Phần Thứ Hai - Chương 11
Trong gian phòng của đại sảnh hòa nhạc ở Los Angeles [1], ba người đàn ông đang lao đao khốn khổ. Tương lai trước mặt của họ phụ thuộc vào tâm trạng hiện nay của cái mụ đồng bóng này. Một bóng đen duy nhất, trụi lủi buông rủ từ những cái khung treo, hắt xuống sân khâu mênh mông một ánh sáng còm cõi, khắc rõ những nét mặt, đào sâu những vùng lớn tối sầm bên dưới các gò má. Phần còn lại của con tàu kỳ ảo mất hút vào trong vầng nhá nhem rờn rợn bị phá thủng đây đó bởi những ánh phản chiếu mờ mờ của những cái vỏ bọc dài lê thê bằng chất dẻo phủ lên các dãy hàng nghìn chiếc ghế bành nhung màu đỏ. Các địa điểm được tạo ra vì ánh sáng, vì đám đông, vì hội hè và âm nhạc mà một cơn động cỡn của Menelas sẽ đem nó giao nộp cho sự sống, tiếng hoan hô và tiếng reo hò hay cho cát bụi.
Một trong ba người khe khẽ dặng hắng, hiệu quả của việc đó là ông ta nhận thấy một cái nhìn nanh ác của Menelas. Không đủ sức đương đầu lại chị ta, ông giám đốc Đại sảnh Hòa nhạc dại dột cúi xuống. Ấy vậy mà hai mươi năm hành nghề đã cho ông làm quen với các nghệ sĩ lớn, với các trò ngông của họ, với các nỗi sợ ương ương dở dở của họ, với các cái tật của họ rồi đấy. Nhưng Menelas thì lại là chuyện khác! Chị ta hình như dung nạp trong riêng mình những khả năng nổi xung thô bạo không sao đếm xuể của tất cả các đồng nghiệp hội lại.
- Cái pi-a-nô ở đâu?
Ông giám đốc liền rụt rè ngẩng đầu lên: gớm ghê thay cái mụ này! Nó lù lù ngay ở trước mặt kia, cái pi-a-nô, trên sân khấu người ta chỉ cần trông thấy có nó, những cái thành vỏ đàn ánh màu vàng hung, những cái phím bằng ngà, cái khối công cụ nhà nghề nặng trình trịch của nó. Ông ấp úng:
- Dạ, xin lỗi?...
Nàng Menelas nói êm như chim cu gù:
- Tôi hỏi ông cái đàn pi-a-nô ở đâu?
Bị chèn ép bởi một tình ý khiến cho phạm tội khiến cho tức bực, ông hất đầu về phía cái nhạc cụ. Menelas vờ phát hiện ra thấy nó với một vẻ kinh ngạc:
- Cái này à?...
Chị chun mũi khinh khỉnh ngó cái đàn, không thiết rờ mó đến nó, tựa hồ nó là một đồ vật không có hình thù rõ rệt, đang bốc ra một mùi vị khó ngửi vậy.
- Có phải ông đang bảo tôi rằng ông muốn thấy tôi chơi CÁI NÀY phải không?
- Thưa bà... Léonard Bernstein [2]... Arthur Rubinstein...[3]
- Ai cơ?
- Léonard...
- Không biết!
- Arthur...
- Tôi chẳng muốn biết đến cái ông này! Sao... Có phải là đàn pi-a-nô nhãn Beechstein không?
- Không... Nhưng...
- Không là một cái đàn Beechstein ư? (nói với một trong ba người đàn ông) Mimi! Bảo họ rằng chẳng có cái gì hết nhá!
Mimi ái ngại quay lại ông giám đốc, giang hai tay ra tỏ ý nhẫn nhục. Ông nói lắp bắp:
- Thưa bà... Tôi thề với bà rằng đàn pi-a-nô này...
- Mimi! Bảo ông này là tôi không có ý tranh luận với ông ấy! Cái của này... Kìa... không đáng cả cho một người mới vào nghề tập gam [4]!
Ông giám đốc toan nói một câu “Thưa bà”!... cuối cùng, nhưng Menelas không để cho ông ta nói tiếp:
- Mimi! Chúng ta đi thôi! Khi nào điều kiện làm việc tử tế thì tôi sẽ trở lại!
Chị quay gót đi, kiêu kỳ và sắp khuất vào sau hậu trường thì một tiếng kêu vọng thật sự làm cho chị dừng lại:
- Thưa bà!... Tôi cầu van bà... Ít nhất xin bà hãy thử qua xem nó đã!...
Nàng Menelas châm biếm nhìn ông ta chòng chọc:
- Ông quả là tha thiết với điều đó à?
Chị bước nhanh vài bước đến bên chiếc pi-a-nô, giơ hai bàn tay đeo găng lên nện cho ba quả đấm giận dữ vào dàn phím, những tiếng rên của dàn phím cất lên cao, đến tận những ban công đang chìm trong bóng tối...
- Chơi Chopin mà lại ở đàn này! Ông thấy rõ là đàn bị sai âm! Ông đã nghe thấy chứ? Sai! Sai! Sai! Và cực kỳ là sai! Không có đàn nhãn Beechstein thì không có biểu diễn!
Sau khi chị đã đi khuất hẳn rồi, Mimi vẫn lon ton bám theo gót chị, khẽ rỉ tai ông giám đốc:
- Chớ đi đâu trước khi tôi ra hiệu cho ông đấy nhá! Sáng nay chị ấy cáu... Tôi sẽ cố gắng dàn xếp chuyện này!...
Trước khi lỉnh đi, ông lại nói:
- Dĩ nhiên, nếu trước hai giờ mà ông không có chiếc đàn Beechstein! Một cái đàn Beechstein thì sẽ chẳng có gì hết.
Trong căn phòng vẫn còn rung lên tiếng vang của vài nốt nhạc, ông giám đốc ở lại với ông phó giám đốc, buồn bã nhìn những hàng ghế đầu của dàn nhạc. Rồi chẳng đôi hồi, ông đùng đùng quát lên:
- Sao? Các anh còn chờ gì nữa? Các anh không nghe thấy nàng Menelas bảo cái gì à? Menelas muốn một cái đàn Beechstein các anh hiểu không? Phá tan tành cái thành phố ăn mày này đi cho tôi, nhưng hãy tìm một cái đàn Beechstein cho tôi trước một giờ!
Một số khách ít ỏi đang nhấm nháp rượu dưới vòm lá của quán Barley Mow cũng chẳng ngẩng đầu lên khi chiếc Rolls màu kem đi qua. Ở Clifton Hampden cũng như các xóm hẻo lánh khác bên bờ sông Tamise này đã cuốn hút nhất loạt không phân biệt những người câu cá lẫn những vị tấp tểnh làm chủ trại - quý tộc mong muốn bố trí dinh cơ cực sang ở cách Luân Đôn chưa tới hai giờ đồng hồ. Khi chiếc Rolls đi vào cái cầu bằng gạch đỏ đẹp như trong tranh bắc qua sông, Irène vỗ tay:
- Xem kìa! Xem ở đây rồi chúng ta thích như thế nào anh.
Kallenberg không thèm đáp lại. Càng vấp phải thái độ câm lặng của chồng, Irène càng líu lo líu lường, nói đủ các thứ, huyên thiên chẳng đâu vào đâu, bình luận phong cảnh, kêu la như một đứa trẻ khoái trá, tựa như thể lần đầu tiên cô nhìn thấy con bò, cái cây vậy. Ra đi từ Luôn Đôn bằng con đường A361, Herman đã rủa thầm là đã nhượng bộ sự ép dọa của vợ. Irène không bỏ lỡ cơ hội nào mà không lạm dụng cái quyền lực cô ta có được nhờ một vài hoàn cảnh gia đình có tính chất ưu tiên - đám ma, chầu lễ, xin được phép rửa tội, đám cưới - những hoàn cảnh mà tất cả anh đàn ông nào, dù hắn là người Đức hay người không câu thúc, cũng đều phải ngả theo. Lần này, đó là ngày kỷ niệm hai người cưới nhau, cái lý do hằng mơ ước để đòi hỏi một tặng phẩm cân xứng với tầm quan trọng của sự kiện được người ta tưởng niệm. Trong việc này, Irène đã chẳng rón rén chút nào, chọn ngay một biệt thự mà cái giá tiền do người mối lái đưa ra khiến phải nghĩ rằng đó là một tòa lâu đài mất.
Herman đã gạt đi vì họ từng có dinh cơ ở khắp nơi trên thế giới rồi, cả rừng săn cho đến trang viên, đồn điền, nhưng không xong: con mụ hay rên cứ muốn “cái nhà của mụ”, vậy nên ông phải biếu mụ một cái, kẻo không thì bằng nuôi một cục viêm tấy có cơ nung đến hàng tháng ròng, mọi oán hờn đã qua hay sắp tới. Cũng phải nói rằng cô ta có lý của cô ta. Hai tháng trước đây, Socrate đã biếu Lena “căn nhà của ả”, một ngôi thành giá một trăm nghìn bảng Anh ở cùng khu vực này, không xa Oxford và Abingdon mấy chút. Vượt ra ngoài sự chơi ngông thuần túy, từ nay về sau, đây còn là một vấn đề tiếng tăm, không cái gì lại có thể khiến cho Kallenberg chối từ cái mà Socrate đã mua tặng vợ hắn ta.
Sự tình xấu đi từ khi Irène đòi ông ngay tối trước hôm họ lên đường sang New York, phải đi cùng với mình xem nhà. Không thể thoát được cái tội vạ: một trong những khách hàng lớn nhất của ông, Gustave Bambilt “Bự”, được mọi người trong thế giới dầu lửa mệnh danh là “Gus Bự”, sắp bỏ người vợ thứ mười một của mình, Lindy Nut, con dâm quỷ từng là nhân tình của Socrate. Herman ghét cay ghét đắng ả bởi ả đã nhiều lần cự tuyệt những lời tán tỉnh của ông, điều làm ông hoang mang, vì lẽ ông cho rằng khoản này, người anh em cột kèo không thể đồng cân đồng lạng với ông được.
Đáng lẽ làm cái việc bỏ vợ này âm thầm thì “Gus Bự” lại cố gắng biến nó thành hội hè lịch sự, mời lớp chóp bu của giới tài chính và giới kinh doanh [5] đến dự một cuộc liên hoan - ly hôn của mình. Dĩ nhiên do coi ly hôn là một thứ hôn nhân ngược chiều trở lại cho nên dự một ngày hội gia đình, đưa vợ chính thức đến thì thích hợp, chứ không thể đem nhân tình nhân ngãi được. Kallenberg đã quyết định ở New York hai ngày, lỉnh khỏi Irène ở đó, viện cớ có những quan hệ chung cần gặp rồi tếch tới Bahamas mà một trong những người cung phụng ông ở đó đã sẵn sàng nhận được dây nói là tổ chức ngay cho ông một cuộc cuồng hoan cấp một với những gái điếm sang trọng sở tại. Có điều tại sao mụ hay rên lại chọn đúng hôm trước ngày lên đường để bắt ông đi thăm thú cái trại lợn kia mới được chứ? Ông ghét nó từ trước rồi. Ông không thể nuốt lời đã hứa với vợ là mua nó nhưng ông giữ quyền bắt vợ phải trả giá cái nhà rõ thật đắt...
- Đây! Ta đến rồi! Anh sẽ thấy!...
Chiếc Rolls dừng lại ở trước một cổng có song sắt đồ sộ. Tài xê ấn còi. Từ một căn nhà nhỏ kề sát bức tường bao quanh phủ đầy cây li-e, một người đi ra. Mặc một bộ quần áo phảng phất như của người gác rừng săn bắn, anh ta nín thở mở cổng sắt. Chiếc xe êm ru đi vào một con đường tối sầm lại bởi những cây thủy tùng và cây hoàng dương.
- Có gia nhân ở trong này không?
- Dĩ nhiên. Hình như đều là loại một cả. Janet, chị quản gia, ngày xưa đã hầu...
- Bao nhiêu gia nhân?
- Em không rõ... sáu, tám...
- Tại sao cô lại không biết? Tôi cho cô một cái nhà, cô còn muốn tôi nuôi quanh năm ngày tháng ở đây những tên vô tích sự à?
Bối rối, Irène kéo hoài những nếp của chiếc váy trắng một kỳ công của nhà may Dior [6] mới gửi đến ngay sáng nay và tên váy “Marie-Antoinette”, chắc là không xa lạ gì với cái việc cô đã chọn mua nó... Đồng quê, những cái ghế tựa có đệm, thiên nhiên, không khí...
- Thế nào? Sáu hay tám?
Irène nhìn chồng một cái nhìn hòa hợp, dễ thương...
- Anh bảo làm sao mà em biết được? Em chưa bao giờ đến.
- Vẫn cứ là đáng sợ! Cô bắt tôi khạc ra một đống của để mua một cái nhà tồi tàn mà cô chưa hề đặt chân tới!
- Ồ! Sông, sông! Anh nhìn xem!
Ở một khúc rẽ, một khoảng trống cây để lộ ra một cánh đồng cỏ xanh thăm thẳm trong đó vài con bò cái màu hung đang gặm cỏ, bám lấy sườn dốc đổ thoai thoải xuống tận dòng sông Tamise. Đây đó, những hàng rào, chắn bằng gỗ màu trắng phân vạch địa giới giữa các bãi chăn thả, rừng đốn gỗ và rừng già toàn sồi xanh.
- Bao nhiêu héc ta?
- Em không rõ.
Chiếc Rolls lại bớt đi ở giữa hai mặt vách xương rồng âm u. Thỉnh thoảng một cành lá quật vào thân xe.
- Đi chậm nữa.
Một lần nữa, Irène làm lành - một lần cuối cùng, vì tất cả mọi sự đều có ranh giới.
- Anh hiểu đây, em chỉ xem cảnh thôi... Toàn cảnh thì rất đẹp. Em không rõ các chi tiết.
Kallenberg nhún vai, cười khẩy!
- Kìa, anh xem!
Chiếc xe đỗ vào một rừng thưa mà thảm cỏ vờn đến tận rìa lối đi. Chắn ngang chân trời, một tòa nhà rộng màu trắng có bốn ngọn tháp ở bốn góc. Khi chiếc xe đi qua, một người làm vườn ngả mũ lưỡi trai ra chào. Rất ân hận, Kallenberg bị tòa nhà nguy nga làm cho bàng hoàng. Không thể nào chối cãi được, toàn thể dinh cơ này ra phết đấy. Ông càng giận Irène hơn vì lẽ ả đã một mình mò ra được cái kỳ quan này. Ông làm ra vẻ cau có vì ông cảm thấy vợ ông kín đáo dò xét các phản ứng của ông. Trước hết, đừng có tỏ ra cho ả thấy rằng ông ưng thích cái nơi này.
- Tòa nhà chính có từ thế kỷ 15...
- Được xem xét lại và tu sửa từ thế kỷ thứ 19! Cô lại đi tin vào những lời nói láo nói lếu ấy à? Ở những cái cửa vênh vang khoe mẽ này, chỉ có cáu bẩn mới là quý.
Mệt ớn, đến lượt Irène nhún vai. Tài xế mở cửa xe, họ bước xuống. Cái đáng kể là chất lượng của sự tĩnh mịch. Người ta cảm thấy những tiếng động hiếm hoi, hoàn toàn hòa nhập với thiên nhiên, vẳng từ rất xa đến, nhờ một không khí trong suốt mong manh và ngân như pha lê truyền lại. Có tiếng kẹt cửa và một người đàn bà hiện ra ở khung cửa chính. Kallenberg và Irène leo lên những bậc tam cấp. Người đàn bà nghiêng đầu, giơ tay mời họ vào.
Đi theo nhau, kẻ xuýt xoa vì thích thú, kẻ làm ra bộ chán ngán kinh khỉnh: Họ thăm một dãy dài những gian phòng dưới con mắt nghi ngại của người đàn bà dẫn đường.
- Nếu ông bà muốn lên gác...
Irène đã bước vào đầu cầu thang.
- Anh không lên ư?
- Tôi chờ cô ở ngoài. Tôi thở hít không khí một chút.
Irène dùng dằng rồi đàng hoàng quay lưng lại phía ông để theo người dẫn đường. Herman ra ngoài thềm tam cấp. Ông châm một điếu thuốc lá. Ông nhìn lướt bao quát cảnh vật và một bản năng biết rằng chỗ này đáng với cái giá nêu ra. Ông cũng thích đầu tư món kha khá, vào đất đai, bất cứ ở đâu. Với đất thì không như là với biển: người ta không bị những rủi ro. Toàn bộ hạm tàu của ông có thể ngày một ngày hai bị đắm, nhưng ông sẽ có thể sống mãi được bằng những thu nhập của ông về đất đai cho đến ngày tận số. Ông nghe thấy Irène gọi từ trên cửa sổ, nhưng không thèm quay cái đầu lại. Ông suýt tự hỏi xem cái gì đã làm cho ông giận dữ, lập tức gác bỏ cái ý đó ngay, sợ tan biến mất cái cơn cáu kỉnh mà ông bám nó từ sớm đến giờ.
Ông đi vài bước và vòng theo góc nhà. Cách một trăm mét có một căn nhà nhỏ từ bên trong lọt ra tiếng chó sủa nhanh nhách. Ông lại gần phát hiện thấy một lứa chó con bị chó mẹ biếng nhác bỏ vạ bỏ vật. Một vài con gí mõm vào tấm lưới sắt mà ông đùa lấy ngón tay nựng vuốt chúng. Cạnh đó, một khoảng đất rào kín đầy gà và vịt đang bới sục một đống phân bón bốc mùi nồng nặc và dễ chịu trong một cái ao nước phân, ba con lợn to tướng, bẩn thỉu, kinh khủng, tỏ ra khoan khoái được sống dầm trong cái thiên đường này.
- Em ngỡ là anh không thích lợn?
Ông tức tối vì đã bị bất chợt thấy đang xem ngắm cái mà ông quyết gièm pha nhất loạt từ đầu. Irène có vẻ mờ mờ ảo ảo và lạc điệu ở trong cái cảnh quê mùa này, cái váy trắng lóa của cô ta nom rất chói với nó. Nét mặt cô đang có vẻ hơi nhạo cợt, chọc tức.
- Ta đi chứ? Trừ phi cô còn chưa biểu diễn xong tiết mục bà chủ lâu đài của cô?
- Thú thật ở đây em rất thích. Em thấy chỗ này tuyệt vời!
Kallenberg vô cớ cạo cạo mũi giày xuống đất. Ông nhìn thẳng vào mặt vợ:
- Cô thật sự muốn tôi chi tiền mua cái nhà lở loét tồi tàn này đấy à? Cô không thấy chẳng có cái gì ra hồn ư? Tường vách mục rồi!
- Em không có bắt buộc anh phải đến đây với em.
- Tôi phiền cái chuyện này! Cái gì ở đây làm cho cô thích?
Ông khoát tay chỉ chuồng chó, chuồng gà...
- Em yêu súc vật!
- Súc vật nhồi rơm, đúng!
- Sao anh lại có thể tầm thường thế!
- Thế mũi cô cũng thích chứ? - Giọng ông lên cao một cách nguy hiểm.
- Mùi nào?
- Mùi cứt! Cô ngạt mũi à?
- A!... Anh muốn nói đến cái nước phân rãnh ấy ư? Em thấy nó hấp dẫn...
- A! Được...
Cơn giận khùng vờ thắt cổ họng ông. Một thứ màu tối sầm kéo qua trước mặt ông và cây cối, gà vịt, nụ cười thách thức không thể chịu nổi của Irène, ánh lấp lóa đen đen của cái ao hôi thối, những con gà mái, những con chó và cái váy trắng tinh đang nhạo báng ông kia, tất cả nhòa đi lẫn lộn vào trong một hình ảnh nhảy nhót. Rất nhanh, ông xấn đến bên cô:
- Ở được vì cô thích nó mà!...
Ông nắm lấy cổ tay vợ, xoay người đi, khiến cô buộc phải xô theo nếu không thì gãy tay. Cô giằng co một chút, cố lấy lại thăng bằng cho đôi giày quý của cô đang bị trượt. Khi Kallenberg buông cổ tay cô ra thì cô cứ một mình tiếp tục cái đà lao thẳng xuống hố nước phân mà mặt váng như vỡ tóe ra dưới sức nặng của thân hình cô. Hốt hoảng, những con vịt biến mất, chạy lắc lư, kêu khàn khàn váng lên. Các con lợn cũng lảng ra.
Khi đứng lên, động tác đầu tiên của Irène là lau chùi mặt và mắt. Cô đứng ngập đến tận thắt lưng, những cục lổn nhổn đen nhờ nhờ trên tóc, người khuôn vào trong một lớp vỏ vàng ánh của cứt tan loãng. Bộ váy Dior của cô, chẳng một chỗ nào nguyên. Kallenberg đứng im, hưởng no nê cái cảnh tượng ghê gớm choáng ngợp lên bởi mức độ dữ dội của cơn khoái cảm mà ông tìm thấy được ở trong đó. Ông không còn cả thì giờ để nghĩ đến Irène sắp sửa có những phản ứng gì, thì cô đã lắc mạnh người, chìa tay lại phía ông và cầu khẩn bằng một cái giọng hoàn toàn tự nhiên.
- Thôi, đỡ em nào! Ít nhất anh cũng có thể chìa tay ra cho em chứ!
Ông không chìa. Pho tượng sống bằng cứt, Irène vẫn nói:
- Sao anh lại có thể đù đờ thế nhỉ?... Người ta không có chết vì cứt đâu, anh biết đấy!
Cô đi ngang qua trước mặt ông và ông khẽ lùi lại, sợ một cái bẫy của cô. Nhưng không. Cô đi về phía tòa nhà, cười phá lên chân thành mà nói với ông:
- Ngốc, đứng im đấy! Anh vừa cho em cơ hội thử các nhà vệ sinh và buồng tắm...
Cô để lại đằng sau cô một luồng thối khẳm.
Chú thích:
[1] Los Angeles: một thành phố lớn ở California - nước Mỹ.
[2] [3] Hai nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng thế giới.
[4] Âm giai, thường gọi là gam, theo âm tiếng Pháp.
[5] Nguyên văn: Jet-set giới kinh doanh lớn có tính quốc tế đi lại hàng ngày trên máy bay phản lực.
[6] Dior: nhà may y phục nữ và đồ mỹ phẩm rất nổi tiếng của Pháp.