rú. Bà cụ nhìn lên trời. Đáng lẽ phải đen thì có màu đo đỏ, y như người ta đặt một tấm vách ngăn trước không gian vô cùng tận. Không có một ngôi sao nào. Bà cụ ngủ.
Maria đã nhận được những chỉ dẫn mơ hồ: trong trường hợp nguy khốn, nếu bà cụ Socrate bị tai nạn, nếu xảy ra một chuyện gì bất ngờ đối với bà cụ, thì không được báo động cho cảnh sát, mà báo động cho giám đốc khách sạn, ông ta sẽ biết được phải làm gì cho thích hợp. Vì thế, sau khi nhìn khắp hành lang, đi xuống tầng gác, cô thấy khôn ngoan nhất là nên thực hiện những chỉ dẫn.
Cồ quay lại phòng, nhấn máy điện thoại và yêu cầu tổng đài cho nói chuyện với Édouard Fouillet cấp tốc. Cô tưởng mình còn giữ được bình tĩnh, nhưng nhìn thấy đôi tay run run, cô mới biết cô đã hoảng sợ. Cả hai chân cô bủn rủn, cô đành phải ngồi xuống. Fouillet đã cầm máy. Bằng tiếng Anh, cô nói để ông ta biết là bà cụ Athina đã mất tích. Ở đầu dây đằng kia, Fouillet ắng cổ. Ông ta hoảng sợ tưởng tượng ra một vụ tai tiếng khác. Còn các nhà báo lại ào vào khách sạn, chỗ nào cũng thấy đầu mẩu thuốc lá, để lại những vết thương tàn ác trên các tấm thảm của ông ta, nét mặt khó đăm đăm của các vị khách quen. Đáng lẽ ra không bao giờ ông ta nên tiếp nhận cái mụ già điên dại ấy! Ai có thể tưởng tượng được rằng, ngoài những phiền toái khác, mụ lại còn bắt ông ta phải để cho một con dê cái vào phòng nữa? Ông lại ngừng lại ở chữ đó:
- Con dê cái vẫn còn ở đó chứ?
Maria ngớ người ra trước câu hỏi như thế. Người ta trao trách nhiệm cho họ giữ bà cụ Athina, bây giờ bà cụ mất tích, thế mà ông lại hỏi con dê cái có còn ở đó không! Lạnh lùng, cô đáp:
- Tôi không cần chuyện con dê cái!
- Cô có hiểu rằng bà cụ Socrate hơi... nói thế nào nhỉ?... Hơi dở hơi... Không, hơi độc đáo... Nếu bà cụ mất công đưa con vật yêu thích từ Athènes tới đây, thì rất có thể bà cụ sẽ không bỏ rơi nó... Bà cụ sẽ quay lại... Có lẽ đây chỉ là trốn chạy trong một thời gian ngắn thôi...
Cũng không ngốc lắm. Đến lượt Maria bíu lấy cái hy vọng ấy. Ông ta nói có lý. Bà cụ Athina không thể đi xa được, bà cụ không thể để con “Lông lá” ở trong một căn phòng, bà cụ sắp trở lại. Fouillet nói tiếp:
- Trong khi chờ đợi, bà cụ có thể trở lại, cô có muốn tôi báo cho cảnh sát vụ cụ Socrate mất tích không?
- Đừng làm gì hết!
Im lặng ở đầu dây đằng kia, rồi:
- Dù sao... Đây cũng là chuyện trách nhiệm... Cô cứ ở nguyên trong phòng tôi tới ngay.
Một phút sau, ông ta tới, quần áo đen, vẻ lo lắng. Ông ta đặt câu hỏi để xem cô đã phát hiện ra tai họa như thế nào. Maria kể lại cho ông ta nghe những điều ít ỏi mà cô biết: bà cụ đang ở đó, và đột nhiên, bà cụ không còn ở đó nữa. Có thế thôi.
- Có khi bà cụ vẫn còn ở trong khách sạn?
- Chắc chắn không có rồi.
- Thưa cô, tại sao cô lại nói thế?
- Bà cụ rất ghét nơi này?
Mặc dù tình trạng nghiêm trọng, Fouillet không thể không nhăn mặt: trên đời này không có ai, dù chán chường đến đâu, hoặc vô tâm vô tính đến đâu, lại có thể ghét cái khách sạn lớn của ông ta được.
- Thưa cô, xin lỗi cô... Cô đang nói về khách sạn Ritz đấy ạ.
Y như ông ta phê phán: “Cô ta đang hút thuốc lá giữa nhà thờ Chúa đấy!” Ông ta phật ý nói thêm:
- Tôi sẽ ra lệnh tìm kỹ khắp khách sạn. Chưa biết thế nào được!
- Đừng có cho báo cảnh sát!
- Nhưng nếu bà cụ không trở lại thì sao?
Maria như đang bị tra tấn, cô không biết quyết định ra sao nữa. Cô phải báo cho ai đây? Tất cả những chuyện này quả là không tài nào đoán trước được... Cô lúng túng nhìn ông giám đốc khách sạn. Ông ta nói với cô:
- Trong những trường hợp bà cụ mất tích, cô có được chỉ dẫn làm gì không?
Không, cô không biết. Cô thấy sai lầm của cô đè gí cô xuống. Nếu bà cụ Athina không quay về trong một thời gian ngắn thì mọi ý định đẹp đẽ của cô đã tan thành mây khói hết. Cô sẽ bị đuổi không làm việc được nữa, và mất hết danh dự. Cô không dám nhìn Fouillet nữa. Ông nhìn cô từ đầu đến chân không chút thiện cảm, một vẻ nghiêm khắc hiện lên mặt.
- Vậy thì, thưa cô, chuyện này rất đơn giản. Nếu bà cụ Socrate không có mặt trong khách sạn và bà cụ không trở về... đại khái... trong hai tiếng đồng hồ nữa... Tôi buộc phải báo cho đồn cảnh sát khu phố này. Chỉ trừ cô đề nghị với tôi một biện pháp khác.
Maria im tiếng, luống cuống, rời rã, lo lắng. Ông lợi dụng lúc đó để đi ra cửa; đến đây, ông còn quay lại bắn cho cô mũi tên kết thúc:
- Nếu xảy ra chuyện gì với bà cụ đáng yêu ấy, tôi lo người ta quy trách nhiệm cho cô hết.
Ông suy nghĩ một giây rồi nói thêm:
- Hơn nữa, tôi cũng nghĩ rằng đúng là cô phải chịu trách nhiệm.
Và ông đi ra, để cô đứng trơ giữa căn phòng. Maria thấy nước mắt sắp chảy ra. Cô nằm vật xuống giường, hai tay ôm lấy đầu, và khóc nức nở.
Bà cụ Athina giật mình tỉnh dậy. Bà cụ mở mắt ra và trong mấy giây đồng hồ, tự hỏi mình đang làm gì ở đậy, mà làm gì giữa trời, chứ không ngủ ở nhà. Rồi bà cụ nhớ lại, đưa đôi mắt sợ hãi nhìn chung quanh, để xem người ta đã đuổi kịp mình chưa. Vườn bách thảo vẫn không có một ai như khi bà cụ thiếp đi. Tự nhiên bà cụ xoa mạnh hai bên sườn và hai cánh tay. Bà cụ tê cóng vì lạnh. Cái áo măng-tô nhỏ thô, mỏng như một tờ giấy, và cũng chẳng làm cho nó ấm hơn. Đôi chân bà cụ bị nước máy tưới vào, nay ướt sũng. Bà cụ đứng dậy, vươn vai, đi khòng khòng do bệnh tê thấp cũ, cố đi về hướng quầy kẹo, hy vọng có thể lấy mảnh bạt ở đó đắp.
Thấy bà cụ đi qua, súc vật gầm gừ, chim chóc nhao nhao. Bà cụ cảm thấy chung quanh mình một cuộc sống không tên mà như sờ mó được, đoán những bộ mặt đang rình mò mình, nhưng lại không trông thấy chúng. Nhiều lúc, ở những khu vực thật tối, những ánh sáng mờ mờ trên trời không len vào được, bà cụ phải đưa hai tay sờ soạng trước mặt để tìm hướng đi. Cuối cùng, bà cụ đã tới được cái xe kẹo. Đầu tiên bà cụ luồn tay xuống tấm bạt xù xì và tháo lấy một gói kẹo. Bà cụ xé giấy bóng bọc và thích thú nhai một vài viên kẹo ngọt. Rồi bà bắt đầu kéo tấm vải bạt, sau khi đã lật một góc lên. Bà cụ bám thật chặt, kéo hết sức, nhưng không thấy động đậy gì. Tạm thời, bà cụ buông ra, ngồi xuống đất và tự bồi dưỡng thêm hai viên kẹo nữa. Bà cụ lại thử một lần nữa. Lần này mang hết sức tuyệt vọng kéo vì bà cụ đã bắt đầu rét run lên. Vô ích! Chắc mảnh vải bạt đã móc chặt vào khung quầy hàng, không thể kéo tuột nó ra được, không thể xé rách nó được. Bà cụ đành thôi và đi tìm một chỗ trú.
Bà cụ đi lung tung khoảng mười phút, cố tìm lại những cái chuồng nhỏ bà đã thấy buổi chiều, chắc là những chuồng nhốt chim muông. Chim sống được là vì được che kín ấm áp. Bà cụ sẽ tìm một chỗ trú nhỏ giữa chim chóc, trong đống rơm. Và khi đã sáng, bà cụ sẽ lại đi lẫn lộn vào những người xem vườn bách thú. Bà cụ loay hoay mãi với một ý nghĩ, nó làm bà cụ phải quay trở lại: nếu muốn ở lại cái nơi thần tiên này thì tuyệt đối không được để dấu vết lại. Nhưng quầy kẹo đã bị lục lọi, phải sắp xếp lại ngay. Bà cụ lập cập chạy tới, thấy đống vải bạt ngay trước mặt, vội kéo để trùm lên quầy kẹo. Ít nhiều bà cũng làm việc đó, lại còn cẩn thận đưa tay quờ quạng trên mặt đất để nhặt những giấy bọc kẹo. Việc này giúp bà trang bị được thêm hai gói hạnh nhân, rồi lại đi về phía buồng chim. Bà cụ nhận ra hướng nhờ một bóng đèn nê-ông đỏ rất lớn ngay trên Chợ Rượu vang. Trước mặt, con đường trải ra, chỉ hơi sáng hơn bóng tối chung quanh một chút, dù sao cũng đủ để bà cụ có thể đi theo, miễn là cẩn thận đi ở giữa đường.
Bà cụ đã đi đến trước các chuồng chim, đưa tay sờ vào thành cổng. Có tất cả độ hai mươi chuồng, xây dọc theo con đường, trên một khoảng dài độ năm mươi mét. Mỗi chuồng có một sân nhỏ, gồm những máng uống nước, mặt ngoài có hàng rào. Ở cuối cái sân, có một nhà rất nhỏ bằng bê-tông, rộng khoảng bốn mét vuông, tường quay mặt ra đường, có một cửa hàng khá lớn, người có thể chui vào được. Bà cụ thất vọng khi thấy các cửa có chấn song đều đóng khóa chốt ngang. Thử mở nhiều cửa, nhưng không được, bà cụ bắt đầu đi soát một lượt tất cả các cửa. Mồm lầu bầu, bà cụ vừa đi từ chuồng nọ sang chuồng kia, vừa nhai hạnh nhân, vừa đưa tay lên sờ soạng những chốt khóa. Chỉ còn lại có ba chuồng nữa và bà cụ đã tính đến cách khác để ngủ nốt đêm được ở chỗ ấm áp thì chợt một cái chốt động đậy giữa hai ngón tay cái và ngón tay trỏ bà cụ. Bà cụ kéo hẳn cái chốt ra, đóng lại sau lưng mình, chạy quanh mảng sân nhỏ và dừng trước cái lỗ đục trên tường.
Bên trong, tối hoàn toàn. Bà cụ thấy động đậy, thấy tiếng rũ lông của những con chim đang ngủ bị đánh thức. Hai tay đưa ra phía trước sờ soạng, bà cụ thận trọng chui vào trong chuồng. Bà cụ thấy ngay sự khác biệt của nhiệt độ, bên trong ấm áp và dễ chịu hơn. Mũi bà cụ ngửi thấy một mùi súc vật lẫn với một mùi là lạ, vừa hắc vừa hơi nhàn nhạt làm bà nhớ lại mùi những người chết mà bà đã thức canh ở Hy Lạp trong làng những đêm tang lễ, mà mùi hương cố chống lại cái mùi đặc biệt không thể quên được của xác chết những người láng giềng. Bà cụ cúi xuống nhặt được vài cọng rơm. Những con chim không động đậy nữa. Chắc chúng đậu trên những dóng trên đầu bà cụ.
Bà cụ Athina yêu chim. Ở quê nhà, có khi bà cụ thuần hóa được những con chim, bằng cách vãi thóc cho chúng ăn ngay trước cửa nhà. Có lần bà cụ đã giữ được một con quạ suốt hai mùa hạ liền. Rồi chẳng hiểu sao, một hôm con quạ biến mất không thấy trở lại nữa.
Bà cụ tựa lưng vào đáy chuồng chim. Bóng tối dày đặc đến nỗi khung cửa chữ nhật bà thấy như sáng rõ hẳn, y như có mật độ khác nhau trong bóng tối. Tờ giấy bọc hạnh nhân gây một tiếng động khủng khiếp giữa cái im lặng sâu thẳm, khi bà bóc nó để lấy ra mấy hạt hạnh nhân. Trên đầu bà, có một cái gì run rẩy. Bà cụ rất muốn tặng một phần bữa ăn của mình cho những chủ nhà không quen biết này. Trời sáng, bà sẽ tặng vậy, khi có thể nhìn rõ và biết chúng là loại chim gì, rồi mới tạm biệt chúng, sau món quà cảm ơn cuối cùng này.
Bà cụ tìm cách nằm cho thoải mái, kéo một nắm rơm làm gối, và ngả lưng xuống. Đôi chân ướt làm bà khó chịu. Bà cụ nhỏm dậy và bắt đầu cởi giày ra, rồi bà cởi bít tất, cuộn tròn lại, chùi cổ chân, các ngón chân. Một lần nữa lại có tiếng rung cánh trên cao. Có lúc, bà cụ định giơ tay lên để ve vuốt bộ lông của những con chim cùng ở một chuồng với bà. Nhưng muốn làm thế thì phải ngồi ngay dậy, mà bà thì lại thấy nằm trên rơm ấm quá, thấy an toàn trong chỗ trú chân này sau những lần phải đi lại suốt ngày lắm chuyện tất tả này.
Bà cụ không thể tưởng tượng rằng có thể tìm thấy ở xa nhà những thứ mà bà yêu thích, những thứ làm bà yêu đời: cỏ cây, thức ăn, nước uống, súc vật. Bà cụ tự hứa sẽ ăn trộm hết quầy kẹo ngày mai.
Cũng có thể một người nào đó đi thăm vườn hiểu được tiếng nói của bà cụ? Lúc ấy bà sẽ kể lại hết những điều người ta đã làm đối với bà, rồi nhờ người đó, đưa quay trở lại nhà.
Người ta bắt cóc bà đi bao nhiêu ngày rồi? Bà cũng chẳng biết nữa. Những thứ thuốc người ta bỏ vào cốc uống khi khát, đã làm bà cụ mất khái niệm về thời gian. Những hành động của bà, đáng lẽ đối với bà phải diễn ra theo thứ tự thời gian, thì lại hiện ra, lúc thì túm tụm, tập trung vào một thời gian bị co ngắn lại hoặc nở phình ra, đầy ắp một vĩnh cửu mà bà cụ biết mình chưa hề trải qua. Tuy vậy bà đã làm rất nhiều việc trong suốt mấy giờ đồng hồ vừa qua, nhiều hơn cả bao nhiêu năm ở quê hương. Những việc khác nhau, ở những nơi khác nhau, đầy những khuôn mặt khác nhau. Những việc quan trọng. Bà cố nhớ lại những điều quan trọng đã diễn ra suốt cuộc đời, nhưng không nhớ được. Nhiều nhất, bà cũng chỉ nhớ lại được những chi tiết bất ngờ, như chuyện con thỏ cái mà bà đã chăm sóc và một cái khăn quàng cổ chồng bà đã tặng, màu đỏ, có họa tiết xanh lá cây và vàng kim nhũ. Chồng bà đã chết chưa nhỉ? Phải, chắc chắn đã chết rồi, nếu không thì ông ta không để cho họ hành động như thế. Còn con cái? Bà cụ cố đếm trên ngón tay xem tất cả có bao nhiêu đứa? Thật là lạ, bà không làm sao nhớ lại được mặt chúng nó, và những tên mình đã dặt cho chúng. Con gái hay con trai? Bà cũng chẳng biết nữa, có lẽ cả gái lẫn trai... quan trọng gì kia chứ? Vừa qua khỏi tuổi ấu thơ là chúng nó bỏ đi, và chẳng ai còn thấy chúng nó nữa, chúng nó chẳng nhắn tin tức gì về, cũng chẳng gửi tiền nong gì về. Socrate! Socrate chẳng bao giờ gửi về cho bà một đồng xu. Nếu bà biết hắn ở đâu, chắc chắn bà sẽ cầu cứu hắn tới đón bà cụ và đưa trở lại nhà. Từ từ, những ý nghĩ của bà cụ chìm đi, không còn nối được mối liên hệ giữa những hình ảnh đang hiện lên với bà nữa.
Có một tiếng động trên đầu, làm cụ thoát khỏi cảnh ngủ ngà ngủ gật. Một tiếng động mạnh không thể ở trong chuồng được, vì những con vật ở trong chuồng quá nhẹ không thể gây ra tiếng động ấy. Bà cụ hé mắt và lắng tai nghe. Đôi mắt bà nhìn chỉ thấy một cái lỗ mờ trên trần, đen kịt tối mò. Tiếng động lại vang lên, như người ta cọ hai miếng kim khí vào nhau. Bà cụ cảm thấy một sự chuyển động rất lớn, và có một vật gì nặng lắm đổ xuống gần bà. Bà ngồi dậy và co rúm sát vào tường, tim đập thùm thụp. Mặc dầu bây giờ đã sợ lắm rồi, bà vẫn dám cử động. Bà cụ từ từ đưa tay ra. Không nói gì hết... Vật đó chắc ở xa hơn.
Bà cụ cố vươn tay ra xa hơn nữa, và bà đã sờ thấy. Đúng là những lông chim, nhưng bám chặt vào một khối chắc nịch, to tướng, một khối không thể là một con chim hết. Bà cụ vội rút tay về. Cùng lúc ấy, một sự chuyển động không khí thứ hai. Tiếng động làm bà cụ bất dậy khỏi ổ như một cái lò xo. Bà cảm thấy cánh tay như bị một vật gì như chỉ bằng kim khí bập phải, một cái kìm nghiến sâu vào thịt bà.
Bà cụ thét lên, thấy một mùi thối phả vào giữa mặt, ghê rợn cảm thấy một vật cứng lướt qua cằm mình, ngược lên sống mũi, đến sát hố mắt, và một con dao găm đâm thẳng tới tận đáy mắt bà. Khoa khoa hai tay, bà cụ muốn chạy ra chỗ cửa tò vò. Nhưng bà không nhìn thấy gì nữa. Con mắt còn nguyên vẹn mờ đi vì một quầng máu. Bà cụ vấp đầu vào tường, muốn kêu thét lên nữa, nhưng đã ngã xuống, ngất đi, còn chút hơi sức cuối cùng cuộn tròn người lại, trong một động tác vô ích để tự vệ và che kín người. Mặc dầu bà cụ đã lấy hai tay che kín mặt, con dao găm vẫn thọc ngoắt vào mắt bà, tìm nốt mắt bên kia, trong lúc một miếng vải liệm sống rất lớn, thối tha, vừa nặng kinh khủng vừa mềm chùm lên người bà trong tiếng vỗ cánh phành phạch. Những cái móc thép cày rạch lên thân thể bà cụ, giật ra từng mảnh thịt.