Chương 10
Spiro ngẩng đầu dò nhìn bầu trời xanh gay gắt. Từ dăm ba phút vừa qua, tai của chú bé đã thoáng nhận ra một tiếng rầm rì mơ hồ nhưng mắt chú vẫn chưa phân biệt gì hết. Thình lình, chú trông thấy cái loại ruồi nhỏ xíu sẫm màu kia to dần lên trong khi nó tới gần nơi chú thích chăn thả đàn dê của chú, mỏm núi đá dựng đè lên khoảng đất bằng, tạo thành một gờ vòng cung trên những vách đá cắm rễ vào trong biển.
Do trước đó nhiều ngày đã nhìn thấy nó, chú bé nhận ra ngay một chiếc máy bay lên thẳng. Nhưng trái với những chiếc máy bay đã hạ xuống, chiếc này không phải là màu xám sẳt mà đen. Nó lượn trên khoảng đất trống, hình như do dự một lát và nhẹ nhàng chạm đất. Những cánh quạt dừng lại, run rẩy. Im lặng...
Rồi mặc dù khoảng cách, Spiro nghe thấy rõ ràng tiếng nẹp cửa sắt quay quanh mỏ bản lề. Cửa thân máy bay mở ra rồi một hình người mặc quần áo bay màu đen nhảy xuống, quan sát tứ phía và đi vài bước, sau đó trở lại máy bay giơ tay ra đỡ ba nhân vật mặc áo dài trắng tụt xuống. Họ trông như những tướng phỉ, những tên Thổ Nhĩ Kỳ giết người mà ông chú của chú bé vẫn chỉ cho xem ở trong một bức tranh nọ. Trừ một cái là ba người này không có gươm - chắc họ đã giấu chúng trong nếp áo dài. Bây giờ thì họ đứng tất cả ở dưới nắng, những phiến đá trắng và đen trụi giữa cái khung cảnh màu phấn chói nhức mắt...
Trong một lúc hết sức lâu, không thấy có cái gì diễn ra. Và một lẫn nữa, lại tiếng động cơ kia. Bật ra một điểm vô hình của chân trời, một tiếng rầm rì bỗng phũ phàng chiếm lấy không gian. Hãi hùng, Spiro đếm được sáu chiếc máy bay đen ngòm đang lao thẳng đến chỗ trú ẩn của chú, theo bản năng, chú rụt cổ lại và cố bám gí xuống lớp rêu khô của gò đất, dán sát người vào đó. Khi chú dám hé mắt trông lên thì những chiếc máy bay lên thẳng đang lần lượt buông mình trượt xuống vài gò đất vòng cung. Nhìn từ trên cao, xem vẻ chúng đậu nhẹ như những chiếc lá rụng vậy. Những người trên máy bay tụt xuống. Tất cả, đàn ông hoặc đàn bà, đều vận đồ đen, những con nhện kỳ lạ ở trên cánh đồng tuyết. Những bàn tay nắm lấy nhau, những lời trao đổi bí ẩn rồi những cái đầu cùng quay cả về một phía, khi một chiếc máy bay thứ bảy hiện ra trên bầu trời, lượn hẳn một vòng trước khi hạ xuống gần những chiếc kia. Những người trên chiếc máy bay này đều đứng bên những người đi trước.
Bắt đầu một sự chờ đợi mới bất động trong một bầu trời im lặng lại trở nên tuyệt đối. Spiro thất vọng thấy những con dê của mình đã tụt xuống gò đất nhưng chú không thể dứt ra khỏi cảnh tượng này để đi gom chúng lại... Chốc nữa vậy... Thình lình, ở bên dưới, những cái đầu cùng lúc quay cả về một điểm vô hình ở phía trên các chỗ sụt lở. Spiro vội nhìn phắt về phía đó: hai chiếc xe hơi lớn kềnh càng màu xanh đen đang lăn chầm chậm theo nhau, trên con đường mòn rải đá, chòng chành đi lại khoảng đất bằng. Làm thế nào mà chú không trông thấy chúng đến đây? Có lẽ vào lúc chú đang leo lên sườn đồi bên kia cùng với đàn dê chăng? Tám người xuống xe - ba trong số đó là những linh mục. Người thấp nhỏ nhất trong đám vừa mới đến, sau khi bắt tay nhiều người, đã nói vài ba câu có sức làm cho tất cả tản ra. Mọi người leo lên máy bay lên thẳng. Tiếng cửa đóng ầm và một động cơ đầu tiên rít lên, hòa theo ngay vào nó là những tiếng hú của các máy bay lên thẳng được phát động. Gần như đồng thời, tất cả cùng từ từ cất lên trong một tiếng động ghê người. Đến đỉnh đầu Spiro chúng bay nhanh hơn, lao thẳng về phía Nam. Trên gờ đất vòng cung, chỉ còn lại hai chiếc xe nơi mà người tài xế đang đứng lặng nhìn cái hạm đoàn bay mất hút. Đến lượt họ, họ lên xe và mở máy, biến đi khỏi mắt của đứa trẻ, sau một chỗ sụt lở của sườn dốc.
Lúc đó, tất cả cái quang cảnh trắng lóa của đá núi và xanh lơ của vòm trời lại bị bỏ mặc với chính nó, hoang vắng, tựa hồ chưa từng có cái gì xảy ra. Bàng hoàng, Spiro thầm hỏi xem có thể kể lại được với ai những cái chú vừa trông thấy? Còn ai khác, ngoài ông chú của chú bé thì ông đã không thèm trả lời chú, con mắt trầm ngâm nhìn chú chẳng có một ngụ ý gì hết.
Bảy chiếc máy bay lên thẳng bay sát nhau ở một trăm mét trên mặt sóng dễ thường đã đến hai mươi phút. Trước khi xuất phát, S.S. đã nói với Jeff mà những người lái khác phải làm theo:
- Cứ bay thẳng trước mặt anh, không quá cao, không quá chậm. Có thế thôi!
Người lái bắt đầu tự vấn liệu ông chủ của mình có coi mình là một thằng hề không đây. Chuyến bay vô duyên cớ này làm cho anh phảng phất khó chịu. Việc tin chắc rằng những người lái khác còn biết ít hơn cả anh chẳng an ủi được anh. Đã thế, ngông lạ ngông lùng, Socrate lại còn đòi cách biệt buồng lái ra với phần sau thân máy bay. Jeff đã miễn cưỡng phải mắc lên ở trong “soái hạm” một thứ màn che mờ đục; việc nó có mặt ở đằng sau lưng anh đã làm cho anh nghiến răng lại vì bực dọc. Về nguyên tắc, bà Lena lẽ ra cũng phải lên máy bay của anh. Nhưng vào lúc cất cánh, Socrate đã thay đổi ý kiến và ngỏ lời với bà xin để cho ông ta được ngồi một mình. Bà Lena đành lên ngồi ở chiếc máy bay chất đầy các vị linh mục vậy. Bất giác, Jeff liếc nhìn sang bên để xem các bạn lái có theo mình không. Anh hơi yên tâm thấy họ ở bên phải mình, triển khai ở đằng sau anh theo đội hình ba góc. Tất cả những cái này là nghĩa lý gì đây? Một bữa ăn ngoài trời, một buổi chầu lễ ở giữa biển, một cuộc vui chơi đầy những bất ngờ... Hay cái gì? Và những người khác, các vị khách của ông chủ, họ có hay biết gì không? Ít ra thì họ cũng hiểu rằng tới đây bọn họ sắp giở cái trò gì ra ở ngoài khơi.
- Mẹ bảo anh ấy đi, mẹ! Bảo anh ấy đi!
Médée không trả lời con gái mà châu mày. Irène nài nỉ bằng một giọng the thé.
- Kìa mẹ! Anh ấy sợ mẹ! Mẹ nghĩ gì thì mẹ nói ra với anh ấy!
Ở trong góc của mình, Kallenberg có phần khó chịu, càu nhàu:
- Có để cho mẹ cô yên không nào!
Bà Médée phục phịch cựa mình trên ghế. Bà ta coi trong sự chết chóc và những tang lễ gần như tiền bạc vậy. Bà ta thấy dây vào một chuyện cái cọ giữa hai vợ chồng lúc này hình như là rất không hợp thời. Bà ta không chuộng người con rể lắm nhưng lại ưa nết cương quyết của anh ta trong công chuyện làm ăn, cái đức tính mà từ thiếu thời bà đã biết phải coi trọng.
Bà ta liếc nhìn người lái chắc hẳn không bỏ xót một câu nào qua tai mặc dù tiếng máy nổ. Khi người ta thuộc vào gia đình giàu có như gia tộc bà, người ta có nhiệm vụ đầu tiên là giữ cái danh giá của người ta ở trước mặt những kẻ bề dưới chứ. Dẫu sao thì đó là cái điều Médée gắng dạy bảo cho ba cô con gái của bà ta và cũng là điều ông chồng quá cố của bà luôn luôn nhắc đi nhắc lại với bà. Khốn thay, Irène lại có vẻ không hiểu và không hề dịu đi.
- Chẳng có thứ gì trong lễ Nô-en! Mẹ đã thấy món Socrate tặng em con trong dịp sinh nhật hai đứa trẻ sinh đôi chưa?
Médée nghiêm nghị nhìn chòng chọc con gái:
- Irène! Thế cái tàu chở dầu Herman cho con thì sao?
- Đó là chuyện năm ngoái. Các tàu chở dầu thì anh ấy cứ việc giữ lấy! Con không cần, con dùng những cái ấy làm gì cơ chứ?
Tức giận đến nổ mắt, Kallenberg đã hết sức tự kìm chế. Nắm lấy đùi Irène bằng bàn tay đô vật của mình, ông bẹo một miếng rõ to mà ông chịt xuống và vặn xoắn lại thành một vòng tròn. Để lấp tiếng rên rỉ khe khẽ của Irène thốt ra, ông lớn tiếng cười với bà mẹ vợ và nói giọng bông phèn.
- Xin bà đừng bận tâm... Irène của chúng ta bị các sự kiện làm cho xúc động đấy ạ... Cô ta đùa thôi...
Môi bà Médée thoáng phác một nụ cười mong manh. Bà lơ đãng ngắm nhìn một cánh bướm trắng tiến dần lại bờ đất, nhỏ nhoi và kém mọn ở trên mặt biển tan nát như một tấm gương vỡ. Bà ta nhìn thấy, rất gần với bà ta, bay ở bên trái bà, bộ mặt thản nhiên của ba người Ả Rập mà Socrate, người con rể thứ của bà đã mời đến.
Steve đưa tay vào túi bộ đồ bay để lấy một điếu thuốc lá. Lúc cầm bao thuốc, anh ta linh cảm thấy có lẽ không nên. Anh dứt khoát quay đầu lại, bàn tay lái nắm chắc cần lái. Ba người khác nhìn chằm chằm vào anh, con mắt đen và cảnh giác. Một người đàn ông, hai người đàn bà, những nông dân ăn mặc chỉnh tề, nét mặt lầm lì. Trước xuất phát, Jeff, người lái riêng của ông chủ, đã rỉ tai anh:
- Còn tệ hại hơn thường lệ đấy. Đi đâu, vì sao và làm thế nào, tớ chẳng hiểu quái gì hết. Cậu cứ việc theo tớ thôi!
Vậy thì anh theo. Tất cả điều anh đòi hỏi là trở về Athènes đúng giờ ăn tối. Anh có hẹn với một cô gái trẻ hơn anh nhiều nhưng hình như cô ta không chán anh thì phải. Vả lại, máy bay chỉ đủ nhiên liệu bay trong ba giờ. Tính đến mức xấu nhất, chuyến bay phứa bay phựa này sẽ chỉ kéo dài được có hơn một giờ nữa thôi. Phải quay trở lại ngay kẻo mà uống no nước biển. Cô ta tên là Giên và chưa tới mười tám tuổi. Anh lại ngó về đằng sau. Lần này thì dứt khoát mỉm một nụ cười với các hành khách: anh mất công toi, chẳng một ai động đậy gì hết. Ở trước anh ba mươi mét, trong chiếc máy bay của Edward, anh trông thấy những vị cha cố Hy Lạp kỳ dị với những cái mũ ngộ nghĩnh ở trên đầu. Ở Mỹ, các cha cố không có những cái mũ như vậy.
Dễ đến một giờ nay, Socrate ngồi cứng khư như một bức tượng. Bị giam trong bộ đồ lề của tấm thắt lưng an toàn gắn chặt với ghế, ông ta không rời mắt khỏi bức màn ngăn ông với người lái, nhìn ngắm nó tựa hồ cái bề mặt nhẵn nhụi và đen của nó đã được bôi những màu sắc riêng chỉ mình ông thấy nổi. Thỉnh thoảng, ông liếc sang trái, sang phải vào khoảng không, cảm thấy những chiếc máy bay khác gần gũi bên mình. Hoặc là thò đầu ra ngoài đăm đăm nhìn biển. Lúc trước, khi vẫn còn thấy được bờ, ông đã thấy một con tàu tiến vào đất liền. Hành khách trên tàu đang vung tay làm những cử chỉ thân thiện về đoàn máy bay khác thường.
Socrate bực tức vì không có được vòm trời hoàn toàn cho riêng ông. Trong sáu chiếc máy bay bám theo máy bay ông, ông đã phân bố những người ông không thể nào gạt ra khỏi chuyến đi. Irène, cô chị vợ ngu ngốc, tên Kallenberg bẩn thỉu nọ và mụ già Médée, mẹ vợ chung của họ. Cũng có cả vài vị cha cố, những chỗ quen biết riêng của gia đình, ba người nông dân ông đã hỏi han hai ngày trước đây và Melina, em gái Irène và Lena [1]. Ngồi trong hai chiếc khác là ba nhà chủ tàu cự phú, những người anh em họ thân thiết và những kẻ thù cạn tàu ráo máng, rồi Hadj Thami el-Sadek cặp kè hai gã vệ sĩ bên hông. Vị tiểu vương này đã dài dòng vật nài hoãn việc trở về Baran để được tham dự chuyến đi với ông. Đã đến mức thân thiện như hiện nay mà lại...
Tuy đeo kính đen dày cộm, Socrate vẫn bị ánh sáng phản chiếu làm cho chói mắt, khi một tia nắng mặt trời từ trên một con sóng hắt dội trở lại đến đập vào mắt ông nhân chiếc máy bay lên thẳng nghiêng chành đi. Qua cửa máy bay mở rộng, ông chìa tay ra để cảm thụ sự va đập của không khí ấm áp, phó mặc nó cho cái sức nén nọ, tựa hồ nó độc lập hẳn với cơ thể của ông. Ông để cho nó vật vờ như vậy một phút đồng hồ rồi thu nó về ôm cái hộp gỗ nhỏ đặt trên đầu gối. Vào lúc đó, ông lo âu tự hỏi liệu ông có mất dũng khí không đây. Vậy mà bà mẹ đã muốn như thế, đó là ham muốn rành rành, niềm mơ ước không thể nào thành của bà lão, cái nguyện vọng từng được luôn luôn nói ra thành lời với các nhân chứng cuộc sống thường ngày của bà lão. Nguyện vọng đó, nỗi kinh hoàng để hoàn thành nó bây giờ lại trút vào ông. Ngay tức khắc. Bàn tay ông, mà một cô thợ sửa móng tay của riêng ông vẫn sáng sáng trông nom săn sóc, vuốt ve cái hộp hình chữ nhật, dài ba mươi phân, rộng mười lăm phân và cao mười lăm phân. Đại để tương tự kích thước một cái hộp đựng đồ khâu. Đã đến lúc ông cần quyết định mở nó ra. Họ đã bay quá xa rồi... Hoặc lúc này, hoặc không bao giờ nữa. Ông gạt cái chốt khóa nhỏ xíu, ngập ngừng, nâng cái hộp lên, hạ nó xuống, lại nâng lên, cố giữ không nhìn vào bên trong cái hộp. Ông phải huy động tất cả ý chí của mình để buộc con mắt ông cúi xuống nhìn cái vật ở trong đó: bụi.
Lúc đó xảy ra một điều hoàn toàn bất ngờ: những giọt nước mắt to kềnh lăn trên má mà ông không hề ý thức được rằng chúng lại có thể tuôn ra từ người ông. Ông giận điên lên khi thấy chúng chảy ra trái với ý ông. Chúng làm cho ông thấp hèn, cưỡng lại ông, dìm ông trở lại một thời kỳ mà ông ngỡ đã ra đi vĩnh viễn, ngỡ đã được mãi mãi che chở phòng tránh, cái thời thơ ấu đầy oán hận của ông. Ông mím môi, đưa mắt trở về vùng nước mênh mông mà ở trên đó vầng mặt trời trắng lóa không thể nào chịu nổi kia đang phá nổ một cách vô tận.
Ông cố nén dập tiếng nức nở đầu tiên đang dâng lên ở trong cổ, cự tuyệt nó, thất vọng mà co thắt những cơ bắp của cuống họng lại, hai bàn tay vặn chặt vào nhau, toàn thân bấu víu vào cái ý chí duy nhất là chớ có khóc kia.
Rồi một cái gì đó đã vỡ ra, một tiếng nấc lớn lao rung chuyển cả người ông. Ông buông mặc, chẳng giữ gìn nữa... Ông mở hẳn cái hộp ra, vùi hai bàn tay vào trong lớp tro bụi quá ư là mịn màng kia, cái mà mới hôm qua thôi, còn được gắn kết lại với nhau bằng một phương pháp khác, theo những dung tích khác, những phần tử được cấu tạo bởi xương và thịt, tóc và máu. Những tro tàn từng là mắt, môi, những tro tàn của người mẹ ông. Giận dữ, bị những tiếng nức nở dài làm cho người rung lên, ông bốc một nắm tro vào lòng bàn tay, nắm nó lại, thò cánh tay ra khỏi thân máy bay, nhả những ngón tay, chìa bàn tay duỗi thẳng vào gió đang xua tan tro bụi, giải thoát cho ông khỏi những tro tàn và những kỷ niệm không thể nào chịu nổi. Bàn tay ông trở lại chiếc hộp, lại nắm đầy những tro thả tản mạn trong không gian.
Khi cái hộp gần cạn, ông ngồi một lúc lâu, xa lạ với mọi vật. Rồi ông gọi to trong máy nói:
- Dừng lại, các máy bay khác làm thành vòng tròn!
Căn cứ vào chế độ động cơ thay đổi, ông thấy rằng Jeff đã thừa hành mệnh lệnh.
Bây giờ bất động, điểm cố định treo lơ lửng ở giữa không trung, chiếc máy bay lên thẳng sải không khí trong một tiếng kêu choen choét kéo dài. Quanh nó, những chiếc khác xếp thành vòng tròn, đến lượt chúng gò cưỡng lại ở giữa trời đất cao trên mặt biển. Con mắt lạnh lùng nhìn lâu ra khắp xung quanh, Socrate chăm chú xem xét những bộ mặt châu hướng về phía ông. Ông phân biệt được rất rõ ràng từng người một. Các hàng xóm láng giềng của bà mẹ ông, những người nông dân kín bưng hung dữ hai ngày trước đây đã lộ ra cho ông mẹ ông muốn được chôn cất theo cách thức nào. Médée và Melina, vị tiểu vương và các vệ sĩ của ngài, những gã anh em họ thù địch, những vị linh mục vớ dịp, ai nấy đều im lìm quan sát ông, như Lena vậy (người vợ mà ông chắc chắn là khóc rất nhiều tuy ông ở quá xa không thấy được nước mắt của cô) và Irène, và Kallenberg mà ông nhìn xói vào mặt, nghĩ ra rất nhanh rằng hắn sắp bắt ông phải trả nợ cho hắn nhiều lắm đây. Giơ hai cánh tay lên, ông cho mọi người trông thấy cái hộp, giữ một lúc ở tư thế ấy rồi thong thả lật úp nó xuống. Những tàn tro cuối cùng rơi ra khỏi chiếc hộp, bay tung trong gió và tan biến mất. Mặc dù tiếng ầm của động cơ, Socrate ngỡ nghe thấy, đúng là đoán thấy các vị linh mục đang đang lầm bầm tụng một bài ca. Ông đậy cái hộp lại, đặt nó lên gối. Tất cả trở nên bất động, treo dừng, tựa như thời gian đông kết lại. Cuối cùng, ông nói:
- Ta về.
Cả ông và những người khác chẳng còn việc gì cần làm ở đây nữa. Những cánh quạt quay mạnh lên, chiếc máy bay lên thẳng của ông rung bần bật, chòng chành và đi về phía bắc theo hướng đất liền. Trong khoảng khắc, ông nhận thấy ranh giới giữa trời và biển đang từ chiều ngang trở thành chiều dựng đứng. Rồi mọi sự ổn định đâu vào đấy! Đằng sau ông, những chiếc máy bay khác ngoan ngoãn đến xếp hàng theo.
Quá khứ đã chết.
Chú thích:
[1] Ở phần giới thiệu gia đình Médée, tác giả lại cho Melina là chị Lena. Từ đây trở đi, thứ tự ngược lại: Lena là chị.