← Quay lại trang sách

Chương 13

Herman Kallenberg và phu nhân xuống sân bay New York lúc mười một giờ. Trưa, họ bước vào đại sảnh của khách sạn Carlyle. Một giờ, các tác phẩm hội họa luôn luôn đi theo Herman trong các chuyến du lịch được treo lên những bức tường của dãy phòng ông ở - một bức Đức mẹ đồng trinh của Raphaël, bức Lucrèce nhỏ xinh của Cranach, một bức chân dung tự họa của Rembrandt, một bức Cánh đồng ô-liu của Van Gogh, thay thế xứng đáng cho một bức thật của Canaletto và một bức giả Géricault vốn đang trang trí cho hai gian phòng. Một giờ rưởi, Irène quyết định rằng các tấm thảm và đồ đạc kiểu vua Louis 15 của nơi cô ta ở có một ảnh hưởng không hay đến tinh thần cô ta, đòi lập tức thay chúng ngay bằng thảm và đồ đạc Anh. Ban giám đốc khách sạn rụt rè can gián rằng việc đó mất thì giờ thì “Con yêu râu xanh” chõ vào. Trong nơi công cộng, ông chú ý tỏ cho thấy rằng mỗi ý thích ngông cuồng của vợ ông dù nhỏ nhặt đến đâu cũng là một mệnh lệnh. Vậy nên ông phụ họa với vợ để cho mọi thứ đều được thay đổi xong trước bữa tối, không kể gì mấy đến số người huy động hay giá tiền của cuộc biến hóa.

Sau cái điều ông đã làm với Irène trước đây hai hôm ở bờ sông Tamise thì ông phải như thế chứ.

Hai giờ chiều, công nhân và người trang trí ập vào đầy cả dãy buồng để làm rình rịch, trong khi người tài xế đưa Irène đi trong chiếc Rolls, mua sắm ở cửa hàng Jack Hanson rồi nhào đến hiệu Alexandre để sửa sang đầu tóc. Về phía mình, Kallenberg đến một nhà tắm hơi, không xa Quảng trường trung tâm, nơi ông đã có những thói quen ở đó.

Bây giờ, không hề hẹn báo gì nhau, hai vợ chồng xuất hiện ở đại sảnh khách sạn Carlyle. Hớn hở, ông giám đốc khách sạn đến gặp để đưa họ lên tận chỗ ở của họ.

- Tôi nghĩ là ông bà sẽ hài lòng... Ông bà sẽ thấy.

Quả nhiên, không nhận ra được dãy phòng nữa. Do những bàn tay bậc thầy treo, các bức tranh dầu của Kallenberg được tôn giá trị bằng những đèn rọi chiếu lia mặt làm nổi bật tính cách của chúng lên. Irène tỏ ý tán thưởng những đồ đạc mới bằng những cái gật gù kín đáo. “Con yêu râu xanh” thốt ra vài câu “Tốt... Tốt...”, con mắt hài hỉ nhìn thoáng lên những bó hàng tú ụ đặt bày đây đó, chai “Bà góa 47” mát lạnh ở trong cái xô bằng bạc...

Ông giám đốc ưỡn ngực khoan khoái. Bày dọn tất cả lại trong một thời gian ngắn như vậy thật là kỳ công. Kíp nhân viên của ông đã lật đảo tanh bành New York suốt chiều nay và bản thân ông đã vất vả cực kỳ để điều khiển và thúc nhanh công việc.

- Thế đấy ạ... - Ông kết luận - Bây giờ chỗ ở đã hợp ý ông bà rồi, ông bà có thể cho hay, đại khái thôi ạ, ông bà ở chừng bao lâu?

- Bốn mươi tám giờ - Kallenberg trả lời lịch sự - Ngày kia chúng tôi đi.

Một giờ sau khi làm nhục Tony, Peggy bấm chuông nhà Lindy Nut Bambilt - Tình bạn của họ quá lớn để cho họ không phải tuân theo một nghi thức nào. Trong trường hợp cần kíp, khi một người muốn gặp người kia, chỉ có một tiếng qua dây nói: “Mình đến” là xong. Bị lay động hơn cô tưởng, Peggy buông mình vào một chiếc ghế bành:

- Cậu có thể cho mình uống cái gì được không?

- Nghiêm trọng ư? - Nut vừa hỏi vừa lấy cốc và một chai scotch ở trong quầy rượu ra.

- Cậu có một mình thôi hả?

- Ừ, tại sao?

- Gus không có nhà?

- Không. Có chuyện gì thế?

- Ồ! Không!...

- Nói cho mình nghe nào!

Peggy đưa cốc rượu lên môi:

- Cậu thích cho đá không?

- Không, cám ơn, uống không đá được rồi.

- Kể xem nào...

- Cái thằng mặt nghệt ấy.

- Hắn đến à?

- Ù.

Nut ngập ngừng...

- Không... hay sao?

- Với hắn bao giờ chẳng không hay. Tớ làm phiền cậu không?

- Con ngốc...

- Đang lúc cậu sắp ly dị thế này mà...

- Tớ quen rồi...

Peggy mỉm cười và nhẹ người đi một chút: Nut là thế đấy! Không nổi cơn nổi cớ bao giờ. Chị người dài và dẻo, ba mươi, ba lăm tuổi, có thể hơn một chút. Dẫu sao không bao giờ chị nói thật tuổi ra với Peggy về phía mình Peggy cũng khá kín đáo để không khi nào hỏi chị điều đó. Ngay tình bạn vững chãi nhất cũng có ranh giới. Khi Nut đi đứng, người ta có cảm tưởng là chị múa. Một cái gì đó của con mèo, gò má cao, mắt mênh mông, trán gồ rộng, một dáng đi của phương Đông.

- Cậu uống nữa không?

- Nếu cậu cùng uống với tớ...

- Đồng ý. Cậu kể cho tớ nghe nhé?

Peggy cho Nut rõ đầu đuôi câu chuyện. Nut mở to mắt ra, thú vị:

- Không chứ? Cậu làm thế thật ư?

Cả hai cười phá lên.

- Thằng tồi tàn!... Nếu Scott mà biết rằng hắn đến nhiễu tớ... Này, chắc chắn Socrate đến dự chứ?

Nut nhìn cô, giễu cợt và nghịch ngợm:

- Nhìn tớ xem... Cậu nghĩ là thế nào?

- Đúng thế, tớ suýt thì quên bẵng mất. Đôi khi, tớ có lú đôi chút giữa tất cả cái vị người yêu và chồng cũ của cậu.

- Socrate thì khác. Không phải chồng cũ cũng chẳng phải người yêu. Hơn cả thế!

- Tại sao không lấy ông ấy?

- Sao lại không? Một ngày nào đó, nếu có thì giờ.

- Scott bướng như một con lừa. Anh ấy chẳng muốn biết một cái gì để gặp ông ta cả.

- Anh ấy kỵ ông ta cái gì?

- Hình như ông ta bị kẹt ở Mỹ.

Nut gật đầu mỉm cười:

- Từ cái ngày người ta cố chẹt ông ta... Đó là một con người lạ thường, cậu biết không. Nếu như mà cậu hiểu rõ ông ấy... Vả chăng, tớ không thích thế, cậu lại mê ông ta mất thôi.

- Cậu nghĩ thế! Tớ đáng tuổi con ông ấy!... À, xin lỗi...

Peggy vừa sực nhớ rằng nếu Socrate vào cỡ năm mươi tuổi thì Gus, chồng Nut, sắp bước vào tuổi bảy mươi hai.

- Không phải xin lỗi, cậu nói đúng cơ mà. Mới lại, có quan trọng gì cái ấy chứ?

- Cậu hiểu không, có rất nhiều người cấp tiền cho Scott. Sao chứ, ông ta giàu như thế thì tại sao không là ông ta?

- Tại sao lại không, ừ...

Qua cửa kính rộng của gian nhà, người ta trông thấy cây cối của quảng trường trung tâm, mãi xa bên dưới, ở một độ sâu không ngờ nổi.

- Cậu biết không, chính trị và tiền, cũng như tiền và sắc đẹp, luôn luôn là gắn bó, hòa hợp với nhau.

- Scott giàu lắm.

- Hẳn rồi, nhưng cậu không biết việc đó tốn kém cho anh ấy biết bao nhiêu. Trên thế giới này không có một tài sản tư nhân nào có thể trợ cấp cho tài chính của một đảng chính trị được đâu! Một cái vực không đáy! Vì đảng Cách Tân mà đã ngốn bao nhiêu triệu đô-la rồi đấy!

- Tại sao cậu lại thiết đến cái việc Scott leo lên như thế?

- Kìa, anh ấy sinh ra là để vĩnh viễn làm người đứng đầu mà! Cậu không biết anh ấy! Anh ấy đẹp, anh ấy tuyệt vời, anh ấy thì... không ai mà cưỡng lại được nổi! Nếu cậu nghe anh ấy nói những cái điều mà anh ấy ôm ấp ở trong lòng nhỉ... Trước mắt anh ấy cần đến một người, nhưng sau này thì... Cậu sẽ thấy!... A, thôi được, vì cậu chắc chắn là Socrate nhất định đến...

- Cậu không tin hả?

- Mình rất muốn hai người gặp nhau! Họ sinh ra là để trở thành một đôi bạn.

- Đừng lo, ông ấy sẽ đến. Cho dù ông ấy không vì tớ mà đến chăng nữa thì ông ấy buộc phải đến vì Gus. Ông ấy cần đến Gus trong công việc.

Peggy đánh bạo hỏi:

- Còn Menelas... cậu có bảo với ông ấy không?

- Nghe này!... Tớ đã bảo cậu là có rồi... Tối mai, ở ngay chính tại đây, sẽ có đủ mặt giới sang trọng thượng lưu của New York. Cả đời chưa bao giờ cậu lại gặp một sự tập trung những chủ tàu, những chủ dầu mỏ trên một mét vuông như thế đâu.

- Ly dị cậu có buồn không?

- Chà!... Không, tại sao?

- Thật là cậu đã quen rồi đấy... Thế với Gus, thì cậu xử lý thế nào?

- Là thế nào chứ?

- Nói cái việc chia tay ấy... Trợ cấp sinh hoạt này nọ...

- Không xoàng tí nào. Ngày cậu chán Scott, cậu hãy tìm tớ, tớ sẽ cho cậu những vở để cậu ra đi không phải là với hai bàn tay không.

- Scott ấy ư?... Làm gì có chuyện đó! Tớ yêu anh ấy!

Nut bĩu môi:

-... Nếu trí nhớ tốt thì hình như tớ đã nghe cậu nói câu ấy nhiều lần lắm rồi đây...

- Đúng, nhưng tớ khác! Tớ không có kinh nghiệm như cậu...

- Mai cậu hóa trang thành gì?

- Bí mật!... Thế cậu?

- Bí mật!

- Cậu bây giờ lại giữ kín cả với tớ nữa?

- Thế cậu thì sao?

- Ôi Nớt!... Tớ yêu cậu! Tớ phải ôm hôn cậu đây!

Scott ngại gặp mẹ để nói với bà rằng anh muốn cưới Peggy làm vợ, tuy anh cầm tinh vì sao chủ về những quyết định thô bạo. Không phải vì bản thân anh thừa nhận bạo lực mà vì bạo lực là truyền thống trong gia đình anh, những cái chết đột ngột, và những đòn dùng đến sức mạnh, sự quá khích ở trong mọi cái, trong tài sản, trong lòng khinh bỉ kẻ khác, trong nỗi thèm khát gắt gao quyền lực, trong tình yêu vô hạn độ đối với mọi thành viên của dòng họ. Bản thân tôn giáo cũng được thực hành một cách hung dữ, đôi khi dùng làm lưỡi búa phạt ngã kẻ thù - tức là những người khác mình. Ông bố anh, Alfred Baltimore đã quyết định như thế đó. Alfred Baltimore Đệ nhị đã nối dõi cái chủ trương đó của bố mình, Steve Baltimore đệ nhất. Tôn chỉ của họ Baltimore, không hề úp mở: “Chúng tôi trước đây!”.

Hơn một nửa thế kỷ thực hành tôn chỉ đã đưa thế hệ thứ ba đến ngưỡng cửa giấc mơ của người ông: Nước Mỹ được con cháu ông cai trị, chúng trở thành Quốc vương tuyệt đối ở trong một cái nền dân chủ thực tế chỉ là về lý thuyết mà thôi. Từ lâu, trước khi anh ra đời, Scott đã phải gánh lấy tất cả những dục vọng kia, những dục vọng mà anh là người được giao phó cho việc thực hiện. Để cho anh đạt tới chỗ đó, người ta đã không tiếc một thứ gì hết.

Trước anh ta, hai người anh lớn, Williams và Louis đã được nuôi dạy trong cách nhìn nhận này. Williams bị chết trong chiến tranh, ở Pháp, chết thui trong chiếc xe tăng bị rốc-két Đức nã trúng. Louis thì tan xương trên mặt đất, vô vị, bởi thách nhau, do đã muốn mở rất chậm một cái dù đến phút cuối cùng không muốn mở một chút nào hết. Về phần Steve Baltimore, vị tộc trưởng sáng lập nhiều triều đại, ông ta vững chãi quá đến nỗi cơ hồ ông ta thù địch với cái chết hay bệnh tật. Ông ta đã trải qua cơ man nguy hiểm và đã luôn luôn chiến thắng, cho đến ngày, mặc dù chung quanh ngăn cản, ông ta nhất quyết tự tay chặt những cành cao nhất của những cây bá hương che rợp mất nhà ông ta. Lúc ấy ông ta tám mươi hai tuổi.

Khi ông tuột từ ngọn cây xuống, người ta nâng ông dậy, gẫy giập không sót chỗ nào, rơi vụn thành nhiều miếng. Người ta ngỡ ông chết: Đó là hiểu sai lệch ông ta. Ông ta đã sống thêm hai năm nữa, bại liệt trong một chiếc ghế bành nhưng vẫn phát mệnh lệnh đều.

Không bao giờ Scott tự hỏi xem những ham muốn của anh là gì. Thật ra, không tự đặt ra câu hỏi đã là cung cấp cho mình câu trả lời: hoàn toàn nghĩ rằng mình được tự do lựa chọn cuộc sống của chính mình, Scott đã sống cái dục vọng thống trị của những người khác, bằng cái tên của anh cho họ mượn.

Anh ta mới đến tuổi hiểu biết, bố anh đã nhồi mớm cho anh: “Scott, con trai bố, một ngày kia con sẽ cai trị đất nước”. Sau này, anh nhận ra rằng hai người anh đã chết của anh bản thân họ cũng từng nghe bài hát này rồi. Và cả ba đứa em của anh. Scott không thấy phật lòng vì thế. Cái cần là một người trong bọn họ, bất kể ai, đạt được tới những danh dự tối cao để cho ngần ấy công sức cố gắng không hề bị mất uổng. Những người khác sẽ nối gót theo. Cho nên anh thấy là bình thường cái việc đời anh chỉ là một chuỗi dài những tập dượt nhằm chuẩn bị cho anh cầm quyền, chờ cái ngày hay cái giờ ấy điểm. Trong trường hợp anh gặp điều bất hạnh thì ba đứa em anh sẽ sẵn sàng thay thế.

Để tăng thêm những cơ may của dòng họ, ông bố anh đã thiết tha với việc vợ ông đẻ càng nhiều càng tốt. Hai người đã cho ra đời mười một đứa con, tám trai ba gái. Năm con đã chết, bốn trai, một gái, Suzan, phát hiện ra là chết đuối năm mười hai tuổi, trong một cuộc câu cá ngoài biển, khi tàu trở về bến giữa đêm khuya khoắt và người ta ngỡ rằng nó đang ngủ ở trong buồng của nó. Biển không bao giờ trả lại thân xác nó. Về hai đứa con trai khác, John và Robert, thì một bị viêm màng não chết năm tám tuổi, một tự bắn vỡ sọ năm mười bốn tuổi trong khi bất cẩn chơi với một khẩu súng nạp đạn.

Một cách nghịch lý, đáng lẽ làm cho những người còn sống suy sụp thì những bất kỳ tử này lại có phần kích thích họ như ma túy. Hình như họ lại thu về cho họ nghị lực của những người đã khuất, vì niềm vinh quang to lớn nhất của gia đình, chẳng khác gì cái cây người ta tỉa bớt cành lại chỉ nhờ có thế mà trở nên đẹp hơn, khỏe khoắn hơn.

Sau lần sinh nở thứ mười một, bà mẹ của Scott, Virginia cho rằng bà đã làm tròn nghĩa vụ mà chồng bà trông đợi ở bà, quyết định từ nay sẽ chia cuộc sống của bà cho tôn giáo và việc dạy bảo tất cả những kẻ thừa tự hương hỏa, không khấu bớt vào thời gian của bà, kỳ hạn đẻ ra những đứa khác. Trong mắt bà, các tang tóc bà nhận chịu chỉ là những thử thách do Chúa gửi đến để tăng cường lòng quyết tâm và tính quả cảm của bà. Là người đàn bà thép bà tin rằng bà chỉ sinh ra những con người thép. Bà ta đã dạy cho chúng từ rất sớm biết có tồn tại đau khổ nhưng nếu người ta vượt qua đau khổ thì lẽ thường tình là phải coi khinh đau khổ. Bà ta cũng cho chúng biết rằng những người khác, tất cả những người khác không cùng máu mủ với chúng, đều không thể bằng vai phải lứa được với chúng.

Bà ta còn dạy bảo rằng cần phải biết đến thất bại và chế ngự nỗi đau của chính bản thân để có thể chịu đựng tốt hơn nỗi đau của kẻ khác. Để ăn cho ngon miệng trong bữa cơm, bà dẫn ra câu của một nhà văn bà chỉ biết là người Pháp chứ không biết đó là Chamfort: “Trái tim cần phải tan vỡ hoặc là sắt đá lại”. Ở nhà Baltimore nghe một lần thì hiểu mãi mãi lấy rằng sự sắt đá phải là có tính di truyền. Còn về quả tim của Virginia, nó đã bị quấy rầy, phiền nhiễu quá đến mức một người quan sát không rõ sự thể có lẽ sẽ ngạc nhiên thấy cái mẩu da cũ kỹ này hãy vẫn cứ còn đập. Vậy mà từ hai năm nay, với một tinh thần tận tuy một cách máy móc, bà đã hết lòng hết sức cho chồng bà, Baltimore II, người chồng bà gọi là Fred ở trong gia đình thâu kín, là Alfred trước mặt quân hầu đầy tớ, là ông Baltimore ngoài xã hội.

Bố của Scott bị ung thư ở cổ họng. Sức chống cự của ông ta mạnh đến nỗi ông ta sống sót được với ba kỳ chiếu tia phóng xạ hàng tuần, trong khi một con ngựa khỏe khoắn thì có lẽ đã gục quy mất rồi. Bệnh này để cho ông ta một cái sẹo ở cổ, ở chỗ lần đầu tiên người ta đã mổ để diệt những di căn. Ông thành thói quen mang những cổ áo sơ-mi cao quá cỡ để che đi vết sẹo. Mấy tháng nay, ông ngày một nói khó khăn hơn. Người ta nói chuyện với ông phải ghé tai vào miệng ông mới nhận thấy nghĩa của những nhị trùng âm rít xé lên kia, những âm không bao giờ là câu hỏi mà chỉ là những khẳng định hay mệnh lệnh. Đôi phen, khi người nói chuyện với ông ta cất cao giọng lên một cách bản năng để cho ông ta nghe được rõ thì Alfred liền bảo người đó, như kiểu tâm sự rằng chắc chắn ông ta nói năng có khó khăn đấy nhưng ông ta không có điếc. Những lời trao đổi thầm thì này cho thêm vẻ bí ẩn vào con người đồ sộ có bộ tóc màu xám thép, cùng màu với mắt của ông kia. Người ta thường xuyên có cảm giác ông là người nắm giữ những bí mật mà ông thì thào vào tai mình, ngay cả khi đến phút cuối cùng, người ta vỡ lẽ ra rằng ông nói: “Ngày mai đẹp trời đấy”.

Ông ta cứng rắn và tàn nhẫn nhưng biết tỏ ra có thiện ý lúc cần, thực hành cái định lý của dân gian Tiệp Khắc: “Nếu kẻ thù của mày mạnh hơn mày thì mày hãy nắm chặt lấy cái búa rìu chiến trận và làm cho hắn thành ra đồng minh của mày”.

Hình như nước cờ đáng sợ của chính trị nước Mỹ cứng rắn lên chừng nào, lại càng cho ông ta được vùng dậy trong những yếu tố ưa thích của ông ta - tính hai mặt và bạo lực - chừng nấy. Ngay cách tiếp người của ông ta cũng ngỗ ngược. Vợ ông và ông bắt những người khách lạ phải chịu một cuộc thẩm vấn đúng quy cách, và căng gắt như một cuộc điều tra của cảnh sát: “Ông là ai? Ông làm gì? Vị trí xã hội của ông thế nào? Ông có vợ chưa? Từ bao giờ? Ông kiếm được bao nhiêu tiền? Ước vọng của ông là gì?”.

Nếu các câu trả lời có vẻ không thích hợp với mình thì ông và bà Baltimore bỏ mặc khách của mình vất vưởng ở đấy, không đoái nhìn một lần nào nữa, điều làm cho Scott, mềm mại hơn, hết sức khó chịu, khi đó là chính bè bạn của anh.

Ngày nay, dòng họ lặn ngụp trong giàu sang, anh đã thầm hỏi bằng cách nào mà ông anh, lão Steve, lại có thể vun quén được cái hạt nhân đầu tiên của cái gia tài khổng lồ này? Một tờ báo đối lập - đối lập với họ Baltimore - đã viết rằng gia tài đó có những nguồn gốc đáng ngờ, một mùi vị nào đó của súng đạn và rượu cồn buôn lậu. Ông tộc trưởng, khi ấy đang độ sung sức, liền đơn giản mua quách tờ báo, toàn bộ trụ sở, bộ biên tập, nhà in và máy móc ngay trong tuần sau. Tiếp đó, ông ta đuổi việc tất cả nhân viên, ồ ạt một lúc, trừ tác giả bài báo vì để hành cho khổ, ông ta đã giữ lại trong tay. Ông đã giáng anh ta từ chức thư ký tòa soạn xuống làm công việc tin tức chung nhưng cứ nhiều lần cho anh ta vay nợ như thường.

Khi cảm thấy anh ta đã chịu oai chịu phép mình hoàn toàn rồi, ông nhét anh ta vào chơi không ở ban thư ký của bộ biên tập rồi điều về một công việc quảng cáo lờ mờ, trước khi tống cổ anh ra khỏi cửa với lý do anh hay uống rượu. Trong khi đó Steve Baltimore đệ nhất đã gây sức ép với những chỗ quan hệ với ông để cho không ai nhận anh ta vào làm việc. Không công ăn việc làm, anh nhà báo không thể trả được các món nợ. Lúc ấy, chắc chắn là tiếc của, nhưng nhằm một mục đích tự nhiên về luân lý, Steve Baltimore đệ nhất phát đơn kiện và người ta đã vứt anh kia vào nhà tù. Scott không phải luôn luôn tán thành những phương pháp này, nhưng trong thâm tâm anh không thể không bái phục sự hiệu nghiệm của chúng. Vả nữa, người ta không hỏi ý kiến anh. Năm hai nhăm tuổi, khi anh được trúng cử nhờ tiền triệu quẳng ra, bố anh đã bảo anh:

- Trong chính trị, vở hay là đừng có mang cái bộ mặt một thằng làm chính trị.

Scott chuyên tâm vào điều đó, như chuyên tâm vào mọi cái anh làm; được cái, tạo hóa đã giúp anh rất nhiều. Hình dáng sinh viên lành mạnh và to khỏe của anh, với nụ cười ngay thật gần như ngây thơ, tự nhiên buộc người ta có thiện cảm, ở đàn ông thì thiện cảm vì hình như anh trung thực lồ lộ ra mặt, ở đàn bà thì anh luôn luôn có vẻ bối rối, tựa hồ đang cầu xin giúp đỡ gì đây! Nhưng mới mười lăm tuổi, con mắt màu lơ của Scott chỉ một phút đã tóm bắt được cái gì quan trọng, cái gì không ở trong trang báo khô khốc cằn cỗi của tờ Thời báo tài chính. Mẹ anh ta, Virginia đã muốn như thế; vì con trai, bà tổ chức những bữa ăn mà tất cả giới thượng lưu ở Washington có một trọng lượng trong kinh tế hay chính trị đều đã được mời tới dự. Với một nụ cười con trẻ và cái vẻ xin lỗi, cậu con trai mặc quần cụt thực tế đã lên lớp cho các bậc quyền uy ngân hàng, tung hứng với những con số, lao vào những lý thuyết lòa chói về lợi nhuận, giá trị luân lý của lợi nhuận và những cách giữ gìn nó một khi đã thu được nó. Bố anh từng phải hãm anh ta lại:

- Chớ lộ ra cho thấy cái con hiểu. Nếu con có vẻ láu quá thì người ta sẽ nghi ngại con. Con muốn gì con cứ làm, nhưng hãy cho người khác có ấn tượng rằng họ điều khiển hành động của con. Con sẽ không bao giờ có được quyền lực nếu không có vẻ ngu ngốc tí chút... Hãy làm cho người khác yên tâm... Hãy làm cho người khác yên tâm...

Khi anh còn rất trẻ, Alfred đệ nhị cũng đã căn dặn anh phải che phủ lên các hành động của anh bằng một động cơ luân lý, nhân đạo hay từ thiện:

- Con hãy luôn luôn cho những người mà con loại trừ có ấn tượng rằng họ hành động cho lợi ích chính họ. Nếu con đuổi một người cộng sự thì con bảo hắn là tài sản của hắn vượt quá sức công việc con làm. Khi con dồn một công việc cạnh tranh đến chỗ phá sản thì con lại nắm lấy nó vào trong tay với lý do là con không thể để nhân viên ở đấy thất nghiệp được.

Scott thấy cái việc người ta có thể ranh ma được thế là hay. Hơn nữa là anh chỉ nhìn thấy ở trong những hành động đó cái khía cạnh chơi bời mà thôi, tựa như anh chơi bạc ở Monopoly vậy. Nhưng có ai chơi bạc để thua đâu? Thời ấy, anh muốn làm nhà văn. Đó gần như là cái trò trẻ con mà người ta tha thứ cho anh, và anh không hề bao giờ bị một lời bình luận nhỏ nhặt nào về chuyện ấy. Virginia và Alfred cho rằng một đứa thanh niên xuất sắc đến như vậy thì rất có thể mắc phải một thiếu sót, lỗi lầm. Khi cậu ta làm Tổng thống Liên bang, vào khoảng những năm 1961, cậu ta sẽ có thể thảo lấy các bài diễn văn của cậu ta, nếu như văn chương vẫn cám dỗ cậu ta và chức trách của cậu ta cho cậu ta thì giờ rảnh rang làm cái chuyện đó. Nhiệm kỳ của cậu ta sẽ dẫn đưa cậu ta đến tận năm 1969! Sau đó Peter sẽ thay thế vào ghế Tổng thống từ năm 1969 đến năm 1977 và đứa em trai trẻ hơn, Stephen sẽ nắm quyền tiếp từ năm 1977 đến 1985. Điều khiến họ có thừa thãi thì giờ chuẩn bị cho Christopher, đứa con trai thứ tư, nhận lấy nhiệm vụ quan trọng hơn nữa, bởi vì từ đây đến đấy, chủ nghĩa dân tộc sẽ nhường chỗ cho một tổ chức thế giới trung ương mà Christopher là người được chỉ định tất nhiên để lãnh đạo nó, vào đầu thế kỷ 21 này. Rồi người ta sẽ lại xem sau nữa...

Alfred điều giải hoàn toàn khách quan một trăm mạng sống, không thất vọng với cái việc một ngày kia sẽ thấy những đứa con của các con ông nắm trong tay những số phận của hành tinh Quả đất.

Scott xem đồng hồ. Anh sợ muộn nên yêu cầu tài xế lái nhanh lên. Tuy anh kính yêu mẹ, mẹ anh vẫn luôn luôn làm cho anh sợ sệt đôi chút. Đôi khi bà có cách nhìn khiến anh trở lại thằng con bé bỏng, cảm thấy rằng bất kể số phận và quyền lực của anh thế nào, anh cứ là lên sáu tuổi đối với bà, lúc mà bà muốn anh như vậy. Bà sẽ đón cái tin này ra sao nhỉ? Những tình cảm Thiên Chúa giáo cuồng tín của bà có hợp được với một cuộc hôn nhân giữa anh và một cô gái thuộc xã hội ưu tú nhất, chắc chắn là thế, nhưng lại quá xinh đẹp một chút, quá ăn chơi một chút không đây?

Bản thân Scott đôi khi cũng bị nản vì cách hành động của Peggy. Rõ ràng anh đã mắc phải sai lầm đầu tiên bằng việc vô tình nuốt lời, sai hẹn với cô. Hai ngày sau buổi họ gặp mặt nhau, anh đã không đến nơi hẹn anh đã định. Những cử tri phải lựa chiều đối xử, những mẹ lắm lời ở Jefferson City phải phỉnh tán lấy lòng, những thị trưởng ở Missouri phải thuyết phục, và cái kíp người của anh, mệt phờ, đang vật nài xin anh ở lại thêm một ngày nữa tại vùng thái ấp quan trọng này. Trò xiếc thường lệ quen thuộc chứ gì đâu... Mặc dù bận sôi lên, anh đã cố nhờ một cô thư ký gọi đến cái hiệu ăn mà hai người phải gặp nhau, hiệu Barbetta. Nhưng cô gái không gọi được cho New York. Dẫu sao thì đó là lời cô ta bảo như thế trong khi bôi lại son trên móng tay. Đã gần mười một giờ tối và anh vẫn chưa ăn uống gì, anh bèn thôi. Thế mà hai tháng sau, anh ngạc nhiên đọc trong tờ Bazaar bài báo cô viết về anh.

Làm thế nào cô có thể nắm được sự thật khá sít sao đến như vậy mà trong thực tế cô chẳng có cả thì giờ để hiểu biết anh? Bài báo không công không phạt đối với anh, thỉnh thoảng nhuốm đôi chút giễu cợt, thế thôi. Anh đã gửi lời cám ơn cô, nhưng không được trả lời bao giờ cả.

Sáu tháng đã trôi qua mà anh không gặp lại cô. Cho đến cái tối họ đối diện nhau ở Washington tại nhà John Feydin. Feydin là một bạn hẩu của Scott, giữ mục chính trị ở tờ Herald, anh có cái năng khiếu đi trước những sự kiện tuần sau bằng những bài viết của mình. Bố mẹ anh và bố mẹ Scott có nhà cạnh nhau ở Florida và hai cậu thiếu niên quen nhau, kết bạn với nhau tại đó. Rồi John lấy Monica, một mụ mối hăng máu mà trò tiêu khiển là tổ chức tại nhà mình những cuộc gặp gỡ nhằm nảy hoa nở trái trong cái sự hôn nhân.

Hiển nhiên là Monica và John trong những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi đã thường nói với Scott về Peggy và với Peggy về Scott, trong khi cả hai không có vẻ gì đặc biệt chú ý tới.

Peggy đang còn qua cái buổi tối của cô với cả loạt những đại biểu, Bộ trưởng hay Quốc trưởng. Còn Scott thì các cô gái của Hội người Mỹ đánh lộn tranh giành nhau để được chim chuột với anh. Ở mức độ này, chẳng ai trong hai người lại chịu để cho các quan hệ hay bản ngã của người kia tác động đến bản thân mình làm gì.

Tối ăn cơm ở nhà Feydin, hai người gặp lại nhau rất lạnh nhạt, một cách duyên dáng. Peggy làm cho Scott cay cú; về phía cô thì tạm gọi là lịch sự vào lúc chào hỏi. Bực bõ, anh nhảy ra làm một chứng minh chính trị nảy lửa mà Peggy, trong nỗi thất vọng của Monica, chẳng nghe thấy một câu nào - Cô ta bận với một cặp nhân tình đang thì thầm tâm sự. Thỉnh thoảng cô ta bật lên cười khe khẽ. Đến giờ ra về, Monica lại tấp tểnh hy vọng thấy Scott nói nhỏ một lời vào tai Peggy. Hồi hộp, cho rằng mọi sự chưa phải đã sụp đổ, chị thấy Peggy trả lời anh. Quả vậy, Scott đã nói rõ rằng:

- Cái tối phải đi gặp cô, tôi bị kẹt ở Jefferson City. Tôi đã nhờ gọi dây nói cho cô...

- Thật ư?

- Thật! Bài báo của cô rất hay! Tôi nợ cô một lần trả đũa.

- Bằng gì?

- Một cốc rượu. Ở chỗ khác. Ngay lập tức, bây giờ, bây giờ! Đồng ý? Ta bỏ rơi họ nhỉ?

Peggy ngập ngừng một thoáng:

- Đồng ý. Anh ra tìm tôi ở ngoài xe, cái Lincoln đen.

Điều mà Scott làm mười phút sau để cho mọi người không thấy họ ra cùng. Khốn thay, Peggy lại không một mình ở trong xe. Cạnh cô có một người trẻ tuổi đang cầm tay cô và cười với cô. Đó là - sau này Scott mới biết rõ - một người bạn nhận ra xe của cô gái đã ngồi lên trên đó để cho cô ngạc nhiên. Nguội lạnh đi, Scott liền quay gót. Peggy tuy đã trông thấy anh, cũng không làm được gì để giữ anh lại!

Họ chỉ thấy nhau một năm sau, cùng được mời đến nhà Monica bởi chị ta chưa hề từ bỏ ý định của mình. Lần này, tình hình ngược trở lại. Chưa quên Scott, Peggy đã chăm chú nghe những điều anh nói, ngạc nhiên trước cái hoài bão toát ra từ người trẻ tuổi.

Lúc bấy giờ, Scott đang sửa soạn tung hết lực lượng của mình vào trong trận đấu đối lập của anh với một trong những nhân vật bảo thủ kỳ cựu nhất của vùng Tân Anh Cát Lợi. Để đơn giản sự việc, anh cố ý không chạy vạy sự ủy nhiệm của bất cứ đảng phái chính trị nào, mà tự anh lập ra đảng, đảng Những người cách tân, dĩ nhiên là do anh đứng đầu. Tài diễn thuyết của anh và tài sản họ Baltimore làm nốt phần còn lại. Rõ ràng người ta không chắc anh có nhiều cơ may đánh bật nổi lão Palmer ra khỏi ghế của lão, nhưng Scott cho rằng vai trò người đứng bên ngoài cuộc của anh có thể tạo nên được sự bất ngờ. Cuối bữa ăn, Peggy lại bên anh:

- Tôi cho rằng tôi nợ anh một lời giải thích về cái cách mà chúng ta rời nhau lần trước.

Tươi cười và tự tin, Scott bảo lại:

- Disraeli đã nói: “Chớ có bao giờ giải thích”.

- Tôi không phải là Disraeli và tôi rất sẵn sàng cầm cốc rượu anh muốn mời tôi cách đây một năm. Nếu lời đề nghị vẫn nguyên vẹn thì tôi đợi anh ở trong xe của tôi.

- Tôi ra tìm cô đây.

Anh ta đã không ra hay đúng hơn là anh ra muộn. Tình cờ bị một người khách giữ lại, anh lại phát triển một lần nữa cái đề tài duy nhất mà anh say mê lúc bấy giờ: làm thế nào cầm quyền được? Bên ngoài Peggy tức sùi bọt mép. Chừng nửa giờ, điên lên vì giận và nhục, cô cài số xe và phóng vụt đi.

Một giờ sau, khi Scott từ biệt vợ chồng Feydin, anh tìm mãi không thấy xe của Peggy. Không thấy cô ta, anh quay lại nhà bạn mình để hỏi họ số máy nói của cô ta. Anh để nó vào trong túi, quên bẵng và tám ngày sau, khi anh muốn gọi cô để xin lỗi thì anh không thể tìm được ra nó. Cuối cùng, khi anh có số máy nói của cô, người ta trả lời anh rằng Peggy đang ở châu Âu và chưa trở về trước hai tuần. Anh mở sổ tay tính hai tuần kể từ hôm ấy và viết, bằng lối viết rộng thoáng của anh: “Gọi dây nói Peggy Nash Belmont”. Mặc dù cường độ của chiến dịch vận động ứng cử của anh, một cuộc gặp Peggy, đối với anh, thình lình xem ra quan trọng.

Khi cô trở về, họ gặp nhau, nhưng thất thường, thưa thớt, cho đến phút chót không bao giờ biết rõ rằng liệu cuộc gặp của họ có bị anh hoặc cô hủy bỏ đi mất không. Anh yêu cái trán bướng bỉnh, đầu óc thực tế, bộ tóc đen và những câu trả đũa nhanh như chớp của cô. Cô ta yêu anh đã sao lãng cô vì sự nghiệp - Cái gì là điềm báo hiệu tốt cho tương lai thì tại sao lại không nghĩ đến nó? - Tính lơ đãng thường xuyên của anh, đối với tất cả những gì không liên quan đến một hiện thời trước mắt, màu lơ nhạt của mắt anh và cái cách anh cắt một lời độc thoại trong khi có vẻ như anh chẳng nghe gì nó cả. Anh có thức giác về kinh tế nhưng không về tiền tài, nhờ cái may là anh không bao giờ phải lo toan về chuyện đó. Cho nên thường thường là cô trả tiền ở các quán mà họ gặp nhau, anh ở giữa hai cuộc họp, cô ở giữa hai cuộc thử váy áo, khi anh lộn túi ra với cái vẻ tội nghiệp và không làm ai giận được.

Lần đầu tiên họ khiêu vũ với nhau, Scott thực sự ngạc nhiên nhận thấy anh đang không nghĩ đến chính trị. Người Peggy gắn vào người anh làm anh nhớ lại những đòi hỏi mà anh đã quên mất tính cách dữ dội của chúng. Cùng lúc ấy, có lẽ cô cũng nghĩ như anh. Giữa họ chỉ có một cái nhìn dài và một sự im lặng hoàn toàn. Peggy nắm tay anh, kéo anh ra ngoài, bảo anh leo lên xe mà cô cho anh cầm lái.

Không do dự, Scott đi về phía Đại lộ quảng trường, nơi cô có gian nhà ở đó. Trong khi đi, hai lần anh cảm thấy những cái móng dài cào nhẹ lên đùi anh, qua lần vải quần, vẫn không một lời, họ vào trong nhà và trao nhau cái hôn dài nhất trong lịch sử của mọi cái hôn. Peggy cởi váy - một thứ kỳ lạ dài dài, mỏng như khói, bằng mút-sơ-lin màu xanh lá cây dịu - cầm tay Scott đặt lên vú mình. Anh chẳng cần tìm giường ở đâu nữa, vật cô ta ra gần như ở trên mặt đất.

Hai giờ sau, anh rời tay ôm và nằm ngửa ra, cô ta ở bên cạnh, vẫn chưa một lời nào thốt ra từ lúc họ ở chỗ khiêu vũ về. Mắt họ gặp nhau. Mới đầu Scott tủm tỉm và cô tủm tỉm đáp lại. Rồi anh bắt đầu cười thật sự nhưng yên lặng, tựa như anh cố giữ. Peggy cũng cười như vậy. Thế là Scott không tự kìm được nữa. Anh cười rung người lên, không nhịn nổi, cái cười của người đàn ông hùng mạnh, khi mà tình yêu đáp lại là một thành công hoàn toàn. Peggy gập cả người lại cười với anh, hét lên, ngạt thở, mắt đầy nước mắt. Khi họ đã nguôi, Peggy muốn mở miệng nói. Scott liền đặt một ngón tay lên môi cô ngăn lại:

- Suỵt!... Ai nói trước thì nói một câu bậy bạ.

- Xong rồi đó, Scott... Anh đã nói rồi đấy thôi!

Họ lại bị một trận cười mới như điên cuốn lôi đi. Mãi sau Scott hỏi:

- Em muốn nói cái gì lúc này thế?

- Tận Manhattan, người ta cũng nghe thấy chúng mình đấy!

Thế đấy, tất cả đã bắt đầu như vậy. Scott muốn cưới Peggy và Peggy mơ ước được làm vợ Scott. Cô hình như hiểu mọi cái. Đôi khi, Scott đã gọi cô từ một quầy rượu của một vùng quê hẻo lánh, nơi anh vận động ứng cử, để hẹn gặp cô, tám ngày sau, tại chỗ nào đó ở Washington, trong vòng một giờ. Cô đã đến, không thút thít sụt sùi khi chia tay nhau, ở giữa hai chiếc máy bay, hai nhà ga.

Một cách nghịch lý, từng chịu đựng mọi cái từ phía một người con trai tham vọng, Peggy bắt đầu đã không để cho người trẻ tuổi này mà các mơ ước đang được cụ thể hóa thông qua một cái gì đáng kể nữa. Cô tỏ ra đòi hỏi, đặt sự nghiệp làm báo của cô - mà thành công là có thật - với những cố gắng Scott cung cấp cho cô để đi lên cao hơn nữa ngang nhau. Từ người yêu họ trở thành đối thủ, mặc dù Scott cố sức giữ cô ở bên cạnh càng nhiều càng hay. Có điều cô không còn rảnh rang như trước nữa, sẵn sàng hủy bỏ bất cứ cuộc hẹn gặp nào để có thể ở bên anh chốc lát, sau khi vừa mới đi qua hết nước Mỹ. Về phía anh, bị giữ trong một cơn lốc dữ dằn làm anh trở thành nô lệ của cái quyền lực mới nảy nở của anh, anh chỉ có thể xác nhận sự bắt đầu rạn vỡ kia mà không có thì giờ hay phương sách hàn khâu nó lại. Một hôm, sau sáu tuần không gặp cô, qua đài phát thanh, anh được biết cô vừa đính hôn với Tony Fairlane, một cậu ấm thừa hưởng của gia đình một bộ sưu tập kinh người những tác phẩm hội họa ấn tượng chủ nghĩa... Người ta nói hắn ngu và đẹp như nhau, hợm hĩnh và giàu sang như nhau.

Biết rõ Peggy của mình, Scott nhận ra rằng cô đã trả thù anh. Những thành công lớn nhất về chính trị của anh từ sau lần đoạn tuyệt này. Anh đã say sưa lao vào trận đấu bằng các ý tưởng và lòng phấn khích, anh đã tập hợp được hàng chục nghìn người gia nhập đảng của anh. Anh còn làm được cái gì khác nữa? Khi anh có một phút rảnh, vì vệ sinh, anh đè ra trong một bàn giấy một gái điếm do một người thư ký của anh tuyển hộ. Mặc dù đông đảo đàn bà vây quanh, anh dứt khoát không muốn tạo ra những mối quan hệ mới có khả năng tạo thành một cản trở hay một vết thương có thể có cho anh. Qua mục tin về xã hội thượng lưu, anh tỏ tường những cuộc xê dịch và nghỉ ngơi của Peggy; qua những nguồn thân tín, anh biết tên những người yêu mà người ta gán cho cô ta. Anh không tin mảy may một lời nào, không thể có chuyện cô ta muốn đặt ra khoảng cách ở giữa anh và cô ta được. Sau tất cả những cái đã xảy ra và cô ta, làm sao mà quan niệm nổi rằng một người khác, cũng hay ho như anh, lại có thể làm cho cô ta rung động được nhỉ? Từ nay về sau, anh không tuột mất cô nữa! Không bao giờ! Anh có thể thành công hay thất bại, nhưng phải là với cô ta...

- Thưa ông, chúng ta đã tới!

Scott lại trở về thực tế. Người tài xế vừa dừng xe ở trước ngôi nhà của Bà Mẹ.

- Liệu ông có ở lại lâu không ạ?

Scott đăm chiêu nhìn người tài xế: không hiểu cần phải bao nhiêu thời gian để cho môt đứa con báo tin cho môt bà mẹ thanh giáo, thấm nhuần các nguyên tắc rằng ba tháng tới hắn sẽ lấy một người vợ ở một hành tinh khác, đúng vào lúc các tham vọng chính trị cao nhất đang hứa hẹn với hắn, nếu như cuộc hôn nhân này không làm cho chúng bị sụp đổ tan tành?

Anh có một nụ cười kéo dài hình như khiến người tài xế ngạc nhiên. Scott muốn cho anh ta yên tâm.

- Không lo, anh bạn! Mình có một chuyện tiến thoái lưỡng nan như quận công Windsor...

Rồi anh nói thêm:

- Muộn lắm là mười lăm phút, tôi trở ra!