← Quay lại trang sách

Chương 9

Maria hơi chần chừ trước cửa nhà xác. Dù là y tá đi nữa, người ta cũng không phải là người được miễn dịch trước mọi cảnh tượng. Cô đã thức trắng một đêm, ngồi trên giường, mỗi khi nghe thấy tiếng động lại giật mình thon thót. Cô đợi tiếng chuồng điện thoại trả lời cho câu cô tự hỏi: Bà cụ Athina ở đâu? Theo lời van xin của cô, mãi đến mười giờ tối, Fouillet mới bắt đầu đi truy lùng. Một tiếng đồng hồ sau, khi cảnh sát được báo về chuyện mất tích, Maria tiếp ngay trong phòng một người đàn ông cô chưa gặp bao giờ. Người đó chẳng nói tên họ. Người đó nói với cô:

- Tôi là một trong những cộng tác gần gũi của ông Socrate. Tôi đã báo với ông về chuyện vừa xảy ra. Ông ấy yêu cầu tôi chuyển cho cô điều này: bắt đầu ngay từ bây giờ, tôi sẽ giải quyết việc này. Cô không cần quan tâm đến điều gì nữa.

Maria òa khóc lên. Không một giây nào, cô dám nghi ngờ điều mà người kia vừa nói bằng tiếng Hy Lạp với cô. Thấy cô vẫn khóc, ông ta nói thêm:

- Ông Socrate cũng bảo tôi nói với cô rằng cô hoàn toàn không có điều gì phải tự trách mình hết. Ông ta không hề đổ trách nhiệm cho cô về việc bà mẹ ông ta mất tích. Dù sao, ông ta cũng yêu cầu cô phải hết sức kín đáo khi còn chưa tìm ra bà cụ, không một ai được biết là bà cụ đã trốn đi. Cô hiểu lời tôi nói chứ?

Maria gật đầu. Giữa hai tiếng nấc, cô chỉ biết lúng búng:

- Thật là khủng khiếp... Thật là khủng khiếp...

Người kia gật đầu, nghiêng mình chào từ biệt, nói thêm:

- Cô cứ ở yên đây và đợi lệnh của tôi.

Và đêm thức trắng bắt đầu. Tám giờ sáng, khi cô vừa mới thiu thiu ngủ, thì điện thoại vang lên, Fouillet nói:

- Hai ông cảnh sát sắp lên phòng cô. Cô có muốn tiếp họ không, xin cho biết?

Thế là hai thằng cha tới, họ yêu cầu cô đi theo họ. Maria kêu lên:

- Các ông tìm thấy bà cụ à?

Những vị khách đưa mắt nhìn nhau, và một người giải thích:

- Chúng tôi không dám chắc đây là cụ Socrate. Nhưng cô hiểu cho, chúng tôi phải thẩm tra tất cả. Cách đây một giờ, người ta tìm thấy một bà già trong Vườn Bách thảo. Chết rồi. Cô cần tới nhận diện bà ta.

Maria xin phép họ cho mặc quần áo trong một phút. Cô đã mặc áo choàng trong nhà. Cô vào phòng tắm. Cô thấy mình trong gương thật xấu quá, hai mắt đỏ ngầu, quầng thâm, mặt rộc đi, tóc bơ phờ. Như một cái máy, cô mặc áo, chải qua đầu tóc và thôi không trang điểm.

- Đây ạ. Tôi sẵn sàng rồi.

Ở quảng trường Vendôme, một cái xe không có dấu hiệu gì đặc biệt đang đợi. Xe nổ máy. Maria rụt rè thăm dò:

- Có phải tai nạn không ạ?

Người nói với cô đầu tiên, có lẽ trong hai người chỉ có anh ta biết tiếng Anh, trả lời:

- Vâng... Một tai nạn. Một tai nạn khủng khiếp. Tôi lo cô khó nhận ra bà ta... nếu đúng là bà ta.

Suốt trên đường, họ không nói thêm một câu nào nữa. Maria đợi một điều gì đó rất khủng khiếp. Và bây giờ, đứng trước cửa nhà xác, cô không bước nổi thêm một bước nào nữa. Một người cảnh sát đỡ lấy tay cô. Đến cuối một hành lang, họ vào một thang máy. Thang máy đi sâu xuống mặt đất rất nhiều tầng. Cửa mở ra, một người mặc quần áo trắng đã đứng đó như đợi họ. Ông ta đi trước, theo một hành lang khác, mở một cái cửa và để họ vào. Một căn phòng trần trụi không đồ đạc và họ đứng im chờ. Người mặc áo trắng kéo từ trong tường ra một thứ như cái hộp bút to và dài. Thứ đựng bên trong có vải phủ.

- Xin mời cô lại gần một chút... ở đây đây...

- Can đảm lên nhé. - Người cảnh sát nói.

Người y tá nói thêm:

- Cũng xin nói thêm rằng chẳng dễ coi đâu... Chà! Những đồ đểu cáng ấy chúng nó đã làm bà ta đến khốn khổ!

Lợm giọng, Maria, vẫn được người cảnh sát đỡ, tiến lại phía cái hộp quan tài kia. Bằng một động tác rất nhanh, y tá lật ra một thứ có lẽ là mặt: da vàng như sáp ong, méo mó, như bị kìm giật đứt từng mảng, buông rủ chằng chịt chung quanh hai hố mắt trống rỗng, không có mắt. Cả cơ thể cũng không được tha, đầy vết thương, ở chỗ còn có thịt, vết tím, vết giập nát. Không. Đơn giản là mất hẳn đi, để trơ xương ra. Tuy vậy, cô vẫn biết cái cơ thể bị nát bấy này là của bà cụ Athina. Chính cô đã chải mớ tóc này, đã xát xà phòng vào đôi vai này, đã lau đôi cánh tay này, đã thoa phấn lên bộ mặt nát nhừ mà nay chỉ nhận được qua khung xương mặt. Cô đã cố hết sức làm chậm cái giây phút khốn kiếp này, biết trước được sự khủng khiếp đang chờ cô, và bây giờ cô không thể rời mắt được. Cô thấy có ai đó bấm vào tay:

- Có phải bà ta không?

- Phải, tôi tin là phải...

Cô ngây ngô gật đầu.

- Cô lại đây, chúng tôi sẽ đưa cô xem những quần áo bà ta mặc khi người ta tìm thấy bà ta.

Không đậy tấm vải trên xác chết, người y tá lấy từ ngăn kéo một bọc len...

- Váy... Giầy vải... tất... áo dài... và chuỗi hạt này.

Ba ngày trước, Maria đã đưa chuỗi hạt biếu bà cụ. Cô khẽ vuốt những viên ngọc trai trong tay, lại gật gật lần nữa, không nói một câu nào.

Một người cảnh sát giơ tay ra hiệu cho người y tá:

- Lát nữa nhé.

Cùng với người đồng nghiệp, anh ta kéo Maria đi. Cô cứ để người ta đưa mình đi như một cành rong nước trôi dạt. Giữa lúc bước qua cửa, cô quay lại hỏi người y tá:

- Anh làm gì cho bà cụ thành ra như thế?

Cô nói với y tá bằng tiếng Hy Lạp. Anh ta không hiểu cô nói gì. Lần này bằng tiếng Anh, cô hỏi người cảnh sát:

- Ai làm bà cụ thành ra như thế?

Người kia trả lời:

- Những con chim kền kền!

Mặc dầu thành công rực rỡ, Nhà tiên tri vẫn cứ thấy chua chát. Ông cũng đủ hư hỏng để tự cho mình có được những tình ý cao thượng, trong sạch, quý phái, mặc dù cái phương pháp dùng để làm giàu của ông. Thừa thông minh để không thể thấy nó là phương pháp khả nghi, nhưng ông lại đủ sức chấp nhận những phương tiện ông dùng tới. Do đó dẫn đến cái kết quả là những tình trạng khá mệt, những câu hỏi không được trả lời, những day dứt không nguôi làm ông kiệt sức và khó sống.

Trong khi ông lặn ngụp trong hệ thống ấy, điều làm cho ông tởm nhất là chưa một lần nào, chưa một lần nào hết, ông gặp một người tới xem bói không chỉ nghĩ tới mình! Người ta chưa bao giờ tới gặp ông để đợi ông ban phát những ân huệ của nhà tiên tri cho kẻ khác cả. Khi điều đó xảy ra, thì những người khách vẫn dùng cái “tôi” ít hơn làm điều quy chiếu: “Liệu anh ấy có yêu tôi không? Anh ấy có nghĩ tới tôi không? Ngoài tôi ra, còn ai khác trong đời anh ấy không?” Tôi, tôi, bao giờ cũng là tôi! Đôi khi ông muốn thét lên với họ: “Thế còn tôi thì sao?”. Nhưng, đồng thời, ông thấy ngay điều yêu sách của ông bắt buộc phải nén nó lại, lại đặt ông xuống cùng một hàng với những kẻ kia. Họ tới ông để nói về họ: ông lại mong muốn được nói với họ về ông. Ông cũng y như mọi người và điều đó làm cho ông đau khổ. Nếu ít nhất ông có được một phần mười những điều biết chắc chắn người ta đã gán cho ông! Tất nhiên, ông đang sống được, nhưng đối với ông, điều đó chưa đủ. Ông còn cần phải hiểu sao ông lại sống được kia. Ông có quyền lực đối với một số đông người xa lạ, ấy vậy mà lại không vì thế rút ra được một chút yên ổn trí tuệ nào. Người ta khen ông vì cái điều mà ông từ chối công nhận. Không bao giờ người ta để ông được nói về những vấn đề ông thích cho người ta nghe. Do cái chỗ mập mờ ấy mới nảy sinh ra sự hoang mang của ông.

Mario, người vừa làm lái xe vừa làm hầu phòng cho Nhà tiên tri bước vào phòng làm việc của ông. Anh ta ôm trong tay một cái hòm có đóng đinh nổi, giống hệt những cái hòm của bọn cướp biển đã từng làm ông ước mơ thuở thơ ấu.

- Cái gì thế này.

- Của ông đấy ạ.

- Trong này có những cái gì?

- Thưa ông, tôi không được biết.

- Ai đưa cho anh cái này?

- Một ông ạ.

- Đưa bao giờ?

- Thưa ông, vừa đưa xong. Ông ta ở ngoài cửa.

- Nhưng tôi có hẹn gặp ai đâu?... Thôi, Mario! Anh nói cho rõ đi!

- Thưa ông, ông ta nói với tôi: “Tôi không được ông chủ anh hẹn gặp. Nhưng anh hãy đưa ông chủ anh cái này để ông xem và đề nghị ông tiếp tôi”.

Nhà tiên tri không biết tính sao. Nghi ngờ, ông thoáng tự hỏi không hiểu có phải cái hòm đó chứa một quả mìn không?... Người đời lắm thằng điên... Có khi ông đã hướng dẫn sai cho một bà vợ bị bỏ rơi, và bây giờ lại chịu cơn thịnh nộ của ông chồng chăng? Ai mong cho ông chết nhỉ? Mario đặt cái hòm xuống đất. Anh ta đưa một cái chìa khóa nhỏ cho Nhà tiên tri. Ông cầm lấy, ngần ngại không muốn cho chìa khóa vào lỗ khóa, định nhờ người đầy tớ làm hộ mình; lại thôi không nhờ nữa và khá lo lắng, nhét chìa khóa vào lỗ khóa. Không có tiếng nổ. Nhưng cái mà ông nhìn thấy cũng làm ông choáng váng dữ dội không kém. Ông đóng vội nắp hòm lại và bảo Mario chưa nhìn được trong hòm đựng gì, hãy để ông ở lại một mình trong phòng làm việc. Ông nói thêm:

- Nói với ông ta chịu khó chờ một phút. Tôi sẽ tiếp ông ấy.

Khi ông ta chắc chắn tay đầu sai của mình ra rồi, ông lại mở cái hòm ra. Trong hòm đầy đến tận miệng những đồng tiền vàng. Đây là một kiểu rất hoang đường để tự giới thiệu, nhưng quả không cãi được, kiểu đó rất hữu hiệu! Điều làm ông ngạc nhiên hơn là tấm danh thiếp kèm theo món quà khó cưỡng lại ấy: ông đoán là một người đàn bà, thì lại là một người đàn ông. Danh thiếp chỉ có một dòng tên “Herman Kallenberg”. Phản ứng đầu tiên của Nhà tiên tri là hoảng sợ: chắc là Kallenberg muốn trả thù cái đòn Socrate chơi ông ta. Và đòn ấy, chính Nhà tiên tri Hilaire Kalwozyac này, đã mách nước cho Socrate!

Nhưng chắc người khách có những ý định hòa bình. Khi người ta muốn đấm vỡ mặt một kẻ nào đó, người ta không mang đến nhà kẻ đó một hòm vàng.

Nhà tiên tri quá hiểu con người, nên không thể không biết rằng một món quà đến cỡ đó sẽ kêu gọi một việc phục dịch sắp tới làm thức trao đổi lại cho cân. Việc gì? Ông chợt hài hước tưởng tượng ra mình đang tự bói bài cho mình để đoán ra việc đó. Đơn giản hơn thì chỉ việc mời khách vào để khách tự trình bày yêu cầu của khách. Nhà tiên tri bấm chuông gọi Mario:

- Nhờ anh đưa ông đó tới gặp tôi...

Ba mươi giây sau, Mario đưa ông chủ tàu vào phòng làm việc. Cuộc tiếp xúc thật kỳ lạ. Nhà tiên tri quyết đợi cho Kallenberg nói trước. Còn Kallenberg đã thề sẽ không nói một lời nào khi kẻ kia chưa nói gì. Thế là hai người biến thành câm, đứng bên một cái hòm. Vì thời gian của sự im lặng ấy đã đè trĩu lên Nhà tiên tri, ông đành nhường bước. Cáu vì phải nhường bước, ông hơi dữ dội một chút:

- Thưa ông, ông tới nhà tôi quả thật quý hóa lắm... (chỉ vào cái hòm) nhưng... tôi chưa rõ... tôi không hiểu... Tôi không phải ngân hàng.

Kallenberg nở một nụ cười và đưa tay ra, tiến tới:

- Thưa ông, vì nghe nói quá nhiều về ông, nên tôi muốn được làm quen với ông. Tôi tên là Kallenberg. Tôi làm nghề chủ tàu.

Đến lượt Nhà tiên tri không thể không mỉm cười. Người ta định trình diễn cái trò gì với ông đây? Ở bất cứ nước nào trên thế giới, thằng đi nhặt cứt bò hạng bét nhất cũng biết đến tên tuổi Kallenberg. Cái tên ấy cùng với tên Socrate đã thành chữ đồng nghĩa với giàu có. Nhà tiên tri ngạc nhiên, đợi người kia nói tiếp, vẫn tươi cười, Kallenberg hỏi ông:

- Tôi ngồi xuống được chứ?

Kallenberg ngồi xuống. Lại một sự im lặng.

Nhà tiên tri bắt đầu:

- Xin ông cho tôi được biết?

Kallenberg quan sát ông ta. Mặt Kallenberg đầy vẻ thật thà, tỏ ra thiện cảm và ranh mãnh. Kallenberg chỉ cái hòm:

- Ông nói về chuyện này chăng? Có gì đâu. Xin cứ đặt nó vào phận tôi, vị thuật sĩ dẫn đường tới Chúa...

- Nhưng tôi đâu phải Đức Chúa Hài đồng?

- Không, không phải, nhưng cứ coi như tôi thích thú được tặng món quà mọn này.

- Xin ông thứ lỗi, nhưng tôi chưa rõ lý do của món quà này.

Lý do thì Nhà tiên tri bắt đầu thấy rồi. Ông đã định thần lại và có ý đồ muốn được một phút vui. Ông không thể giữ số vàng này được, thì tiếc thay! Ông nói tiếp:

- Tất nhiên, tôi không thể nhận được rồi.

- Nếu thế, xin ông hãy bố thí cho những kẻ khó của ông. Cái gì tôi đã cho đi thì phải coi như là cho rồi.

- Xin cảm phiền, nhưng khi tôi nhận món quà, tôi muốn được biết những lý do người muốn tặng quà cho tôi.

- Quà? Ông vừa nói quà? Không đúng rồi đấy ạ.

- Chính ông đã dùng chữ ấy.

- Nếu thế thì tôi sai! Đáng lẽ tôi phải dùng từ: tiền trả công.

- Tiền trả công cái gì kia ạ?

- Tôi muốn nhờ ông xem hộ một quẻ bói bài.

- Chuyện đó không đắt tới ngần ấy đâu...

- Xin cho phép tôi tự định giá công việc mà tôi nhờ ông.

- Việc gì ạ?

- Việc bói bài.

- Ông muốn biết những gì ạ?

- Điều đó chính ông sẽ nói cho tôi biết.

- Thưa ông Kallenberg, ông đến thăm tôi là rất vinh dự. Nhưng xin thú thật, tôi chưa được hiểu ông. Ông ra mắt bằng một hòm vàng. Một điều không cần thiết. Vì dù thế nào, được tiếp ông, tôi đã vui lắm rồi. Thưa ông trong... trong nghề của tôi, hàng ngày nhiều người tới gặp tôi để trình bày những vấn đề của họ. Tôi đều cố gắng hết sức giúp đỡ họ. Vậy thì, nếu ông đồng ý, tôi xin phép đặt câu hỏi: Vấn đề của ông là vấn đề gì?

- Một vấn đề gia đình.

- Tôi xin nghe.

- Ông có thể nói ngay như vậy ư? Không cần bài để nói hay sao?

- Thưa ông Kallenberg, những con bài chỉ là một trong những thứ phù trợ cho thuật tiên tri của tôi thôi. Nhưng những con bài không thể nói suông được.

- Để tôi giải thích. Việc kinh doanh của tôi đã phát triển tới mức vượt quá sức tôi. Chung quanh tôi có rất nhiều người, nhưng tôi lại là một kẻ cô đơn. Khắp mọi nơi, tôi đều thấy bằng chứng là những lời khuyến cáo tâm lý của ông đã thành phép lạ. Tôi muốn được hưởng những cái đó. Liệu ông có cho tôi được phép đứng trong số khách hàng của ông không?

- Ai đã nói với ông về tôi?

- Dư luận. Mọi người đều biết ông.

- Nhưng cụ thể là ai kia chứ?

- Một người rất gần gũi tôi.

- Ai?

- Vợ tôi.

- Và ai đã nói với bà ấy về tôi?

- Cô em gái. Bà Lena Satrapoulos, vợ ông Socrate.

- Thế mà tôi nhớ rằng chưa bao giờ tôi được tiếp bà ấy như khách hàng.

- Ông chưa tiếp Lena, nhưng có thể tiếp chồng cô ta.

- Thật ư?

Kallenberg hơi nhăn mặt, nửa vui, nửa buồn, và đưa hai tay ra để làm dịu tình hình:

- Ông Kalwozyac... Xin ông hạ vũ khí một chút có được không nhỉ?

Nhà tiên tri có cảm giác rất khó chịu là toàn bộ máu từ khắp bộ phận trong người ông dồn lên đầu. Và số máu ấy sắp thoát ra ngoài người ông ta bằng mũi, bằng tai, bằng miệng, và ngay cả bằng óc nữa: tại sao thằng cha này lại biết tên tuổi thật của mình? Ông nuốt nước bọt và cố định thần một cách vụng về:

- Ông vừa nói cái tên nào nhỉ?

- Kalwozyac. Hilaire Kalwozyac. Sao kia, không phải tên ông à. Khi tôi phải điều tra về con người mà tôi muốn trao cho biết bao điều bí mật, chuyện đó có gì đáng ngạc nhiên? Ông cũng thừa hiểu rằng tôi không thể nói những chuyện tuyệt đối cá nhân với bất cứ ai.

- Tôi hiểu... - Nhà tiên tri chua chát nói.

Ông rất bực tức vì đã bị phát giác, vì thấy sống lại con người rách rưới và phiền toái mà ông muốn đào sâu chôn chặt. Ông thấy bị lột trần khỏi cái vỏ cứng của nhà tiên tri để trở lại thế giới lạnh lùng và chẳng nên thơ tí nào của hộ tịch: tương lai chẳng là cái gì hết, tương lai không hề có. Nhưng dĩ vãng... Ông quyết định quay trở lại rất nhanh cái địa bàn mà ông có thể giành được ưu thế ở đó:

- Thôi được, như ông mong muốn, chúng ta bắt đầu dạo một vòng đủ hết các chân trời! Thưa ông Kallenberg, tôi xin nghe...

- Tôi đã nói với ông, tôi là một người cô đơn. Tôi cần một bạn đồng minh để nói hết những tâm tư. Và tôi mong đợi những lời khuyên bảo trở lại.

- Những lời khuyên trên lĩnh vực nào?

- Kinh doanh.

Nhà tiên tri nở một nụ cười lập lờ:

- Vẫn cứ theo cái dư luận mà ông đã nói với tôi hồi nãy, tôi tưởng việc kinh doanh của ông phát đạt lắm...

- Ồ, nếu ông biết rõ! Không có một đạo nghĩa nào che chở cho chúng tôi. Mỗi khi thành công đều vấp phải lòng đố kỵ và mọi trò ti tiện của đối thủ. Đòn nào cũng được phép dùng hết!

- Thưa ông Kallenberg, xin ông giải thích rõ cho. Ông có định ám chỉ đến một chuyện gì chính xác không?

- Có và không. Nhưng sự hằn thù có thể biểu hiện dưới bao hình thức...

- Người ta đã làm gì ông?

- Người ta định phá hoại công cuộc kinh doanh của tôi, hạ uy tín tôi.

- “Người ta” là ai?

- Những kẻ cạnh tranh với tôi.

- Thưa ông Kallenberg, tôi đoán rằng ông cũng sử dụng cái quyền có đi có lại chứ?

- Thật tình, điều đó tôi cũng làm, tất nhiên. Nhưng ông thấy đấy, đó là những phương pháp tôi không thích, chúng làm tôi mệt quá. Nếu như người ta không phải huy động đến ngần ấy lực lượng cốt chỉ để tự vệ và tự che chở, thì người ta còn làm được biết bao nhiêu việc to lớn!

- Ông có thể nói rõ thêm các chi tiết không?

- Đối với tôi thật khó. Quả thật, khi tới ông, tôi nghĩ rằng ông có thể làm hộ tôi.

- Ông ở cung Bạch dương tinh phải không?

Kallenberg ngừng một chút, rõ ràng rất ngạc nhiên:

- Sao ông biết?

- Nếu như tôi không biết cái điều sờ sờ như vậy thì tôi có quyền tự hỏi là ông đến đây làm gì kia chứ. Nếu ông muốn, ta có thể ra cái bàn tiên tri của tôi.

Kalwozyac đứng dậy, mời người khách cùng làm như vậy. Cả hai ngồi xuống, đối diện nhau. Nhà tiên tri ngước mắt nhìn “Con yêu râu xanh”.

- Ông bắt đầu bằng chuyện gì trước?

Kallenberg khoát tay không trả lời...

- Tuyệt! Xin ông cứ để tôi làm. Khi tới đây ông có nói với tôi về một chuyện gia đình. Có lẽ là vợ ông chăng?

Kallenberg đưa mắt sắc sảo nhìn kẻ đối diện:

- Ông chắc chắn rằng tôi nói với ông như thế ư?

- Tôi còn nhớ rất rõ. Tôi hỏi ông: “Ông có vấn đề gì?”. Ông đã trả lời tôi: “Một vấn đề gia đình”.

Đối với Kallenberg, giây phút chủ yếu đã tới. Hoặc ông phải rút lui, hoặc ông phải đặt lòng tin ở cái tên thầy vườn này. Và hắn lập tức sẽ đi báo với Socrate về việc ông đến đây. Để biết chắc chắn ông sẽ không bị phản bội, thì ông sẽ phải mất bao nhiêu tiền? Và hắn ta cứ lấy tiền và lại lợi dụng những lời thổ lộ tâm can của ông, đi nói lại với Socrate? Làm sao biết được hắn ta muốn giàu có đến mức nào, và bắt đầu từ số tiền là bao nhiêu thì có thể tin được hắn? Kallenberg không dám tiến quá xa lẫn tiến quá nhanh. Ông không cần phải cố gắng lắm mới có thể tạo được cái vẻ lúng túng:

- Chuyện này tế nhị lắm! Tôi thật đau lòng nhận thấy rằng những tình cảm gia đình bị xóa nhòa đi, khi những quyền lợi lớn chọi nhau.

- Xin cứ tiếp...

- Ông thấy đấy, tôi cứ tưởng ông em cột chèo của tôi có thể cộng tác với chính bản thân tôi...

- Sao nữa?...

- Tôi hy vọng tình cảm gia đình sẽ thắng sĩ diện cá nhân.

- Tôi vẫn nghe đây...

- Và tôi đã thất vọng.

Im lặng đè nặng. Nhà tiên tri lơ đãng vuốt vuốt những cạnh mạ vàng của các con bài. Kallenberg đăm đăm nhìn cảnh vật bên ngoài. Những quả đồi thoai thoải màu xanh non điểm màu xanh đen của những cây trắc bá diệp, dải ngọc thạch của cái vịnh ở đó nước không sâu, màu xanh mãnh liệt của biển xa, được màu xanh dịu hơn, mờ hơn của bầu trời đang chìm vào đó làm nhẹ đi. “Con yêu râu xanh” nói tiếp, mắt vẫn đăm đăm vào khoảng không gian vô tận:

- Tôi làm sao nói được với ông những lo lắng của tôi? Phần lớn những cái đó do một người gây ra. Mà người đó lại được ông cố vấn cho rồi...

Nhà tiên tri lại tiếp tục đùa với những quân bài, đợi những lời tiếp theo. Chúng đến ngay:

- Tôi tự đặt mình vào địa vị của ông. Tôi rất hiểu rằng ông chỉ có thể góp những ý kiến của ông cho bên này hoặc bên kia. Suy đến cùng, quả thực tôi chưa tính toán kỹ khi đến gặp ông. Tôi chưa nghĩ đến chỗ đề nghị của tôi lại lụy ông tới chỗ phải có một sự chọn lựa mà tôi không thể ép ông làm được, vì ông đã chọn lựa rồi. Và tôi đoán rằng ông khá coi thường những của cải vật chất, nên không lung lay trước sự cám dỗ của chúng.

Không đừng được, thoáng trong một giây, mắt ông liếc trộm vào cái hòm vẫn đặt ở giữa bàn giấy.

- Ông nói sao kia ạ?

- Tôi muốn nói không giá nào có thể mua nổi một con người có giá trị như ông. Về phần tôi, tôi sẽ làm bất cứ việc gì để ông làm việc cho tôi.

- Bất cứ điều gì nghĩa là thế nào?

- Ví dụ, đáng lẽ trả công những lời khuyên của ông, như trả công thợ cắt tóc, thợ sửa xe hơi, hoặc giám đốc một công ty của tôi, tôi sẽ chia lãi cho ông trong từng công việc kinh doanh nhờ ông mà tôi làm ăn được.

- Tôi nghĩ rằng ông đã gán cho tôi quá nhiều quyền lực.

- Không đâu, không đâu... Những hợp đồng tôi đã ký kết có tới hàng triệu đô-la. Tôi ước tính một sự chia lãi độ... đại khái một phần trăm của những số tiền ấy, có thể là một sự đền bù thích đáng.

Nhà tiên tri vẫn yên lặng như gỗ.

- Hai phần trăm!...

- Thưa ông Kallenberg, tôi không phải những kẻ bán thảm ở chợ. Tôi là một loại cố vấn tâm lý. Một thầy bói, nhưng không phải một tên mật thám. Trong điều kiện không vi phạm vào bí mật nhà nghề, mà điều này là khuôn vàng thước ngọc đối với tôi, tôi sẵn sàng tiếp ông bất cứ lúc nào ông muốn. Và xin chấp nhận ba phần trăm ông vừa nói về những công việc làm ăn nhờ tôi ông thực hiện được.

- Tôi vừa nói ba phần trăm ư?

- Hình như tôi vừa nghe cụ thể ông có nói như thế. Ít nhất, tôi cũng chắc chắn đã nghe thấy thế.

Kallenberg khen thầm. Ông không tin tướng số thần linh, nhưng ông tin ở con người. Và tên này rõ ràng là xảo quyệt và ranh mãnh. Ông cười:

- Bởi ông nghe được như vậy. Mà tôi lại không nhận là đã nói ra thì tôi là người thô tục. Thôi được... ba phần trăm.

- Như vậy, chúng ta thỏa thuận với nhau. Tất nhiên ông sẽ mang hòm vàng này về...

- Chuyện ấy không thành vấn đề. Ông làm ơn nhận cho tôi mấy đồng tiền ấy. Và hãy coi đó là món tạm ứng của những món lãi đầu tiên của chúng ta.

- Nhìn theo khía cạnh ấy thì... xin tùy ông.

Nhà tiên tri cảm thấy một luồng phấn hứng tràn ngập trong người.

- Ta bắt đầu vào những chuyện đúng đắn chứ? Ông muốn biết những gì?

Kallenberg cúi xuống vẻ tham lam:

- Có một người... không tính tới chuyện hắn ta có liên quan tới tôi, hoặc ngay là người trong gia đình tôi nữa... tôi không muốn làm vướng ông trong những lời tiên tri của ông. Tóm lại, tôi muốn ông nói cho tôi biết... những con bài nói cho tôi biết... hắn ta đã làm thế nào để tôi hỏng ăn một cái hợp đồng ngon nhất đời tôi...

Lần này thì cái trò hề kính cẩn nhau do cả hai bên vừa diễn ra dứt khoát kết thúc. Kallenberg căng thẳng, điên rồ hy vọng, thừa biết rất rõ nếu Kalwozyac nhận đứng sang hàng ngũ mình, thì Socrate sẽ bị đi đứt: bao giờ thì cũng chỉ là người thân phản bội mình thôi. Có lẽ vì thẹn thùng, Nhà tiên tri vẫn tiếp tục chơi trò giả ngây giả điếc:

- Nói chung, thường người ta chỉ yêu cầu tôi tiên đoán tương lai, chứ không ai muốn nói về dĩ vãng. Nhưng tôi cũng thử cố gắng để ăn mừng cuộc gặp gỡ của chúng ta. Nào, người mà ông vừa nói, kẻ... cạnh tranh với ông... Người ấy như thế nào? Ông hãy tả cho tôi nghe và cho tôi biết các chi tiết...

Và ông bày bài ra. Lúc đó, Kallenberg biết rằng mình đã thắng...

Mặc dù quyền lực của ông, Socrate vẫn phải tuân theo một số thủ tục khó chịu và không thể tránh được đối với chính quyền những nước mà máy bay của ông ta hạ cánh xuống. Ví dụ, những phi công của ông, trong khi bay, phải báo bằng vô tuyến điện số lượng và tên tuổi những hành khách của họ chở trên máy bay. Ở sân bay Buốc-giê, theo thủ tục hành chính, một viên chức đã chuyển về Cục tình báo Trung ương Pháp tin một ông Hadj Thami el-Sadek nào đó, đi từ xứ Baran, sắp đặt chân xuống Paris. Một số cán bộ tình báo lập tức báo ngay cho Bộ Ngoại giao. Và Bộ này trả lời ngay tức khắc: có thể có sự nhầm lẫn về tên tuổi. Mặc dầu đã có nhiều lời mời chính thức từ lâu, vị tiểu vương xứ Baran vẫn từ chối. Nếu nay những lời mời ngoại giao của chính phủ mà còn làm ông ta không động đậy, thì chắc chắn ông ta không thể chiều theo ý một tư nhân dù kẻ đó là tỉ phú như Satrapoulos đi nữa.

Dù sao, người ta cũng kiểm tra. Sau rất nhiều cú điện thoại, người ta cũng chắc chắn rằng người Ả Rập đang bay ấy chính là tiểu vương xứ Baran. Khi cái cảm giác chua chát qua đi, thì là đến sự hoảng hốt. Trong lúc các thư ký thứ nhì cố tìm Socrate để hỏi thêm tin tức, người ta báo ngay cho Thủ tướng, hiện đang thăm viếng xã giao ở Liban. Ông ta chỉ nói ngắn và mạnh:

- Các ông muốn làm gì thì cứ làm, nhưng phải làm được một cái gì đó! Đừng có bỏ lỡ cơ hội này! Đừng quên rằng Trung Cận Đông là trụ cột đường lối chính trị của chúng ta hiện nay!

Mọi nơi, mọi chỗ đều bấn lên, khó xử ở vấn đề lễ tân. Làm thế nào để tỏ cảm tình với một Quốc vương không báo trước cuộc viếng thăm của ông ta, mà lại không ra vẻ xâm phạm đến những việc riêng tư của ông ta? Bộ trưởng Bộ Ngoại giao được hỏi để làm trọng tài và quyết định đã giải quyết vấn đề với một sự táo bạo ít nhất cũng lớn như nỗi phân vân của ông ta. Vờ như ngẫu nhiên, cứ cử ra sân bay Buốc-giê một đơn vị danh dự vệ binh Cộng hòa; và cũng như ngẫu nhiên, ông Bộ trưởng Bộ Văn hóa sẽ có mặt ở đó “với tính cách cá nhân”.

Như thế là đã bố trí đối phó xong. Trong thời gian đó, người ta đã liên lạc bằng điện thoại được với Socrate. Đang đi trong xe, trên đường tới sân bay, chợt ông chủ tàu thấy ngài Đổng lý văn phòng Phủ Thủ tướng gọi. Socrate đã có những dự kiến rất chính xác và rất bí mật cho vị khách của ông, nên rất kinh ngạc khi thấy tin vị khách tới Paris đã lan truyền ra nhanh đến thế. Nuốt giận, ông dùng cái giọng thật ngọt ngào để trả lời kẻ khốn khổ phá cuộc vui kia. Ông nói rằng việc tiểu vương tới đây là tuyệt đối riêng tư. Và nếu như chính Socrate này mà không mong muốn như vậy thì đích thân Socrate sẽ là người đầu tiên báo cho chính phủ biết ngay. Không thể chịu đựng hơn nữa, cảm thấy mình sắp vì nổi giận mà có thể nói ra những điều sau này khó sửa, ông khó chịu cắt máy điện thoại.

Ông tức lộn ruột thấy ở trước cổng danh dự của sân bay, những thằng ngu ngốc đang trải một tấm thảm đỏ. Trong lúc đó, những con rối mặc lễ phục đang dàn thành hai hàng danh dự. Ông nhảy từ trên xe xuống, chạy tuột vào một cái cửa dùng cho nhân viên. Cửa này một số chủ các máy bay tư được phép đi lại tự do. Ông vào một phòng khách nhỏ dùng để gọi điện thoại và gọi và hỏi giờ hạ cánh chính xác của máy bay. Người ta trả lời rằng máy bay đã được báo để hạ cánh. Chuyện cấp tốc đó có nghĩa là nếu ông hành động sai một chút xíu thôi, thì mọi dự định của ông sẽ hỏng hết. Bực bội đến cao độ, ông đã cắn một cái đứt gần nửa điếu xì gà ông sắp châm hút. Ông đi đi lại lại mọi hướng trong căn phòng nhỏ, luôn luôn đưa mắt nhìn đồng hồ đeo tay và đường bay. Họ dây vào chuyện này làm gì nhỉ? Tại sao họ không để mình được yên?

Không thể chịu được nữa, ông ra khỏi văn phòng và đi ra sân bay đón khách tới. Xe hơi của ông đợi ông ngoài cửa. Ông leo lên xe, và vừa ngồi xuống thì nhìn thấy chiếc máy bay của ông hạ cánh.

- Đi nhanh lại phía đó! - Ông nói với người lái xe.

Niki sang số và đi về phía cuối đường bay. Chiếc máy bay vừa dừng lại. Từ trên máy bay bước xuống hai người khổng lồ da sạm nắng, ăn mặc theo kiểu châu Âu. Họ đưa mắt nghi ngờ dò xét chung quanh như một vụ mưu sát sắp sửa được tiến hành nhằm vào chủ của họ. Rồi vị tiểu vương xuất hiện, thân hình bọc trong một tấm áo dân tộc rất rộng, một cái khăn quấn trên đầu, đôi kính đen to tướng che mắt. Socrate vội chạy tới để ôm hôn ông ta. Trong khi đưa ông ta ra chiếc Rolls, Socrate nói rất ngắn báo cho ông ta biết chính phủ Pháp chuẩn bị một cuộc đón tiếp nhỏ để đón ông. Vị tiểu vương có vẻ không bằng lòng, điều Socrate cầm chắc. El-Sadek nói nhỏ vào tai ông:

- Tôi không cần tới các ban đón tiếp ấy. Thần dân của tôi và các vị hoàng gia khác không nên biết là tôi đã tới Pháp. Tại sao lại lộ bí mật chuyện này?

- Thưa Đức Ông, cơ quan tình báo. Chính phủ Pháp muốn đề cao uy tín của Đức Ông.

- Vụng về đến thế là cùng.

Socrate tỏ vẻ buồn phiền, bất lực, rồi ông ta ra vẻ đồng lõa, nói:

- Chúng ta sẽ cố gắng bỏ rơi họ.

Khốn thay, xe lại phải đi qua cổng ra vào, đó là lối độc nhất để ra khỏi sân bay. Socrate nói với người lái xe:

- Anh sẽ đi rất chậm như chúng ta sắp dừng lại. Khi anh tới trước mặt những người lính cưỡi ngựa kia, thì vọt luôn! Dấn mạnh ga vào!

Niki gật đầu tỏ ra anh rất hiểu rõ. Khi ra khỏi góc tường, anh ta nhìn thấy những người Cộng hòa vệ binh và người chỉ huy của họ, đứng hơi xa một chút, cũng trên mình ngựa, có vẻ do dự. Và trước cổng, một nhóm người mặc thường phục có vẻ hơi buồn rầu vì quy củ mực thước nên chắc chắn là các đại diện chính quyền. Người chỉ huy kỵ binh, cùng lúc ấy nhìn thấy cái xe.

- Gươm tuốt trần! - Ông ta hô lên.

Các binh sĩ tuân theo lệnh ấy. Vị tiểu vương ngồi sâu vào đệm xe và quay mặt đi. Đúng theo yêu cầu của ông chủ, Niki nhấn mạnh ga. Anh ta quá sung sướng tuân theo một lệnh ngược lại với mọi nguyên tắc của Socrate: Socrate rất ghét kiểu thay đổi tốc độ đột ngột, và nói chung, ghét những động tác không mềm mại, trơn tru. Chiếc xe chồm hẳn lên. Khi chiếc xe lướt như gió ra khỏi sân, Socrate đưa mắt nhìn qua sau kính hậu. Ông thấy những con rối mặc quần áo đen cuống quýt loạn xạ, khoa chân múa tay gọi nhau, trong lúc viên sĩ quan cho binh lính của ông ta tan hàng. Những con ngựa vướng chân vào những hành lý đang không ngừng xếp đống dưới chân chúng, làm khổ cho những người dắt chúng. Socrate không thể không mỉm cười. Sao chúng nó có vẻ nghệt đến thế!

Hadj Thami el-Sadek đang phát triển một học thuyết do chính ông ta đề ra:

- Trong loại sâm banh hồng, thì hiệu Cliquot 1929 là có chất hơn cả. Trái lại, tôi xin biếu ông tất cả các loại Calon-Ségura để đối lấy một chai Romanée-Conti vào năm được mùa nhất.

Socrate ngớ người ra trước vị khách trình bày những hiểu biết về tửu học của ông ta.

- Thưa Đức Ông, tôi thật không ngờ Đức Ông lại hiểu biết về rượu vang Pháp hơn tôi.

- Bởi vì ông là người Hy Lạp... - Tiểu vương ranh mãnh trả lời. Và ông ta nói thêm:

- Tôi biết câu hỏi đang đốt cháy môi ông: Tại sao một người theo đạo Hồi lại có thể vi phạm Kinh Thánh Cô-ran, mà uống rượu.

Socrate giơ hai bàn tay lên tỏ ý đâu dám có ý nghĩ như thế.

- Thôi đi! Thôi đi! - Tiểu vương nghịch ngợm nói - Vậy thì tôi xin trả lời ông, mặc dù ông tự cấm ông không được đặt vấn đề ấy ra. Kinh Cô-ran còn tinh tế hơn Kinh thánh nhiều. Chúng tôi có thể cho phép chúng tôi sống theo lắm sở thích riêng mà không phạm tội chết. Và những thời gian còn lại thì chúng tôi lại sống đạo đức. Vị Tiên tri [1] hiểu quá rõ bản chất con người để không áp đặt cho họ những luật lệ ngược lại với những xu hướng bẩm sinh của họ. Vì vậy trong Kinh bản đáng kính có viết: “Không kẻ nào được uống rượu giữa lúc mặt trời mọc và mặt trời lặn”. Ông cũng đồng ý với chúng tôi rằng giờ giấc rõ ràng như thế là đã để cho chúng tôi một khoảng cách an toàn nào đó chứ?

Nói xong, ông ta lại nốc thêm một ly sâm-banh. Socrate chưa bao giờ dám tưởng rằng người ta có thể uống đến ngần ấy rượu, mà không say bò ra dưới gầm bàn. Socrate hoàn toàn kinh ngạc về thái độ của vị khách. Ở Baran, ông gặp một ông già đa nghi, khổ hạnh, gần như cau có ác cảm. Và ở nhà ông tại Paris, thì ông lại ăn cơm với một người vui vẻ, hoạt bát có kiến thức. May mắn thay! Vì đầu buổi tối, thấy El-Sadek xuất hiện trong bộ thường phục xấu xí, rõ ràng là hàng may sẵn, ở sườn thì rộng lùng thùng, dưới vai lại lõm vào, ông ta khó chịu vô cùng, có cảm tưởng đã mời một người Bắc Phi gầy và diện quần áo Chủ nhật đến dự tiệc. Rồi vị tiểu vương lên tiếng và phép lạ xuất hiện:

Người ta bắt đầu ăn món vịt hầm tiết. Và Socrate không thể đừng nghĩ rằng ông không phải ở trong lâu đài của ông ở Đại lộ Foch mà là đang xem trò nhảy múa rẻ tiền ở một hộp đêm nặng mùi Paris. Ngoài những bếp trưởng hầu bữa ăn và duy chỉ có họ là có vẻ đúng chỗ của họ, các vị khách đều như đang chửi lại những đồ đạc quý giá, những bức danh họa, những tấm bình phong sơn mài, và những bộ sưu tập bằng ngà và pha lê trắng đục; những cô gái trẻ, tóc vàng hết cả lũ, và đã say. Nhờ tay thư ký riêng của ông ở Paris, Socrate đã thuê những cô gái ấy ở một hãng chuyên cung cấp gái điếm đến tận nhà. Ở Paris, mọi người đều nhờ đến sự giúp đỡ của bà Julienne, tùy theo việc cần giải trí ở nhà mình cho một ông vua da đen thăm viếng, hoặc các kỹ nghệ gia xứ Flamand tới ký hợp đồng, hoặc các nhà chính trị mệt nhọc bởi các cuộc hội nghị quốc tế kéo dài vô tận, hoặc ngày cả những bạn thân của mình. Các vị khách chẳng biết quái gì về chuyện bên trong cả: người chủ tiếp khách ngay tại nhà mình, các vị khách ở đó nhiều đàn bà đẹp được giới thiệu như những quan hệ xã giao. Đây, Birgitta, con gái ngài lãnh sự Phần Lan; bố cô Nadia là một nhà nhập cảng bông cỡ lớn, v.v...

Thế là vị khách sau khi cuỗm cô gái nõn nà đi, cứ yên trí rằng mình đắc thắng là nhờ chính cái duyên dáng không ai cưỡng lại nổi của mình. Thật ra vị khách đó chỉ làm tình với một gái điếm cao cấp, do nhà chủ thuê để chiều sở thích của khách.

Socrate băn khoăn trong việc lựa chọn con ngựa cái non ấy. Không biết sở thích của tiểu vương về món ấy, ông đã dựa theo luật mâu thuẫn: người phương Đông thích các cô tóc vàng, người Thụy Điển say các cô Địa Trung Hải. Và dựa theo số lượng. Ông tin rằng ông đã đoán trúng El-Sadek là một người quái ác, và ông đã báo trước cho bà Julienne rằng các cô nhân viên của bà có lẽ sẽ phải chịu vất vả trong cái đêm đang chờ đợi các cô. Vừa hơi kiêu kỳ vừa hơi nanh nọc, mụ chủ nhà chứa đã trả lời rằng những cô gái của mụ ta gửi tới có thể làm “bất cứ trò gì”. Mụ ta nhấn mạnh câu “bất cứ trò gì”, miễn là được trả tiền theo đúng giá trị của họ. Mụ ta còn nói thêm bằng một giọng thách thức: “Sáu cô gái trẻ ấy có thể làm mệt nhoài một trung đoàn lính lê dương thiếu đàn bà hàng tháng ròng”.

Lúc này thì các cô đang rúc rích, chưa biết khách hàng của họ là anh chàng nhỏ người đeo kính kia hay anh chàng thợ đào đất người Ả Rập, hoặc cả hai cùng một lúc. Kinh nghiệm đã cho các cô biết người ta không thể vừa nốc ngần ấy rượu lại vừa tài ba được ở trong phòng ngủ. Có lẽ chắc chắn rằng người ta sẽ cho các cô trở về đi ngủ sớm, và các cô có thể yên lành trở về nhà. Bà Julienne đã dặn dò các cô kỹ lưỡng là phải phục tùng tuyệt đối. Bà ta còn nói rõ thêm các cô sẽ được thưởng tùy theo sự cố gắng của các cô trong việc “giúp vui” đêm đó. Cô nào sẽ được chọn? Các cô đã nhanh chóng truyền cho nhau rằng nhiều cô đã nhận ra ngài Socrate nổi tiếng, điều chẳng hề làm các cô có cảm giác gì. Vì trong việc hành nghề, các cô đã gặp khối các Đức Ông, các Bộ trưởng, các Quốc trưởng, các nhà tỷ phú và nhiều quái kiệt khác nữa: những nhân vật tạo lập ra thế giới mà khi nằm trong giường thì hốt hoảng như những đứa trẻ con hoặc hư đốn không thể tưởng tượng được. Tất cả những cái đó đều do một nguyên nhân: đó là sự sợ hãi vô cùng người đàn bà.

Những trò quái dị không còn làm họ ngạc nhiên nữa. Và bà Julienne, trong các buổi tọa đàm nửa bạn bè, nửa sư phạm, đã kể lại một cách âu yếm như bà mẹ kể lại cái thời đẹp đẽ kia. Bà ta dẫn ra trường hợp một vị độc tài to béo cả thế giới đều biết. Ông ta thích trò chơi là trải lên một tấm thảm quý, phết đầy cứt của ông ta lên những viên ngọc quý mà các cô gái đến hầu hạ hai tay bị trói sau lưng, nếu muốn lấy chúng thì phải lấy bằng răng. Và bà Julienne, người có ý thức khá sắc nhọn về ví von và trách nhiệm, không bao giờ không kết luận:

- Kết quả ngang giá với cách làm. Nếu quả thật các bạn muốn có tiền, thì đừng có ngần ngại đi lấy tiền ở chỗ để tiền, và lấy theo đúng cách người ta chỉ dẫn. Các cô không đếm xuể những vị vua chúa các cô đã phải đánh bằng roi; các vị tướng van xin các cô dùng roi da quật họ trong khi họ trần truồng đứng nghiêm trước mặt các cô; những vị cầm đầu các ngành công nghiệp, rất đáng sợ và mọi người sợ, mà các cô nhổ vào mặt sau khi đã khạc kỹ cổ họng; chưa kể các nhà tài phiệt chỉ cần nheo mắt là thị trường chứng khoán run lên cầm cập, mà các cô phải đái tè tè lên người thì họ mới thấy cảm giác. Lối mòn cũ rích thôi... Đôi khi một máy bay đặc biệt tới đón một trong các cô tới chỉ cho một đêm trong lâu đài ở Trung Cận Đông. Người được chọn trở về kiêu hãnh, đeo đầy đồ nữ trang, đầy vết thâm tím và quà tặng. Các cô biết những người ấy chi tiền một cách dễ dàng cho những khoái cảm của họ, những kẻ đẻ ra đã sẵn tiền mà chẳng cần làm một cái gì để được đồng tiền ấy hoặc xứng đáng với đồng tiền ấy. Và ở nơi ấy, cái cơ thể đã chai lì của các cô có khi đã rung động vì những cảnh tượng ở phương Tây không thể nào nghĩ ra được. Nadia kể lại một vị Hoàng tử Hồi giáo đã làm tình đứng với cô ta, bằng hậu môn, trước một cửa sổ nhìn ra một cái sân, trong sân đang xử bắn hay treo cổ những kẻ chống lại chế độ.

Socrate nhận thấy bàn tay của vị khách lần mò dưới tấm khăn trải bàn, chắc đang tìm một cái đầu gối hoặc một cặp đùi: Công việc bắt đầu khá lắm! Ông ta dự trù một loại “Hâm nóng dần dần” để đưa vị khách tới chỗ mà ông muốn. Bước khó nhất đã qua rồi. Đoạn tiếp theo từ lúc này sẽ diễn ra theo đúng quy luật hoàn toàn tự nhiên thôi. Socrate cho rằng đã đến lúc thăm dò nhằm đi tới những trò giải trí đỡ ngây thơ hơn. Ông ghé sát vị tiểu vương:

- Thưa Đức ông, tôi vẫn mong dành cho Đức ông một sự ngạc nhiên, nhưng nghĩ kỹ lại, tôi nghĩ điều đó hơi quá táo bạo đối với những vị khách nữ trẻ tuổi của chúng ta. Và có khi cả với Đức ông nữa...

Tiểu vương mắt đã rực lửa, liếc ông một cái hài hước và dò hỏi. Socrate nói tiếp ngay:

- Ồ! Xin ngài cứ yên tâm, không có gì quá đáng đâu... Cứ tạm coi như một trò vui vui... bất ngờ...

- Trò gì thế ạ? - Dàn đồng ca các cô gái líu ríu kêu lên.

- Thưa các bà, tôi muốn xin trút trách nhiệm lên... Tôi không muốn sau này các bà lại trách tôi về cảnh tượng được trình diễn. - Socrate đã leo lẻo trả lời như vậy.

- Thế ta bắt đầu đi chứ? - Tiểu vương nói, vẻ sốt ruột. Socrate giơ hai tay có vẻ miễn cưỡng, như bị thua các vị khách của ông. Mỉm cười, ông vỗ tay ba lần. Một lúc im lặng tuyệt đối. Mọi cái đầu đều quay ra phía cửa ra vào. Hai cánh cửa đột nhiên mở ra, bốn người ăn mặc như nô lệ phương Đông bước vào, khiêng một cái mâm lớn bằng kim loại, dài hơn hai mét. Những người xứ Nuby phường tuồng giả dạng kia đặt mâm xuống đất, dưới chân các vị khách.

Từng người đều giương mắt nhìn: trong mâm chỉ có một đống to đầy kê, chẳng có gì khác. Các cặp mắt lại quay về phía Socrate vẫn đang mỉm cười. Một người nô lệ thứ năm bước, vào phòng khách, chở trên xe một cái bao; từ trong bao, những tiếng chiêm chiếm vang ra điếc tai. Người kia đến gần cái mâm, mở bao, thả một đàn gà con đang đói. Gà liền chạy nhanh tới đống kê. Trong phòng, mọi người nín thở chờ đợi. Các cô gái như bị thôi miên bởi những con gà con tham ăn đang trèo lên nhau, xô đẩy nhau, làm cho kê chảy xuống những dòng mịn như lụa.

Chợt có kẻ kêu lên: “Ồ!”, và người ta nhìn thấy một mảnh da thịt, một bầu vú. Chỉ hơi bị tiếng kêu làm giật mình trong giây lát, các con gà con lại tiếp tục ngốn thức ăn bổ béo đó. Một mảng vú nữa bị lộ ra ánh sáng, rồi đến đường cong một bên vai: dưới tấm vải liệm bằng hạt kê ấy, có một thân người, một thân đàn bà. Rồi lộ ra đường thon một bên đùi, một mảng rốn. Thế rồi, cái kho sống rung rung một cái gì đó động đậy. Những con gà sợ sệt bỏ chạy toán loạn. Và một cô gái tóc nâu tuyệt đẹp vươn mình, đưa tay vuốt tóc, vuốt mặt, gỡ những hạt kê còn sót lại. Trong bầu không khí im lặng đến sững sờ, cô ta đứng hẳn dậy. Và những tiếng hoan hô đầu tiên vang lên. Người đẹp vô danh ấy hoàn toàn trần truồng, rất thoải mái, rất tin ở hình thể của cô mà cô đang trưng bày ra, không khiêu khích nhưng cũng không khiêm tốn. Cô cúi chào, một nụ cười lập lờ trên môi, lấy nốt những hạt kê còn sót lại trong rốn, và nhẹ nhàng biến mất trong tiếng hoan hô.

Tiểu vương quay về phía Socrate:

- Rất lý thú!

Lúc này, cả hai bàn tay ông ta không rời gầm bàn, và nghi rằng chúng đang bận việc cả. Nỗi nghi ngờ được bộ mặt căng thẳng của hai cô gái ngồi hai bên tiểu vương xác nhận. Người ta đưa tới các thứ rượu ngọt, các loại rượu loại ác-ma-nhắc để lâu năm và sâm-banh đã “quá hạn tuổi”. Rất đơn giản, tiểu vương bỏ một tay ra, cầm lấy cốc rượu người hầu bếp vừa bưng tới, đưa cho cô gái tóc vàng ngồi bên phải, yêu cầu cô đỡ cho ông uống, rồi lại nhét tay xuống gầm bàn. Vừa khó chịu vừa thích thú, Socrate không thể không kính phục sức sống của ông ta. Cho đến lúc này, biết rõ tửu lượng của mình, muốn hoàn toàn tự chủ để có thể làm chủ được tình thế, Socrate chỉ vờ uống. Lão tiểu vương kia đúng là một quái kiệt, lão không biết say, cũng như nhiều người khác không biết đau do thần kinh họ sắp đặt kiểu khác trong cơ thể họ. Người Ả Rập có gan không nhỉ, và nếu có thì lá gan đó ở đâu?

Dù thế nào đi nữa, Socrate cũng sẽ là người đầu tiên biết rõ chuyện đó. Ông ta vạch trước một kế hoạch để rời khỏi cái trò “Nghìn lẻ một đêm” rẻ tiền này. Đến cuối bữa ăn, một trong những tay sai của ông sẽ vờ tới tìm ông vì một chuyện gia đình rất quan trọng và khẩn cấp. Từ hai ngày nay, ông đã ra lệnh rất nghiêm để cho mọi người tưởng rằng ông không phải đang ở Pháp. Ông không muốn người ta biết ông đang tiếp tiểu vương, và về phần mình, Hadj Thami el-Sadek lại càng không muốn cho ai biết chuyện đó. Ngay những người thân cận nhất của Socrate cũng tưởng là ông đang trên đường đi đâu đó. Socrate còn ra lệnh chính xác là trong suốt những giờ này, bất cứ ai, với bất cứ lý do gì cũng không được biết ông đang có mặt ở Paris. Cho nên bao nhiêu cú điện thoại gọi tới ông đều vấp vào hàng rào của các thư ký khẳng định một cách tin tưởng rằng ông Socrate đang ở Hoa Kỳ. Ấy thế mà tại sao trước đây ba giờ đồng hồ, những thằng cha công chức ngu ngốc ấy lại tỏ vẻ quá tích cực và phát hiện ra chuyện bí mật?

- Thưa quý bà! - Tiểu vương nói... (các “quý bà” đang thầm thì to nhỏ với nhau, im lặng và nhìn ông) - Tôi thấy quý bà duyên dáng tới mức tôi muốn được kính biếu một kỷ niệm nhỏ về đêm vui này... nếu như vị chủ nhân ấy cho phép.

Socrate mỉm cười gật đầu.

- Ahmed! - Tiểu vương gọi.

Một trong hai người khổng lồ xuất hiện nhanh tới mức người ta tự hỏi không biết có phải hắn đã đi ra ngay từ khi chủ hắn gọi không? Tiểu vương ra hiệu và người cao lớn lấy từ trong túi một cái ví nhỏ bằng da. Tiểu vương cởi những sợi dây buộc ví, và đổ những thứ đựng bên trong lên bàn. Các cô gái ngẩn người ra: một dòng suối các viên ngọc quý chảy xuống khăn bàn, trong tiếng va chạm lách cách xúc động lòng người của những viên bi mã não. Thằng cha này không phải là một lão già khô đét đâu! Ông ta là một vị chúa, ông ta đẹp quý phái, và lịch sự ghê gớm! Vả lại chính ngay ông Socrate cũng phải gọi ông ta là Đức ông suốt trong bữa ăn kia mà! Bây giờ thì các cô hiểu tại sao rồi!

- Đây quả là món quà nhỏ mọn so với ngần ấy sắc đẹp của quý bà...

Tiểu vương thu những viên ngọc vào trong lòng bàn tay và từng viên một, ông cho lăn lại từng cô. Giữa lúc đó, một đầu bếp ghé sát ông chủ tàu, thì thầm vào tai ông ta một điều gì đó có vẻ làm ông ta khó chịu. Ông nói rít qua kẽ răng với người đầy tớ:

- Báo cho nó biết nó là thằng ngu. Tôi nói tới nửa đêm kia mà, mà bây giờ mới mười một giờ.

- Thưa ông, anh ta nói chuyện đó không thể đợi được. - Người đầy tớ buồn rầu nói.

- Bảo hắn cứ đợi đấy! Lát nữa!

Socrate biết quá rõ người thư ký của ông. Ông thừa biết rằng nếu anh ta dám làm phiền ông mặc dầu đã có lệnh, thì chắc chắn phải có lý do nghiêm trọng.

- Người anh em của tôi có chuyện gì phải lo lắng phải không! - Tiểu vương hỏi.

- Không có chuyện gì quan trọng cả, thưa Đức ông, tôi hy vọng như thế.

Không có chuyện gì lọt qua mắt lão này! Socrate tự trấn tĩnh và quyết định làm gấp mọi chuyện. Ông cho bước sang phần hai của kịch bản ngay.

- Thưa các bạn, tôi muốn mời các bạn thăm nhà tôi. Thưa Đức ông, nếu Đức ông đồng ý, Chúng ta bắt đầu từ phòng riêng dành cho Đức ông. Thưa các bà, tôi mong được ý kiến của các bà.

Ông đứng dậy, mọi người theo ông, đi qua một hành lang bọc nhung đỏ, mở một cái cửa. Trong căn phòng rất rộng được lát toàn gương, cả tường lẫn trần - người ta vừa lát gương hai ngày trước - đầu tiên người ta chỉ thấy một cái giường, nhưng một cái giường mà chính các cô gái điếm cũng chưa bao giờ nhìn thấy một cái giống như vậy; tròn, khoảng ba thước đường kính. Một trong nhứng cô gái kêu lên một tiếng thích thú và hỏi:

- Em thử có được không ạ!

Không đợi trả lời, cô ta nhảy lên giường như người ta lao xuống biển, người nẩy bật lên đệm cao su. Trong lúc đó đường xẻ dọc tấm áo dạ hội để lộ hai chân cô ra đến tận đùi, bó chặt lấy cặp mông. Khêu gợi một cách chính xác hoàn toàn đến mọi sự trong khi vẫn giữ bí mật của da thịt được che kín.

- Cathia! Lại đây! Thích quá!

Cathia đưa mắt nhìn các bạn, không cưỡng lại được. Đến lượt cô nhảy bổ lên lớp vải đen. Vừa cười bạn cô vừa chồm lên cô trong một cuộc chiến đấu ngắn với những tiếng cười khe khẽ, những câu “buông ra”. Những nũng nịu và những rên rỉ, thở dốc. Socrate gian giảo đưa mắt liếc tiểu vương. Ông thấy một vẻ mặt làm cho ông yên tâm về những dự kiến của mình. Mặt tiểu vương lúc trước vui vẻ hào hứng thì bây giờ đột nhiên thần ra trở thành xa xăm. Cả hai con mắt đen ti hí nhìn đăm đăm mãnh kiệt vào cảnh tượng hai cô gái đang diễn. Cả con người tiểu vương như được tạc bằng sự căng thẳng dữ dội đang khuấy động trong lòng ông ta.

Cathia mời tiểu vương:

- Đức ông ơi! (thế là ngọc quý giúp vào, cô ta cũng lại chơi cái trò bằng chức tước rồi gọi bằng chức tước rồi). Cứu em với! Vào bảo vệ cho em với! Nó khỏe hơn em!

El-Sadek đưa mắt hỏi ý kiến Socrate. Socrate kéo riêng ông ta ra:

- Ngôi nhà này và tất cả những cái bên trong thuộc về Đức ông, đó là của Đức ông. Đức ông cứ ở trong nhà Đức ông, xin hãy sử dụng và lạm dụng đi, ngài sẽ không thấy thừa bao giờ. Nhưng xin Đức ông đừng giận tôi... Một chuyện trong gia đình tế nhị yêu cầu tôi phải có mặt ở ngoài thành phố Paris. Đức ông có tha lỗi cho tôi không, nếu tôi để ngài ở lại với các cô gái của tôi?

- Người anh em của tôi có muốn tôi đi cùng không?

- Xin Đức ông đừng nghĩ tới chuyện đó! Những việc tôi phải làm rất chán, và tôi muốn đêm nay là được dành để Đức ông nghỉ ngơi, hoặc tùy theo sở thích của ngài...

Những tiếng nói cuối cùng của Socrate rơi vào khoảng trống vì lúc này, cả sáu cô gái đã nhảy lên giường hết, cười như hóa dại, say bí tỉ, vứt hết giày, đánh nhau qua các tấm gương phản chiếu nhân lên vô tận da thịt trắng và tóc vàng ở trên nền đen của chăn và vải phủ giường, thành một cơn lốc hồi hộp những cơ thể vô danh, có thể thay đổi lẫn cho nhau được. Đôi môi tiểu vương càng mím chặt lại, và ông ta nhìn chòng chọc vào cảnh đó như bị thôi miên. Ông ta phải cố gắng lắm mới rời mắt đi được, cúi rạp trước Socrate, ông ta nói:

- Xin cứ làm như ý ông, người anh em của tôi ạ. Và Đức A-la phù hộ cho ông...

Đến lượt Socrate cúi xuống:

- Ngôi nhà này của Đức ông...

Quả là ngốc, nhưng Socrate đã xúc động hơn ông tưởng. Ông đã đạo diễn cái trò lố bịch này, hoàn toàn biết rằng nó rất rẻ tiền, thế mà chính ông lại bị nó cho vào bẫy. Ông đã muốn ở lại, hưởng với Sa-đếch điều mà một mình ông không dám hưởng, ừ nhỉ, có gì ngăn cản ông tổ chức những cuộc vui như thế này để riêng cá nhân ông hưởng đâu kia chứ? Ông vẫn mơ ước một trò như thế này. Nhưng một lý do không rõ rệt đã ngăn ông để ông chuyển nó sang thành sự thật, điều ông âm thầm mong muốn và lại giận dữ cố đẩy chúng đi. Tại sao?

Ông gạt hết những ý nghĩ ấy. Sắp đi ra phòng ngoài, ông bỗng chạm trán Ali và Ahmed, hai con chó cận vệ của vị khách. Thật là kỳ lạ, trên môi họ hơi mỉm một nụ cười. Họ cúi rạp mình xuống trước Socrate. Khi họ ngẩng lên, nét mặt họ lại lạnh lùng. Thắc mắc, Socrate dừng lại trước họ, và nhìn họ một cách hiền từ và tò mò:

- Các ông biết nói tiếng Anh chứ?

Ali gật đầu.

- Tôi đã dành cho các ông hai phòng riêng... Các ông có muốn người ta đưa các ông tới không?

- Chúng tôi sẽ ngủ ngay tại đây, trước cửa phòng ông chủ chúng tôi.

- Ở đây? Ngủ dưới đất à?

Lại gật đầu đồng ý. Phong tục kỳ quái thật!

- Ông chủ của các ông không bị một nguy hiểm nào đe dọa trong nhà tôi đâu.

Trả lời: một nụ cười.

- Các ông có cần gì không?

Lắc đầu để trả lời. Hai tên này quái đản thật! Họ nằm ngay trên mặt đất để ngủ, bất cứ chỗ nào; để nuôi họ chỉ cần một gói quả chà là và vài quả vả. Thế là họ sống được trong hai tháng rồi. Và tha hồ mọi chuyện!

- Này các ông ạ... Các ông được sống gần gũi với ông chủ các ông... Các ông hiểu ông ấy rất rõ...

Socrate hạ giọng, vẻ mặt đồng lõa và thân thiết:

- Theo các ông, ông chủ đã đủ những thứ ông ấy cần chưa?... Tóm lại, tôi muốn nói... Các ông có cho rằng ông chủ bằng lòng với những người bạn gái tôi đã giới thiệu với ông chủ không?

Hai người kia đưa mắt nhìn nhau rất nhanh, và mặt họ lạnh như tiền. Giật mình, Socrate nhấn mạnh thêm:

- Xin đừng ngần ngại. Tôi quá trân trọng và quý mến ông ấy, nên tôi không muốn để ông ấy thất vọng...

Ali và Ahmed đứng yên, bất động, im lặng.

- Xin các ông, đây là chuyện tối quan trọng... Tôi muốn ông ấy giữ một kỷ niệm tốt đẹp về đêm nay... Nói với tôi là các ông giúp đỡ mọi người đấy. Xin các ông cứ tin tôi, tôi sẽ rất kín đáo... Có khi ông chủ không thích những cô gái tóc vàng chăng?...

Hai người kia đưa mắt nhìn trộm nhau, rõ ràng ngần ngại chưa dám trả lời. Ali quyết định. Anh ta ghé vào tai Socrate, và nói hai tiếng thôi. Anh ta cao hơn Socrate một cái đầu.

Socrate tròn mắt và có hơi ngượng ngập. Ông ta phân vân giây lát, rồi nói:

- Để tôi xem tôi có làm được gì không?

Ông bước vội đi vào trong phòng làm việc. Người thư ký đứng đợi ông ở đó. Ông nói rất nhanh:

- Anh gọi điện cấp tốc cho cái bà Julienne của anh ngay! Nhanh lêh, không hỏng hết bây giờ! Và trước hết, sao lại có cái trò ngu xuẩn mới ấy? Tôi bảo anh tới tìm tôi vào đúng nửa đêm, không phải mười một giờ!

- Thưa ông, tôi biết, nhưng...

- Nói đi!

Anh h?