Chương 14
Socrate không muốn dùng đến tài xế. Ông gọi một chiếc xe tắc-xi. Ông hơi ngượng nghịu lúng túng. Một tấm áo choàng to che được một phần bộ quần áo giặc biển của ông và cái mũ ba sừng ông cầm ở tay. Trong một cái túi, ông để một miếng băng đen mà ông sẽ đeo lên mắt khi đến nhà vợ chồng Bambilt, lúc sửa soạn bước vào. Ông không ngờ được rằng buổi liên hoan ly dị này, bề ngoài vô hại, lại sắp đảo lộn cuộc đời ông bằng những cú bất thần liên tiếp, ở trên nhiều bình diện.
Lịch sử diễn ra như thế đấy, cái lịch sử mà con người ngỡ rằng mình sẽ làm nên nó: từ một khối lượng các khả năng thình lình nảy ra một loạt những ngẫu nhiên sẽ đẻ ra một tuyến những sự kiện mà trình tự chỉ xuất hiện sau này, khi người ta đem đặt chúng trở lại trong cái lô-gích hiển nhiên của niên biểu. Vậy mà vào đúng cái lúc nó được ghi vào hiện thực, thì nó, lịch sử, như một mụ già điên say rượu, lại có thể làm đổ sụp tan tành - hoặc không làm đổ sụp chút nào - ở bên trong các tổ hợp vô cùng vô tận mà các ngẫu nhiên kia cung cấp cho nó, các ngẫu nhiên gắn liền với những lựa chọn mong manh của con người và bản thân con người thì lại lệ thuộc vào những cái ngẫu nhiên của các dục vọng con người.
Lúc này, Socrate không rõ là ông đi đến đâu. Vô danh và có phần cau có, ông ngồi ở đằng sau chiếc tắc-xi đang chạy lại phía Quảng trường Trung tâm. Ông lơ đãng nhìn tấm bảng căn cước của người tài xế ở bên trên hàng ghế trước. Ông đọc thấy tên: “Israël Kafka”. Những câu hỏi đã mấp mé ở môi ông. Ông lại thôi không đặt chúng ra nữa. Liệu ông có đủ táo bạo để tiến công Menelas là người làm cho ông hơi e dè không đây? Từ đỉnh núi Olympe, các vị thần Hy Lạp, những bậc thầy của ông đang cười vì một sự bối rối thơ dại đến như thế.
Chiếc tắc-xi lách khó khăn trong dòng giao thông dày đặc của Brốt-uê. Sốt ruột, Israël Kafka ấn liên hồi tay trái vào còi xe. Mặc tiếng ồn ào, anh vẫn quay lại Socrate phân bua với ông. Với một thứ tiếng lóng đáng sợ:
- Kìa, ông nhìn họ xem! Ông liệu có thể bảo tôi rằng giờ này họ làm cái khỉ gì ở trong các xe cút kít của họ, tất cả những đứa mặt nghệt kia không ông?
Vì Socrate chẳng có ý nào để bảo cả cho nên ông nhún vai, không đáp. Thình lình ông trông thấy tòa nhà cao sáu chục tầng của Công ty dầu hỏa với cổ phẩn hạn chế Bambilt. Từ dưới lên trên, tất cả các cửa sổ đều sáng rực, lúc này mười giờ tối. Bồn chồn, Socrate mân mê miếng băng đen ở trong túi.
- Cho tôi xuống ở kia!
Hội vui sắp bắt đầu.
Có lắm hoa ở trong nhà Bambilt đến nỗi không còn có thể nhận ra được màu tường nữa. Hoa hồng leo xấn xổ lên những khung cửa kính dài rộng, hoa phong lan trong những cái đĩa Nhật đặt ở ngay trên mặt đất, những mảng rực gắt của hoa uất kim hương và hoa huệ đổ vỡ chói chang ở khắp chỗ, màu vàng chanh, màu đỏ cát-mi-um, màu đen, màu tím mượt, màu trắng, màu hồ thủy nhạt, màu da cam.
Gus Bự cố trông nom cho nhà ông thành ra biểu tượng và trang sức của việc ông thành đạt. Trong tòa cao ốc của ông, ông chỉ dành cho ông ba tầng trên cùng, tầng 58, 59 và 60. Còn sân thượng thì Gus Bự ý tứ nói rằng ông bố trí cho nó thành cái vườn treo, trong khi là cả một khu rừng thực sự bao phủ lấy nó, vây quanh một cái bể bơi dài ba mươi mét với cầu nhảy thi vào giữa. Nước luôn luôn ở 25 độ, để cho nhìn thấu những sứ ghép Italia và một số mô-típ đã thể hiện lại những tác phẩm bích họa của Ravenne có từ thế kỷ thứ 6. Về mùa đông, một mái vòm mênh mông bằng thủy tinh hóa chất được dựng lên càng làm nổi bật cái ấn tượng đang bơi lội ở giữa lộ thiên.
Qua những khoảng trống của các dây trắc bá, tùng Oregon và khuynh diệp, người ta phóng tầm mắt ra khoảng không vô tận. Khi lại bên những lan can, cúi đầu xuống, người ta có thể thấy ở dưới độ sâu làm cho sa sẩm mặt mũi những cây phong của Quảng trường Trung tâm và toàn cảnh dị thường của thành phố New York, đẹp đến ngạt thở, ban ngày chìm trong một làn sương mù lam nhạt, ban đêm điểm chi chít bằng vô vàn những ánh sáng phán giải ở quãng cầu vồng viền bọc lấy hàng nghìn những biểu hàng bằng nê-ông.
Khi Gus say, ông ta vẫn nhảy xuống bể bơi và tưởng tượng đến cái tổ ong ba nghìn nhân viên của ông ta đang làm việc ở bên dưới ông kia.
Nhân dịp ly hôn, ông ta có ý - dĩ nhiên là do Nut gợi nhắc - trang hoàng mỗi tầng trong ba tầng gác nhà ông theo ba chủ đề ông ta đã chọn: biển (gia tài của ông có được là nhờ những cuộc khoan dầu tiến hành ồ ngoài biển Alaska), tiền (mà ông lấy làm mục đích tự thân) và tình (mà ông cố ý khoe khoang rằng trong đời, ông chỉ có nó là người thầy duy nhất của ông). Nói mép hết: ông ta là nô lệ của đồng đô-la, hoàn toàn bị các người vợ khác nhau mà ông ta cưới về - hay đúng hơn, đã cưới ông ta - nô dịch và bóc lột, và mắc chứng say sóng, ông ta chỉ đi được xe lửa hay máy bay.
Vậy thì ở tầng trên cùng, ông đã lát vào tường những bể kính mênh mông, bên trong đã đủ các mẫu sống nguyên của giới động vật đáy biển. Tường của tầng dưới thì biến mất dưới những chắp ghép và những hình chụp lại các tờ một trăm đô-la kích thước như thật và màu sắc như thật. Tầng thứ ba, một lô rất nhiều những tranh khắc gỗ được giả định là thể hiện tình yêu. Bức duy nhất xác thực là một tranh rất đẹp của Phla-gô-na miêu tả một phu nhân nửa kín nửa hở nằm trong chăn đệm đùa với một con chó hình như đang chồm lên phu nhân. Ở chỗ khác Gus Bự đã không cưỡng nổi lại sự tìm tòi thiếu thẩm mỹ này: trên một cái khung, ông treo ảnh của mười một người vợ trước kia, người thứ mười một là Nớt, chỗ để ảnh người thứ mười hai là một khoảng trống với một dấu hỏi. Nut đã nài ông đừng làm cái trò phô phang nực cười đó nhưng ông không nghe, đề nghị lại với chị một khung tương đương như thế trong có ảnh của ông và ba người chồng trước của chị để đền bù lại. Thôi không thuyết phục ông nữa, Nut đã chấp nhận cả cái ý của ông là dành cho các vị khách một chút bất ngờ có thể khiến cho họ lúng túng. Cuối cùng, rượu vào, sự thể thế nào ta sẽ xem sau...
Người ta lên tầng 58 bằng hai thang máy mà tốc độ làm thót tim gan bạn lại. Trên bậc thềm ngoài cửa thang máy, đặt một cái tán bằng nhung đỏ, ở dưới đó những người hầu đội tóc giả kiểu vua Louis 14, lon ngù lấp lánh đứng làm hai hàng rào danh dự giơ cao những ngọn đuốc. Vừa đặt chân vào phòng đại sảnh của tầng thứ nhất, người ta liền bị công kích ngay bởi cái tiếng ồn ào của hàng tá người đang thi nhau chí chóe để làm cho người khác hiểu được mình nói gì nhưng chẳng một ai thiết nghe xem người kia đang nói gì với mình hết.
Tất cả khách khứa đến đều quấn trong các tấm áo choàng vai màu sẫm bó quanh cổ làm cho họ nom giống như những cái lọ mực. Khi có một ai mở tấm áo choàng vai ra, thì tùy theo sự hóa trang của người ấy mà nổ ra những tiếng reo vui thích hay ngạc nhiên. Những ông già triệu phú giả làm các chú bé lính thủy tập sự, cổ áo và mũ có ngù của hải quân Pháp, những vị đô đốc mặc thành những anh gác kho dưới tàu thủy, một bà to béo tóc vàng - công ty sắt thép Finkin - đã có một cái mũ, gọi đến phía mặt trái của Sở Chứng khoán New York, những bà khác, cực kỳ đáng kính trọng và các phu nhân, sáng lập ra các hội từ thiện, đã tháo xả cái ảo dục phổ biến của gái điếm bằng cách cải trang với một sự thèm khát đáng ngờ vực, thành những con đĩ năm 1900, những con làm tiền trong quán rượu, những con đĩ quý phái - một trong số đĩ quý phái này, thay cho mọi trang sức, chỉ mang có một mảnh vải ghi số máy nói của mình [1].
Một nhà quan sát tâm lý học có lẽ dễ dàng nhận ngay ra trong các bộ quần áo khác nhau của những người mới đến cái mà họ ao ước trở nên chứ không phải cái họ vốn đang là như thế đến hiện nay. Có điều không một tâm lý học nào có thể tiến hành nổi ở đây: vừa bước chân vào, tất cả, đàn ông hay đàn bà, đều phải nốc đến một nửa chai sâm-banh màu hồng nhạt. Sau đó, khách được nhận những lời chào mừng nồng nhiệt của bà chủ chỉ có một đêm nữa thì mãn nhiệm kỳ.
Lindy Nut đã trội hẳn hoi mọi lần. Cho đến nay, chưa một khách nào lu mờ được chị vì một lý do rất đơn giản: cái váy lột truồng chị ra có một không hai, không thể học đòi theo. Trên một tấm mạng trong suốt màu lơ thẫm, đằng ngực và đằng lưng gần như đều mở rộng như nhau, là một xâu tiền vàng thật, nhưng rỗng để cho chị không bị gục vì sức nặng của đồ trang sức.
Trên mái tóc vén ngược về cả đằng sau của chị đều làm nổi hơn lên con mắt mênh mông của chị, một chiếc mũ miện bằng vàng chỉ mang có sáu viên kim cương, nhưng mỗi viên hai mươi ca-ra, trừ viên ở giữa dễ thường cân nặng phải đến ba mươi. Mỗi khi chị cử động - về chị thì người ta có thể nói một khi chị uốn lượn cái váy của chị rung rinh như sóng biển, ôm bó lấy người chị, vuốt ve các đường cong.
Khi khách khứa khen ngợi chị xong - Gus Bự lại góp chuyện với họ bằng một câu công thức ông vừa nghĩ ra: “Khi thấy cô ấy đẹp như thế, tôi lại tự hỏi tại sao tôi ly dị” họ được thả vào trong tự nhiên, chơi cái trò nhận ra nhau, vờ không nhận ra nhau, giả đò không bao giờ quen biết, lên xuống các cầu thang bị kẹt cứng bởi cái đám đông mà các đầu bếp đội tóc giả và đầm đìa mồ hôi đang cố hết sức rẽ lối cho những cái khay chìa ra thành mốc chắn ở trước mặt, như mũi một con tàu. Người lên bịt chắn người xuống, những người muốn nói với nhau thì bị tách ra, những con số bật ra, những bí mật chứng khoán thì thầm và những cái tên gắn liền với chính trị, tài chính: giới kinh doanh cưỡi máy bay phản lực được gọi rú lên khi một bộ hóa trang đã bị lộ.
Ở mỗi tầng gác, phụ nữ xung phong chiếm lấy một trong năm gian buồng tắm để vào sửa lại đầu tóc, sắc đẹp, ghim gài, trong khi ở phía dưới, cánh đàn ông mắt ám muội hay linh hoạt, liếc nhìn lên, mê hoặc bởi cái lồng nhìn từ góc độ bên dưới đang làm cho họ thích thú hơn cả.
Đã hơn mười giờ, dạ hội vẫn chưa bắt đầu. Ở các sân lộ thiên, những luồng không khí điều hòa mát rượi từ trong nhà phả ra chết ngấm và tan biến vào trong một hơi nóng ẩm ướt, uể oải. Có một tiếng rú vui mừng ở cổng chính tầng thứ nhất: một bạn rất thân của Gus, Erwin Ewards, một trong những chủ ngân hàng Mỹ thế lực nhất vừa mới đến, mặc thành con cua. Khách khứa kêu lên không phải chỉ vì cái mai cua và những cái còng kềnh càng ông ta mang ở đầu cánh tay mà còn vì cái sự ra mắt tuyệt vời của ông ta bằng cách vừa đi giật lùi, va vít vào tất cả những ai ông ta không trông thãý, vừa tu cái chai sâm-banh của ông ta. Uống xong ông ta ném cái chai xuống đất vỡ tan trong một tràng vỗ tay tán thưởng.
Gus Bự đập tay vào đùi cười hềnh hệch. Ông ta vẫn uống chưa đủ nhiều cho nên còn nhận được rõ rằng buổi dạ hội của ông ta đã mở màn rất nổi.
Mặc dù thanh gươm và bộ quần áo chiến trận, Socrate thình lình có cảm giác trần truồng: ông đã quên mang tiền theo.
Không phải là tập ngân phiếu của ông - bắt đầu từ một mức gia tài nào đó, tập ngân phiều trở thành một cái trừu tượng trong các cái trừu tượng - mà là tập tiền không bao giờ rời ông cả. Trong con mắt ông, tiền bạc nhất định phải được hóa thân vào trong những biểu tượng làm giá đỡ cho chúng, những hiện thực sờ mó thấy, cụ thể, có một trọng lượng, chiếm một dung tích, chế bằng một vật chất được quy định hẳn hoi, kim loại của vàng đá của kim cương, giấy hoa của tờ bạc. Lúc xuống xe tắc-xi, ông đã đưa tay vào túi quần, chỉ có tính chất ám ảnh được làm hàng trăm lần một ngày vì cái khoái cảm xác thịt duy nhất là thấy sột soạt trong ngón tay ông những tập giấy thường xuyên nằm ở đó. Mà bây giờ kìa, chẳng có gì hết... Làm sao một cái việc như thế lại có thể xảy ra với ông được nhỉ. Một người hầu đón khách, thấy ông ta có thể điều đình dàn xếp. Đáng lẽ cảm ơn, ông ta lại quắc mắt nhìn anh ta, cái điều được Israël Kafka bắt chước liền vì hắn đã không được tiền thưởng thêm.
Bối rối, giận dữ, Socrate chui tuột vào gian phòng ra vào đồ sộ, nơi đang đứng dậm chân tại chỗ một đám khách mà quần áo hóa trang khiến ông không nhận được ai. Dưới con mắt của họ, ông cảm thấy đang bị đoán già đoán non, săn lùng, thật kinh khủng. Ông ta phải chế ngự một cái ý muốn không thể đè nén nổi là quay lại khách sạn Pierre. Trái với các bậc vua chúa kém quan trọng hơn ông, những người coi việc họ không bao giờ có một xu trong người là một điều vẻ vang - với một chút khinh bỉ, ông nghi họ không có nhiều hơn thế ở trong két - Socrate luôn luôn thu xếp để ngay lúc mặc quần áo bơi, có ít nhất hai nghìn đô-la chạm vào da thịt, ép sát vào hông ông, trong một cái túi ni-lông. Ở khắp thế giới, mặt mũi tên tuổi ông là hộ chiếu của ông và không ai lại thiếu tế nhị đến mức đưa ra cho ông một hóa đơn thanh toán. Nhưng, người ta chẳng biết thế nào được... Những hiệu cung cấp vật dụng cho ông gửi hóa đơn của họ tới phòng kế toán của một trong những công ty sở tại của ông, nơi chúng được đối xử trọng vọng ra trò. Tất cả các cái đó là chuyện tầm phơ. Cái ông cần, cái kích thích ông ta là sự đụng chạm mê ly của tờ giấy bạc. Mỗi lần ông gặp một canh bạc gay go, trong tình yêu hay trong công việc, ông đểu ních tiền chặt túi, tìm ra sức mạnh mới bằng cách vuốt ve những đồng bảng [2], mác [2] hay đô-la nằm kín trong quần áo ông.
Thang máy đã đến: trò này quá sức ông, ông không dùng nó. Ông quay gót, đi cầu âu trong dãy hành lang mênh mông của tầng dưới cùng đèn thắp sáng trưng như ban ngày, cho tới khi ông đến trước một cái cửa ghi chữ Đàn ông. Ông lẻn vào trong nhà vệ sinh, vào một ngăn và đóng cửa lại. Run rẩy, ông mở cái hộp sắt nhỏ ở bên trên chậu, lấy một tập giấy vệ sinh giấu vào trong quần, túi bên phải. Ông kéo cái giật nước, lấy vẻ uể oải rồi đường bệ đi ra.
Bất giác, ông thọc tay vào túi và người ông thanh thản hẳn lại, bởi cái bề dày làm cho yên lòng của tập giấy. Thật ngu, ông biết như thế. Nhưng làm sao! Ông lại đứng trước thang máy một lần nữa. Lén lút, ông vỗ vỗ tập ngân phiếu ở ngực ông dưới tấm áo choàng vai, “tập bạc” ở trên đùi ông. Bây giờ, ông ta sẵn sàng chọi nhau với mọi người.
Cái này mới thật đáng gọi là gặp chứ! Nut cầm tay Amore Dodino và đưa anh ta vào trình diễn ở trong nhà, gây ra những tiếng cười lúc cúc vui mừng trong đám khách: Dodino đã hóa trang thành Elsa Maxwell! Như mọi người có thế lực và được kiêng nể, nữ ký giả Mỹ nổi tiếng này đã bị tất cả những người dự làm cho thành trò cười, dù họ không thể lờ chị đi được trong các bữa ăn mời khách của ho - ở New York có những buổi tối trong “hội” với Elsa, và những buổi tối với người khác.
Như một người đồng tính luyến ái đúng danh, Dodino có thiên tài làm của giả. Hơn là một biếm họa, sáng tạo của anh đạt tới trình độ chân dung thông tục. Bất cứ ai cũng có thể nhồi đầy các nhúm bông vào người để làm cho thân thể dày ra nặng lên nhưng không ai như anh ta, có thể hiện được cái dáng đi nặng nề và vụng về của hải cẩu hết hơi kia, cái hình thù như bị xé ra bởi cái sức nặng bà ta mang ở đằng sau và cái sức nặng của khối bụng và vú đồ sộ chảy xệ ở đằng trước kia. Tất cả thành công một cách kỳ ảo, đôi má bánh đúc xị xuống, con mắt rừng rực và nặng sụp, cái môi khinh khỉnh, chiếc mũ điên rồ, hoa và quả trên nền lá mùa thu.
Nhiều người vỗ tay, khoái trá được cười hả hê đến như thế cái người mà họ kiêng sợ biết bao. Khi cúi người trước một vị khách, Dodino đều bắt đầu câu nói bằng: “Tối qua, ở nhà quận công Windsor, nữ quận chúa...”, tiếp tục nói, đúng như một người xướng danh các nhân vật quyền quý để tỏ ra là mình gớm ghê bằng cái tên quận chúa có điểm thêm những mẫu chuyện hỗn hào rất hay do anh đặt ra. Dodino phởn lắm, cuối cùng được là một người khác với mình, điều đó làm anh sung sướng. Cách xa chỗ anh ta đứng, ở cửa ra vào thình lình có những tiếng hét vui mừng bị nén lại một cách kỳ lạ: ai lại có thể tranh được của anh ta vai trò diễn viên chính thế này? Nut đã vội buông anh ra, chạy tới gặp người mới tới. Dodino trông loáng thoáng thấy một thứ gì mờ mờ, trong trong, như nhựa dẻo với những ánh màu hoa cà, mà mọi người tránh dạt ra nhường lối. Một cảnh tượng ghê gớm. Nỗi kinh hoàng của anh ta lên đến cực điểm khi anh ta nhận ra Elsa Maxwell, thứ thật, hóa trang làm con sứa. Con mẹ ác khẩu đi tới, rạng rỡ vì làm cho mọi người sợ đến thế, gây ra được một cảnh xôn xao như thế. Đến trước Dodino, bà chỉ ngón tay vào anh, cười ngặt nghẽo:
- Ông là ai?
Dodino giang hai tay ra:
- Elsa, Amore đây! Dodino đây!
- Amore! - Bà gầm lên.
Bà nhảy bổ vào anh. Để khỏi nghe bà nói, anh chặn trước lời bà:
- Elsa! Bà chị yêu dấu! Chị thật là thần thánh! Tuyệt vời! Độc đáo đến thế này!
Và sợ hãi tự hỏi liệu bà sắp sửa ôm mình hay bóp cổ mình đây. Rất đơn giản: Elsa hoàn toàn không nhận ra mình. Bà ôm ghì anh vào cái vỏ trong nhờ nhờ của bà làm cho nó kêu răng rắc.
- Amore! Anh nói tôi nghe anh hóa trang thành cái gì đi? Thật là tài tình!
- Thành con cá voi già! Bà chị yêu dấu ạ!
- Tuyệt!... Tuyệt!...
Bà âu yếm nắm chặt cánh tay anh kéo đi:
- Đi! Rượu sâm-banh kia làm cho tôi khát. Anh dẫn tôi đi làm một cốc nho nào!
Khách khứa lo lắng tự hỏi bà ngu hay cố làm ra như vậy, nhưng không, bà rất tự nhiên. Vả lại, hôm sau, người ta biết rõ được điều đó khi đọc cột báo của bà in lại ở hàng trăm tờ báo:
Mặc dầu tấm thảm kịch đáng sợ đã biến hội vui tuyệt đẹp này thành ra tang tóc, cái đêm Bambilt đã là cái đêm xuất sắc nhất, thành công nhất của mùa dạ hội, trên một bình diện thuần túy lịch thiệp, giao tế.
- Ồ kìa, Gus... Không!...
Peggy lại ngắm Gus Bambilt và lại vừa cười vừa kêu lên:
- Không mà!... Tại sao?
Gus Bự đang đưa người, hoan hỉ, một niềm vui con trẻ in trên bộ mặt ông đang đỏ gắt lên vì rượu và kích động. Với một vẻ khôi hài, ông kéo hai vạt của bộ áo người chèo thuyền thoi thời cổ, bằng vải đay xám có những gạch lớn màu đen:
- Peggy, đời tôi là một địa ngục!
Ông nhún chân xoay một vòng vụng về để cho người ta ngắm ông mọi phía. Ông giật lấy chai sâm-banh ở tay người hầu đang đưa cho Peggy:
- Trước hết, chị hãy uống đi đã! Để xua đuổi cái ưu tư và phiền muộn!
Peggy tu vài ngụm rồi vất cái chai ra sau vai theo kiểu Nga:
- Mừng cuộc ly hôn của anh!
Đỏm dáng, cô đang chờ Gus xin cô ta bỏ tấm áo choàng vai che bộ đồ hóa trang của cô ra.
- Thế nào? - Bambilt hỏi - Tình, biển, hay tiền?
- Biển.
Tấm áo choàng tụt khỏi vai cô và cô hiện ra trong một bộ đồ lộng lẫy của người dạy thú ở rạp xiếc. Có những con mắt ngầm hỏi. Cô trả lời thoải mái:
- Tại sao lại không? Tôi là người dạy người cá mà!
Khách dự gầm rú lên vì hài lòng. Cánh cửa của hai thang máy cùng lúc mở, một lô người mới đến nhảy vọt ra, cướp mất của Peggy cái hiệu quả bất ngờ cô vừa gây được. Trong số đó, Menelas từ thang máy phải đi ra. Từ thang máy trái, Irène và Herman Kallenberg.
- Các bạn của tôi! Các bạn của tôi! - Gus kêu lên - Các bạn biết nhau cả, hay đúng hơn, tôi hy vọng rằng các bạn đã biết nhau cả.
Ôm nhau, những cái hôn nhau chun chút trên má, tuy chúng thật sự không áp hẳn vào da, sợ làm phấn son hư mất!
- Kìa... - Gus hỏi Menelas - Tôi không thấy ông (ông suýt nói “ông Menelas”, kịp giữ lại tuy say, dù sao cũng ngập ngừng nói đến cái tên ông thấy hình như là buồn cười kia, nhưng cuối cùng thì ông đã nói ra được). Tôi không thấy ông Gonzales del Salvador...
- Ông ấy bị kẹt! - Menelas tỉnh khô nói.
- Uống đi! Tất cả uống đi!
Người ta chìa ra những chai mới.
- Cho tôi cầm áo choàng vai cho chị...
Menelas có một cử chỉ tự vệ. Vì một lý do chỉ riêng chị biết, chị có vẻ phật ý căng thẳng. Chị quan sát Peggy với một vẻ cay độc.
- Có khỏe không?
- Có khỏe không?
Irène xuất hiện là Đô đốc của cuộc chiến tranh 1914, Kallenberg là thần Biển, tả chân đến độ mang cả một bộ râu như sông như suối và một cây đinh ba bằng bìa cứng. Đồ sộ, cười ngất, ông nhìn thẳng mặt Gus, nghĩa là không phải cúi đầu xuống, do lẽ Gus cũng cao ngang ông. Đang rủ khách uống bằng cách uống trước, Gus kêu lên:
- Tôi hiểu tại sao người ta lại gọi anh là Con yêu Râu xanh rồi!
Ông nhớ ra hơi muộn là câu nói đùa này có thể làm cho bất cứ ai cũng thích, trừ bản thân Kallenberg. Ông nói để xí xóa:
- Một chai nữa nào!
Mà kệ, nếu ông có làm cho hắn bực thì cũng cóc cần! Dẫu sao thì Kallenberg cần đến Bambilt hơn là Bambilt cần đến Kallenberg! Herman hôn tay Menelas. Gus Bự xen vào:
- Olympe, cái áo choàng của chị...
Ông nhấc nó ra khỏi vai chị. Một giây lát, mắt của Menelas trở thành đen hơn mặc dù chị hơi co rúm người lại một chút. Tai họa: chị cũng hóa trang thành người dạy thú! Mắt chị gặp mắt Peggy, với một vẻ trách móc mau chóng biến sang vẻ thách thức. Nut vừa mới tới nhanh như chớp hiểu ngay rằng người ta mấp mé ở bên tấn bi kịch:
- Olympe! Sao lại có cái ý hay như thế nhỉ!... Chị thật là tuyệt vời!
Menelas hạ cố mỉm cười. Nut nói tiếp, cố hàn gắn, bám lấy cái sự thật lù lù ra đến nỗi người ta không thể vờ là không trông thấy nó, xoáy mãi vào nó để tháo kíp nổ của nó:
- Hai người dạy thú ở nhà mình! Những con thú hãy coi chừng! Peggy muốn dạy người cá. Còn chị, chị muốn dạy gì?
- Khỏi lo, tôi sẽ tìm ra một người nào đó, nhanh thôi!
Bị một đám người láo nháo cuốn đi, Socrate hiện ra trong bộ quần áo giặc biển...
- Olympe! Chị có quen Socrate Satrapoulos, người Hy Lạp như chị không? Đừng mất sức với ông ấy, ông ấy bất trị đấy!
Socrate nghiêng mình, cảm thấy cái chuôi gươm thọc vào dạ dày mình đau nhói. Menelas lại coi nét mặt nhăn lại của ông là một vẻ chán ngán đặc biệt nhằm vào chị. Chị lạnh lùng nhìn ông và rút tay về. Bàng hoàng, Socrate đến lượt mình nổi đóa thô bạo lùi phắt lại đằng sau. Ông thật sự bị Irène ôm chầm lấy, hai tay chị bịt mắt ông:
- Ai nào? Ai nào?
- Irène! Chị luôn luôn bị nước hoa của chị phản thùng!
Irène hôn ông. Ông ngắm chị và đứng nghiêm:
- Thưa Trung tá!
- Đô đốc, xin ngài! Đô đốc đấy!
Kallenberg không muốn đứng trơ khấc bên lề:
- A, cái tay này! Anh ta mưu mô phá việc thăng cấp đây! Có khỏe không? Cậu trông rất là chúa!
Có thể vì miếng băng che mặt, Socrate thấy Kallenberg mỏng dẹt, đồ sộ nhưng mỏng dẹt...
- Lê-na đâu? Cô em yêu dấu của tôi đâu? - Irène thâm hiểm lách vào một câu.
Vô tình, Con yêu Râu xanh cứu nguy cho Socrate:
- Anh ấy không điên, anh ấy để vợ ở nhà!
- Cậu nuôi bộ râu này mất bao lâu?
- Chưa đến một phút! Này, cậu xem!...
Kallenberg kéo bộ râu giả cho khẽ bong ra khỏi mặt mình.
- Thằng giặc khả ố!
- Thằng thầu khả ố!
- Dân Hy Lạp muôn năm! - Gus Bự hét to - Lại đây! Lại đây!
Ông đẩy mọi người vào bên trong, bám lấy cánh tay Menelas đang ném những cái nhìn giận dữ vào Peggy. Hai mụ dạy thú trong một cái nhà sáu trăm mét vuông, có một mụ là thừa!
Raph Dun làm vẻ trịnh trọng nghiêng người trước Dodino:
- Thưa bà yêu quý, xin kính chào bà...
Đang chuyện trò tíu tít với Menelas - anh ta là một trong những bạn thân thiết của chị và được quyền gọi chị là “Lympia”. Dodino nhìn anh phóng viên với một vẻ chế nhạo:
- Kìa... Cô trinh nữ bị hiếp dâm... Có tiếc không?
Hơi khó chịu về cái chuyện tối trước, nhưng muốn được giới thiệu với Menelas, Raph tìm một bộ tịch thích hợp. Anh ta phát một cái vào lưng Dodino.
- Cậu có thể giới thiệu mình với người phụ nữ vĩ đại nhất không?
- Đừng mất công, con dê con, cậu không thuộc vào các loại chị ta đâu!
Với Menelas, bằng một thứ tiếng Anh hãi hùng:
- Người này, anh ta muốn tôi giới thiệu anh ta cho chị.
Olympe mỉm một nụ cười lơ đãng và liếc nhìn Raph là một trong số khách hiếm hoi mặc lễ phục (các hiệu may lớn cho cắt chịu nhưng các hiệu bán đồ cũ lại đòi tiền ngay các thứ quần áo cà tàng lố bịch của họ). Chị còn chiếu cố hơn đến mức hỏi Dodino:
- Bạn anh hóa trang thành gì thế?
- Thành người lịch duyệt. Chị thấy có thành công không?
Raph không kịp trả lời. Erwin Ewards người-cua vừa vượt ra từ một mớ người hỗn độn, lao vội đến Menelas, nàng giang rộng:
- Carissima [3]!... Chị nổi nhất!
- Erwin!... Ngộ quá!
Chị dạy thú hôn con cua. Đó là một loài có vỏ giáp cần đối đãi tử tế, người cố vấn khôn ngoan trong môn tài chính có một khứu giác dị thường đối với các hoạt động của chứng khoán. Ngoài ra, ngân hàng của ông bảo lãnh hai bàn tay của “con báo” với một giá trị là hai triệu đô-la. Đôi khi giữa hai buổi độc tấu, Olympe và chồng đã nhận lời của Ewards đến ở tại các dinh cơ kỳ diệu của ông ở Mũi Antibes, nơi mà thực tế ông không đặt chân đến bao giờ, tuy nó đầy những kẻ hầu người hạ mướn năm, điều các vị khách của ông đã tận hưởng thoải mái trong lúc ông vắng mặt.
- Ông có sang Pháp năm nào không?
- Than ôi, không!... Công việc!...
- Thế cái dinh cơ đẹp quá trời của ông?
- Nó sẵn sàng đợi chị, khi chị quá bộ đến làm cho nó được vinh hạnh!
- Ông vẫn không muốn bán nó cho tôi ư?
- Bạn rất yêu quý ơi, chị biết là không bán nó được, chị ạ...
Lúc ấy diễn ra một chuyện lạ. Vẫn đang nói Menelas đã nhìn lại sau vai mình và thấy Socrate đứng ở đằng sau chăm chú nghe. Chị không phải không thấy ông ta thấp, có phần lố trong bộ quần áo ca kịch rẻ tiền nhưng vậy mà mắt chị không sao rời khỏi mắt ông ta được, tựa hồ người dạy thú đã bị một con chim sẻ làm cho mê lú. Về phía ông, Socrate nhìn chị chằm chằm mãnh liệt, ý thức thấy luồng điện dữ dội bất ngờ kia đang lay chuyển cả ông lẫn chị. Trong vòng hai tích tắc mà tưởng rất lâu, mọi cái đều đã được nói tuy không một lời nào được thốt ra, mọi sự đều đã được ước hẹn tuy không có một lời hứa nào, người này đã hiểu người kia tuy chưa hề gặp gỡ, trước đây, hiện tại và mai sau. Socrate là người đầu tiên trở về với thực tế. Ông lại bên Ewards, lắc mạnh cái càng cua:
- Tất cả đều bán được, Erwin... Tất cả đều bán được...
- Chắc chắn là không phải nhà mình! - Con cua cười lúc cúc.
- Nhà anh cũng thế thôi, như mọi thứ.
- Nhưng kìa!
- Anh có muốn cuộc gì không nào?
Giọng Socrate nghiêm chỉnh đến nỗi cả cái nhóm con con này đứng lặng, ông chủ ngân hàng, chị nghệ sĩ dương cầm, anh phóng viên và anh săn đàn ông. Hơi khó chịu, Ewards cười khẩy:
- Anh thua rồi đấy, Socrate thân yêu ơi.
- Khoan. Hãy cho tôi một dịp may. Đồng ý chứ?
- May nào?
- Cái nhà đáng giá bao nhiêu?
- Nhưng tôi đã nói đi nói lại với anh...
- Bao nhiêu?
- Thì vì anh cố thiết tha... Chờ tí... Tôi đã trả nó... Với các sự sửa sang, bày biện tôi đã làm ở đấy...
- Bao nhiêu?
- Nói thấp nhất nhé... Một triệu đô-la.
- Anh có muốn bán cho tôi với giá ấy không?
- Nhưng mà...
Socrate giơ một bàn tay xoa dịu, cầu hòa:
- Hai triệu đô-la, anh có sẽ bán cho tôi không?
Ông chủ ngân hàng đã nổi danh ở New York về các năng khiếu tính nhẩm của ông ta cộng thêm một cái tài hay hay của nhà thơ: giữa hai hội nghị quản trị, ông ta đã làm một vài bài ca mà các người thân của ông ta thích lắm. Dinh cơ của ông ta năm trăm nghìn đô-la, người ta biếu ông ta những bốn lần hơn thế, nó xuống giá đi ba lần. Bù lại, nó mang lại cho ông một tiếng tăm làm quái gì cơ chứ! Nhưng Socrate có nghiêm chỉnh không? Ông õng ẹo:
- Thôi, anh bạn thân mến thôi...
Nhưng qua vẻ mặt Socrate, ông hoàn toàn hiểu rõ rằng Socrate không nài thêm một phút nữa đâu. Hoặc ừ hoặc không, ngay tức khắc:
- Thế nào? - Socrate nói - Bằng lòng hay không?
- À...
Socrate rút tập ngân phiếu ra, nói với Menelas:
- Chị cho phép tôi chứ ạ?
Ông đập đập các túi tìm bút máy, không thấy, bực dọc gạt cái chuôi gươm ra và hỏi phóng với tất cả:
- Ông có cây bút nào không?
Raph có. Anh đưa nó cho ông. Socrate giơ một đầu gối lên dùng như một bàn viết. Ông viết vào trên cao bên phải của tờ giấy hình chữ nhật bằng con số “2.000.000 USD” rồi ở dưới bằng chữ. Rồi ông ký.
- Erwin, anh muốn nó được ký nhận ở đâu?
- Biết nói thế nào...
- Được, anh sẽ viết cái ấy lấy. Ông giám đốc của công ty tôi ở Mỹ ngày mai sẽ đến anh. Anh đưa cho ông ta giấy tờ bán nhà.
Bàng hoàng, con cua giơ càng nắm lấy tờ ngân phiếu.
- Thế đấy! Một việc tốt đẹp đã làm xong!
Socrate nhấm nháp chiến thắng của mình. Menelas không còn rời được lời lẽ và cử chỉ của ông. Ông chìa tay cho Ewards:
- Thỏa thuận rồi nhé! Thuận mua vừa bán!
- Thuận mua vừa bán... - Ông chủ ngân hàng lúng túng, vui mà ông phải nén xuống làm cho ông sợ xảy ra ngay tới nơi một cơn đau tim mất.
Mạnh bạo lên, không gì ngăn cưỡng nổi, Socrate ghé vào tai Menelas và không e dè nói luôn bằng tiếng Hy Lạp:
- Dĩ nhiên là tôi không có ý giữ cái nhà đó. Tôi không chịu nổi việc ông ta dám tước bỏ của chị cái niềm vui có được ngôi nhà đó. Ông ta không phải người bán nhà. Tôi thì tôi bán. Chị trả cho tôi bao nhiêu?
Chị dạy thú thở gấp. Trước khi chị kịp trả lời, Socrate đã mỉm cười nói tiếp:
- Một đô-la có được không?
Menelas cảm thấy chân mình rời lỏng ra. Ngay cả đến Mimi trong lúc huy hoàng... Mimi... Tên ông chợt đến với chị như những tiếng thét, cách xa đến hàng triệu năm ánh sáng...
- Chị nán cho một chút! - Socrate nói thêm - Erwin!
Ông chủ ngân hàng cứng cả người lại, sắp sửa té xỉu: Socrate đã thay đổi ý kiến!
- Này, Erwin... Cái nhà mà anh vừa bán cho tôi?
- Phải... ông cố vừa nói khe khẽ vừa nuốt nước miếng... (cử chỉ về phía Raph và Dodino)... Vả chăng các ông này làm chứng.
- Tốt lắm, tôi ghi nhận. Anh không quên cái gì cả chứ?
- Tôi...
- Chúng ta đã có đánh cuộc với nhau?
- Có...
- Và anh đã thua cuộc.
Ewards tự thấy mình ngốc nghếch, thua kém.
- Nhưng chúng ta có đặt rõ cược bao nhiêu đâu...
- Tặc... tặc... tặc... Anh kém trí nhớ đấy!
Socrate nháy mắt với Raph và Dodino:
- Anh hỏi các ông này đi... Chúng tôi đã nói rõ là một triệu đô-la phải không?... Kìa đấy! Anh xem! Vậy thì, Erwin thân mến, anh giữ tấm ngân phiếu của tôi nhưng làm cho tôi một tấm khác theo các số tiền kia! Đồng ý chứ?
Trước vẻ bối rối của ông chủ ngân hàng không hiểu rằng đùa hay thật, Socrate phá lên cười, đấm ông một cái thân mật:
- Con cua già bỉ ổi!...
Suýt ngất, Ewards hiểu là Socrate đùa. Trên thế giới này, không còn có cái gì có thể phá nổi sự thật hiển nhiên kia: vụ mua bán đã xong tốt đẹp.
- Anh thấy rõ là cái gì cũng mua được rồi chứ?
Rồi khẽ vào tai Olympe:
- Trừ thiên tài và sắc đẹp... Nếu chị cho phép... lát nữa... tôi muốn được nói chuyện với chị...
Ông có một cử chỉ thân thiện và khi ông đã đi rồi thì Raph gọi ông:
- Xin lỗi ông... Ông có thể cho lại tôi cái bút máy không ạ?
Anh giật mình đã buột miệng nói ra câu ấy, nhưng anh rất cần thu hồi của nả của anh, một cây bút Parker rất đẹp bằng vàng thật do một chị trong giới thượng lưu biếu anh, nói cho đúng, chị nguyên là một nhân viên phục vụ ở rạp chiếu bóng, sau lấy một ông bán đấu giá nổi tiếng mà thành người trong giới thượng lưu. Từ khi anh tiếp tay cho Kallenberg hạ bệ Socrate, Raph tránh Socrate như cọp. Anh sợ ông. Trong sáu năm, anh đã lánh được ông, ngại ông gây ra một vụ tai tiếng đòi bồi thường cho buổi dạ hội ở Luân Đôn. Bây giờ lĩnh đi thì muộn rồi: giờ của chân lý đã điểm.
Socrate tươi cười quay lại, đi vài bước về phía anh:
- Ông là Dun phải không? Satrapoulos... chúng ta không được giới thiệu với nhau, nhưng tôi là một người đọc đều đặn của ông. Dĩ nhiên, ông không thể quen biết họ được.
Raph thấy ông khủng khiếp với thanh gươm và cái mũ mang hình sọ người kia.
- Đây, cái bút đã cho phép ông viết ra bao nhiêu là điều tuyệt vời...
Ông chìa cái bút. Raph bớt căng thẳng hơn:
- Được, ông cho phép thì tôi rất thích được thuật lại cái cảnh ông vừa cho chúng tôi chứng kiến.
- Vì nó là có thật thì tại sao lại không chứ nhỉ? Này, ông Đăn, tôi hy vọng từ nay ông tính tôi vào trong số các bạn bè của ông đấy nhá!
Mỗi lần Socrate gặp một cái rác rưởi trên đường ông đi thì hoặc ông xéo nát nó, hoặc ông mua nó. Cái rác rưởi này đã tự bán nó rồi thì nó lại sẽ còn tự bán nó nữa.
- Ông nên đến với chúng tôi, nhân một chuyến chúng tôi du lịch trên biển.
- Socrate!...
Nut nhào vào Socrate, làm cho tất cả vàng ngọc dính vào da thịt chị lanh canh lủng liểng. Chị nắm lấy cánh tay ông kéo vội ông đi.
- Lại đây! Tuyệt đối muốn anh làm quen với Scott Baltimore... Peggy... Đây, Socrate đây!
Peggy đang bám vào tay một người trẻ tuổi cao lớn, mắt màu xanh lơ giễu cợt. Trông thấy Socrate, anh ta vờ giơ khuỷu tay lên để tự bảo vệ, tựa hồ bộ quần áo nhà võ của ông làm cho anh ta rờn rợn. Anh ta chìa tay ra trước tiên với một nụ cười trắng lóa. Anh ta mặc lễ phục.
- Có những hôm tôi tiếc là đã để vũ khí lại ở phòng gửi áo!
Đến lượt Socrate cười và nắm lấy bàn tay chìa ra. Tự nhiên ông biết ngay người này sẽ đi xa, người này là con nhà nòi...
- Anh thấy anh ấy sao? - Nut hỏi. Và nói với Peggy - Đừng ghì anh ấy chặt thế, cậu nghiền nát anh ấy mất!... Thôi được! Các bạn chơi vui đi! Tôi phải đi tìm Gus.
Chị biến đi trong một lớp sóng cồn vàng rực khởi từ gót chân chị để leo lên chiếm lĩnh hai vai chị...
- Tôi đã nghe nói đến anh nhiêu... - Socrate nói.
- Không nhiều được bằng anh!... Không phải ngày nào cũng có một người đơn phương độc mã đánh hại hoàn toàn được chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cả đâu!
- Nhân nói về Chính phủ, tôi ngờ rằng anh làm cho Chính phủ Mỹ sợ hơn là sợ tôi nhiều...
- Thôi mà! Chính Peggy đã cho tôi cái tai tiếng đáng ghét đó!
Socrate nhìn cả hai người: họ thật tuyệt vời, đẹp trẻ, xuất sắc. Ông thật lòng khâm phục họ và xua nhanh một chớm đố kỵ đang nhất thời xỉa chọc ông.
- Bị xô đẩy như thế này thật là kinh khủng! Nào, ta tìm một chỗ nào yên tĩnh đi!...
Bướng bỉnh, Peggy chỉ có một ý nghĩ trong đầu mà cô theo đuổi cho đến tận kết cục của nó: làm sao cho Scott và Socrate quen nhau hơn, đưa Socrate vào của bè bậc vĩ nhân của cô khiến ông liên minh đến mục tiêu của Scott, tìm cách để ông góp phần vào việc tài trợ cho những người cách tân, thuyết phục ông rằng ông sẽ có miếng ở trong đó... Sau này... khi Scott trở thành cái mà anh phải trở thành...
Về phần Socrate, ông lóa mắt bởi sự thoải mái của Baltimore trẻ tuổi, tính tự nhiên của anh ta, cái pha trộn của thiện cảm, quyền uy và sức hút tỏa ra từ khắp con người anh ta. Kiểu người này có cái chất liệu làm nên những anh hùng, những đại bịp những quốc trưởng hoặc những nhà tiên tri, tùy theo hoàn cảnh. Dầu thế nào, với người như thế, người ta sẵn sàng cho sơ-mi, cho mượn vợ và dĩ nhiên bất cứ khoản tiền nào. Canh bạc mà theo lý thuyết nếu đầu tư vốn vào thì cầm bằng là mất nhưng té ra lại được lời gấp những trăm lần.
- Ông đến New York có việc?
- Không hề. Tôi đến duy nhất để mừng các bạn Bambilt của tôi chia tay nhau.
Peggy, vẻ nghi ngờ, nói:
- Vâng... Nếu như không có một cuộc thương lượng ngấm ngầm nào thì tôi sẽ rất là ngạc nhiên. Anh cũng như Scott, anh không bao giờ có thể ngừng lại được đâu!
Socrate mỉm cười, Peggy thừa thắng:
- Đấy, anh xem!... Tôi biết chắc là thế mà!... Anh đã bán hay là mua đấy?
- Cả hai.
- Sao? Nói tôi nghe đi!
- Một dinh cơ trên bờ biển Riviera Pháp.
- Của ai?
- Đó là một bí mật!
Khi muốn cho một cái tin đồn lan rộng, Socrate luôn lộ ra dưới con dấu “bí mật tuyệt đối”.
- Thế anh đã bán lại cho ai?
- Tôi không thể nói ra được.
- Đắt chứ?
Scott mỉm một nụ cười lơ đãng...
Socrate khoái vì sự lục vấn này. Bằng một giọng khiêm tốn:
- Tôi vừa ký một ngân phiếu hai triệu đô-la xong.
- Thật chứ?
- Thật.
- Và tôi đánh cuộc rằng anh đã bán lại ngôi nhà gấp đôi tiền?
- Không hoàn toàn.
- Nói đi!... Bao nhiêu.
Socrate làm bộ ngập ngừng để gây được hiệu quả mạnh hơn. Như tiếc rẻ, ông ta buông gọn:
- Một đô-la.
Scott và Peggy nhìn nhau.
- Chuyện thật đây chứ? - Cô tròn xoe mắt lên hỏi.
- Lời thề của đàn ông.
Cô dạy thú cười rú lên:
- Ôi! Scott! Anh ấy thật kỳ diệu!... Anh kể cho tôi nghe đi!...
- Mọi người lên boong! Mọi người ra bể bơi! Lên hết! Lên!... Có một chuyện bất ngờ và có thưởng!...
Cái giọng khao khao của Gus Bự nổi lên trên tiếng ồn ào, nhộn nhịp một chút, một thứ run rẩy, tiếp theo là các tiếng la hú vui vẻ hòa lẫn vào nhau. Khách xông vào các cầu thang và nhào lên tầng ba, trên sân thượng. Khung cảnh thật thần tiên. Ở giữa một diện tích, mênh mông, nước xanh trong suốt, cả bể bơi được chiếu sáng từ bên dưới. Đằng sau mỗi gốc cây, mỗi bông hoa, lại có một ngọn đèn pha làm nổi rõ lên hình khối hay màu sắc, luồng sáng biến mất hút vào bóng đêm của thành phố ở tít trên cao. Gus Bự đã leo lên một cái bục nhỏ đặt ở trước một tấm bình phong hai cánh. Mặt đỏ phừng phừng, đồ sộ, ông chĩa vào đám khách của ông hai khẩu súng côn [4] to tướng, ổ đạn xoay:
- Không ai nhúc nhích! Đây là một cuộc ly dị!
Những tiếng cười ầm ĩ, the thé của đàn ông quá chén, của đàn bà bị kích thích.
- Các bạn!...
Gus ngừng lại một chút nắm lấy một chai scotch tu một hơi dài.
- Các bạn!... Ba năm hạnh phúc hay đại khái tương tự là quá đáng cho một người đàn ông lẻ loi hay một người đàn bà lẻ loi... Người ta có cơ toi mạng vì chuyện đó... Vì thế mà Lindy và bản thân tôi quyết định ly dị. Trước khi hối không kịp!
Vang lên ba nhịp đầu của bài quốc ca Mỹ, vọng đến từ một khu rừng thưa chìm ngập trong ánh sáng thô bạo, giờ mới lộ cho thấy toàn bộ dàn nhạc mà cho đến nay, không ai ngờ là có ở đó. Tiếng khua rền một hồi.
- Lindy và tôi đã có ý cho các bạn cái công thức của chúng tôi để có thể kéo dài được như thế này... Lindy!...
Tay che trước mắt, ông ta tìm Lindy Nut trong đám đông.
- Nớt?... Em ở đâu?
Tiếng ồn ào trong đám khách. Không thấy Nut.
- Các bạn xem đàn bà là thế nào đây? Cô ấy đã bỏ tôi rồi... Kinh khủng!
Những tiếng hét phản đối của phái yếu. Cử chỉ xoa dịu của Gus Bự... vẫn còn bần thần vì cuộc đối thoại ngắn gọn với Socrate, Raph giật mình khi Dodino nói nhỏ vào tai:
- Cái dạ hội này khó ngửi!... Gớm ghiếc! Liệu cái khúc dồi kia có cần phải say mềm vì nó ly dị không nhỉ?
- Cậu chống các cuộc chia tay à? Tớ không biết là cậu bảo vệ gia đình đến thế...
- Tớ ủng hộ những tình yêu vững bền và những lứa đôi gắn bó.
- Người ta thấy rõ ràng ngay là cậu chưa lấy vợ bao giờ!
- Thằng ngu! Cậu biết gì về cái chuyện ấy nào?
- Nói nghiêm túc chứ?... Tên cô ta là gì?
- Charles [5], đồ dốt!
- Các bạn! - Gus Bự hét... - Tôi sắp cho các bạn làm thế nào kéo dài một cuộc kết hôn hợp pháp!... Cái đó chỉ ở trong có một chữ thôi.
Ông ta thêm một ngụm uýt-xki rồi nhìn chằm chằm đám cử tọa...
- Phải nói đúng sự thật!
- Nói dối! - Một số người phản đối.
- Khi nào ồn thì im. Khi nào không ồn thì nói ra! Thế nào... Nhìn đây!
Với một cử chỉ sân khấu, ông lần lượt quay hai cánh bình phong mà ông tựa lưng vào. Hiện ra, to bằng người thật, ảnh ông mặc lễ phục và ảnh Nut mặc váy dạ hội. Trên mỗi tấm ảnh, có ba vòng tròn nho nhỏ màu đỏ, một ở trán, một ở vòng tim, vòng thứ ba thì vẽ ở chỗ bộ phận sinh dục.
- Mỗi vòng tròn là một mục tiêu!... - Bambilt gào ông ổng - Tất cả các bạn đều sẽ tham gia trò chơi ưa thích của tôi... Nó gọi là tâm lý - bi kịch... Những ai mà yêu Nut...
Ông ngừng lại để đưa mắt tìm chị.
- Nut!... Nut đâu?...
- Chị ấy đây!... - Một giọng người không rõ tên, rống lên.
Nut đi tới trong ánh sáng ngọn đèn pha, mặt kín bưng. Đứng loạng choạng không vững. Gus lịch sự chìa tay ra cho chị. Ông nâng cao tay chị lên như một chiến tích...
- Nut và tôi, chúng tôi sắp cho các bạn thấy làm thế nào để xả hơi trong đời sống vợ chồng!... Đồng ý chứ, Nut...
Bambilt kéo một tấm rèm che ở trên một sợi dây. Người ta thấy hai chục khẩu súng bắn thi xếp ở trên một cái giá súng.
- Hãy nhìn rõ đây!...
Gus cầm lấy một khẩu đưa cho Nut và lấy một khẩu khác cho mình. Ông ta mở ổ súng, đậy lại. Rồi cầm tay người vợ thứ mười một của mình, ông ta cùng chị đi vào trong đám đông đang lùi lại ở đằng trước họ.
- Các cuộc cãi lộn vợ chồng đã vượt xa rồi. Bây giờ xem người ta thanh toán nợ với nhau như thế nào đây!... Sẵn sàng chưa? Bắn!
Những khẩu súng nổ đét như roi quất, căng, đồng thời trên hình Bambilt, ở chỗ cổ, người ta thấy loạng rạn ra một giọt nước to màu đỏ đang từ từ chảy. Các con mắt quay sang bức ảnh của Nớt, cũng bị ố bẩn như thế ở ngang vai...
- Trượt!... - Kallenberg hét lên.
- Khoan!... - Bambilt kêu to hơn - Hãy thử bắn giỏi hơn nào! Mỗi vị khách được quyền bắn một phát. Ai bắn trúng tâm một trong ba vòng tròn sẽ được một phần thưởng rất hay!... Bắn tùy ý!...
Ngơ ngác, khách khứa không hiểu nên làm thế nào cho phải, nhất là bắn vào ai bây giờ? Có một sự khó chịu nào đó. Một người nào the thé: “Tôi bắn!”... Đó là mụ Finkin to béo - công ty sắt thép. Không do dự bà nhanh nhẹn đưa súng lên vai và bắn một phát vào đầu, không xa tâm vòng tròn lắm. Có thể nói dẫn đầu cái việc bắn này, bà ta đã làm cho tình hình hết căng thẳng. Mọi người vội xô vào lấy súng. Một loáng, giá súng đã bị nẫng sạch. Người ta chuyền tay nhau các khẩu súng. Những loạt đạn nổ ra:
- Bắn đi!... - Gus Bự líu tíu nói... - Bắn để... Đạn nhồi xốt cà chua đấy!
Dàn nhạc chơi bài Kỵ binh mộc mạc - một cái ý rõ ràng là của Gus Bambilt và một thứ điên cuồng tập thể được xổ lồng. Cảnh tượng hoàn toàn như trong mơ, khu rừng ở phía tầng thứ 60 một tòa nhà cao ốc giữa New York kia, những tiếng hú hét của người da đỏ kia, những bộ quần áo hóa trang của hội xe hoa kia, những con người bỗng hóa rồ kia, những tiếng súng nổ, mùi thuốc súng, cái âm nhạc cuồng dại kia, tiếng dậm chân, tiếng la hét, tiếng cười và những viên đạn bằng chất dẻo nằm bẹt vào hai bức tranh, vỡ tan khi chạm vào chúng, chảy thành những vệt dài đỏ thẫm, ngập ngừng và quánh sệt. Điều kỳ lạ, trên hai bức hình vẽ, không một viên đạn nào lạc xuống vùng bụng. Dù nhằm vào Nut - đàn bà thì hay bắn vào chị - hay vào Gus, cho đến giờ, các viên đạn đều trúng vùng tim hay mặt. Chán cho cái sự ý tứ thẹn thò này! Không nhịn được nữa, Kallenberg nhằm vào vòng tròn thứ ba và nổ cho một phát trúng giữa, tiếng la hét ồn ào đến nỗi phải một lúc mới nghe rõ tiếng nhiều người kêu to: “Ông ấy trúng thưởng rồi!”.
- Khoan!...
Vung mạnh hai tay, Bambilt cố làm dịu cơn bão:
- Mọi người đều đã bắn cả chưa?
Người ta nhìn mặt nhau. Lúc ấy nghe thấy một tiếng nói cất lên:
- Satrapoulos chưa bắn!
Socrate giận dữ nhận ra người tố cáo ông, Irène, cô chị vợ. Cô thách thức nhìn ông, con mắt vờ vịt ngây thơ của đứa trẻ vừa làm một trò đùa vô tội.
- Đến lượt ông! Đến lượt ông!... Người ta kêu to lên ở tứ phía.
Mọi người nhìn Socrate, chằm chằm. Tức điên lên vì trở thành trung tâm chú ý của cái trò ngu xuẩn mà ông đang cố tách mình ra bằng cách đứng lùi xa một chút này ông cảm thấy kinh tởm cho tất cả những quân mặt nghệt kia, cảm thấy nhục hộ cho New York, người đáng được đối xử tử tế hơn thế. Còn Irène, con đĩ ấy, nó sẽ trả cái nợ này với ông...
- Anh bạn thân mến, đừng lấy mất đi của chúng tôi cái thú được xem tài bắn của anh...
.... im lặng thình tình trở lại, Gus Bự đưa ra một khẩu súng. Socrate lạnh lùng nhìn vào mặt Gus rồi lấy tay gạt khẩu súng ra không cầm lấy nó. Ông ta thong thả đi tới một lùm cây, ngắt một bông hồng vào leo lên bục. Từ tốn, ông ta bỏ chiếc mũ ba sừng của giặc biển ra, lấy ở đó một cái ghim dùng để ghim chiếc sọ người bằng sắt vào vải mũ. Còn nếu như Bambilt không bằng lòng thì mặc xác hắn! Trên bức ảnh nhem nhuốc những xốt cà chua của Nớt, ở đúng vị trí quả tim, ông ta cắm bông hồng trắng vào. Đờ đẫn toàn bộ, trong tất cả mọi người, không sót một ai...
- Hoan hồ! - Gus Bự hét -... Đấy đấy là một người trang nhã thanh lịch, một gentleman!
Một trong các ông già hóa trang thành chú lính thủy học nghề không muốn thua kém. Ông nhào tới, một bông hồng trong tay và ném nó xuống dưới chân bức hình của chị chủ nhân; lập tức hàng chục người bắt chước làm theo ông ta. Ở New York, hoa hồng của Bambilt lừng danh. Để giữ cho chúng sống, ba người làm vườn từ tận California đến thường trực sinh sống ở trên mái tòa nhà, bảo vệ chúng sống lại sương giá, gió máy và khói của thành phố. Bây giờ người ta hái chúng chẳng khác gì hoa giấy và chúng đều chất đống ở dưới bức hình của Lindy Nut Bambilt. Đó chỉ là chuyện công bằng mà thôi... Khi các cây hồng không còn lấy một bông nào, những tiếng “hu-ra” [6] vang lên... Gus Bự loạng choạng đến bên dàn nhạc và nắm lấy một chiếc mi-crô:
- Hội vui tiếp tục! Phần thưởng lớn đang đến!
Vang lên thành nhịp đầu của một điệu xlô [7]. Những ngọn đèn pha mới chiếu sáng lên. Mỗi bước chân lại suýt vấp vào nhau, Bambilt đi tới phía bể bơi. Ông ta nắm lấy thành cầu nhảy, leo những bậc thang đầu tiên, xem khinh cầu nhảy ba mét, leo lên cao nữa tới cầu nhảy sáu mét. Người nghiêng ngửa, ông đi vào đó. Khi ông ra được một cách kỳ lạ tới đầu cùng của thanh ván đang rập rình dưới sức nặng của ông, ông ngừng lại và đột nhiên tin chắc chắn rằng mình là Thượng đế! Dưới kia, nhỏ xíu, những tinh hoa xuất sắc nhất của xã hội quốc tế không còn có quốc gia. Trên mỗi khuôn mặt hướng về ông, ông có thể đặt cho một cái tên và trên mỗi cái tên một con số. Hàng tỉ bạc ở dưới chân ông, những người đàn bà đẹp nhất, những người đàn ông quan trọng nhất, những người làm ra thế giới. Và ông, ông thống trị họ...
- Gus... Xuống đi... - Nut gọi to.
Khiếp sợ, chị ngắm nhìn Bambilt bị giam trong chùm ánh sáng của một ngọn đèn pha, người chèo thuyền già lão, say mèm nổi trôi trong khoảng không. Say, ông ta đúng là say, vì rượu và vì cái ý thức ghê gớm về sự hùng mạnh đang làm cho tim ông ta thở phồng.
Ông ta giơ bàn tay phải lên chỉ vào vòm trời... Những ngọn đèn pha khác thắp lên dọi vào cái hướng ông chỉ. Chọc thủng đêm tối, xuất hiện một chiếc máy bay lên thẳng mà tiếng máy che đi, đè dẹp những tiếng ồn ào trước đó. Nó nhẹ nhàng đậu xuống đầu cùng sân thượng. Những người hầu cầm đuốc đã xô đến, trải ra một tấm thảm dài màu đỏ đến tận chiếc máy bay; cửa máy bay mở ra, bước ra một cô gái tóc vàng xinh đẹp hoàn toàn trần truồng, trừ hai miếng băng màu hồng nhỏ xíu che đầu vú và cái hình tam giác che phần dưới... Tiếng máy chết ngấm. Đám đông kêu lên vì khoái trá. Cô gái đi tới cái bục trong khi dàn nhạc điểm theo bước chân nhún nhảy của cô bằng một điệu săm-ba. Vẫn vừa ngoáy mông đi, cô vừa mở ra một biểu ngữ mà người ta đọc thấy ở trên đó dòng chữ: Tôi là phần thưởng lớn. Ai đã được tôi?
- Kallenberg!... - Các vị khách be be lên.
- Các bạn!... Các bạn!...
Người ta chẳng biết nhìn ai nữa, người tù tội nợ đang la ó và múa may ở trên các cầu nhảy hay cô gái tóc vàng leo lên bục.
- Lên lấy phần thưởng đi!
Những bàn tay không rõ tên đẩy Kallenberg lên phía cái bục. Irène níu ông lại một cách bản năng, mũi nhọn ra, tái nhợt đi vì giận...
- Không có tên!... Anh lố bịch!...
Hai người với nhau, nếu có gì thì cũng được, chứ đằng này, trước tất cả mọi người như thế kia!.... Mất mặt... Con yêu Râu xanh gỡ tay vợ ra. Cô ta lại xấn vào, trong một cố gắng ghê gớm vờ cười, làm như chuyện vặt... Herman đã uống quá nhiều mất rồi...
- Xem đây!... Xem đây!...
Từ trên tít cầu nhảy, Bambilt gào to cho mọi người chú ý đến ông.
- Nhìn tôi đây! Gustave Bambilt!... Bảy mươi hai tuổi!
Yếu ớt, giọng Nut gửi trả lại ông một tiếng vọng mảnh dẻ:
- Đừng! Gút!... Đừng!...
Sau này, những người kể lại câu chuyện đã thừa nhận rằng mọi cái xảy ra nhanh quá, họ không thể thấy được tất cả chi tiết. Hai cảnh tượng đồng thời, đột ngột, mau lẹ, dữ dội - Gus Bự tung mình vào không gian trong một đường nhảy không chê vào đâu được, Irène xấn vào cô gái tóc vàng để ngặn cô ta hôn chồng mình... “Giải thưởng lớn” nổi tam bành, chửi rủa, khạc nhổ, cào cấu, cắn... Thần Biển thứ giả, râu bị đứt tuột, Kallenberg cố tách hai người ra. Gus Bự không thấy nổi lên mặt nước... Hai người nhảy vội xuống bể bơi, một hóa trang là thần tình yêu, mang cung tên; một là tờ giấy bạc một nghìn đô-la. Socrate mà buổi dạ hội sắp cho một biệt hiệu mới, “người với bông hồng” - chạy đến bên Nut đang vò tay sợ hãi ở bờ bể bơi... Tình yêu và tờ giấy bạc ngoi lên, xốc nách Bambilt. Những bàn tay chìa ra.
Người ta đặt Gus Bự nằm lên bờ bể bơi bằng men sứ Ý ghép hình. Duỗi dài, khung cốt to lớn của ông nom lại càng quá khổ, quá cỡ. Quanh ông, một vũng nước và ba giáo sư Mỹ cự phách: một giáo sư về tim, một nhà phẫu thuật và một chuyên gia về các bệnh mạch máu. Họ sờ nắn, nghe khám ông, người này làm vướng cẳng người kia... Họ nhìn nhau phiền muộn.
- Bị lạnh đột ngột dưới nước - Ông thứ nhất nói.
- Tắc mạch máu - Ông thứ hai nói.
- Hết phương cứu chữa... - Ông thứ ba kết luận.
Toàn thể các cảnh tượng khác nhau đó đã diễn ra với cái nhịp điên loạn và giật cục của một bộ phim câm thời xưa, đến nỗi một phần khách khứa - cái phần vẫn cố tách Kallenberg, vợ ông ta và “giải thưởng lớn” đang quẩn dính vào nhau trong một điệu vũ ba lê nực cười, quay cuồng - Chẳng hề biết rằng ông chủ đã chết.
Socrate dìu đỡ Nut. Chị vùi đầu vào ngực ông. Ông ngỡ chị sắp khóc, ông sợ chị ngã khuỵu. Chị thì thào rất nhanh vào tai ông, nhỏ chỉ mình ông nghe thấy:
- Anh cần phải giúp tôi... Anh bảo ngay cho tôi xem về mặt pháp lý, hiện giờ tôi là vợ góa hay vợ ly dị?
Socrate không ngạc nhiên một chút nào. Chị có lý. Hàng tỉ bạc sắp phụ thuộc vào cái chi tiết đơn giản trông đợi có ở hai hoặc ba giờ đồng hồ này. Và cái tỉ bạc đó liên quan trực tiếp tới Lindy Nut.
Chú thích:
[1] Đĩ quý phái: nguyên văn là “gái gọi” (call girl), không làm ăn ở chỗ công cộng hay ở đường phố mà có nhà riêng, khách chơi gọi dây nói đến hẹn trước..
[2] Tiền Anh và tiền Đức.
[3] Rất thân yêu (tiếng Tây Ban Nha).
[4] Súng Colt của Mỹ.
[5] Charles là tên gọi của đàn ông.
[6] Hoan hô.
[7] Điệu nhạc chậm.