← Quay lại trang sách

Phần Thứ Ba - Chương 20

Anh tài xế taxi giễu cợt nhìn người khách đáng ngạc nhiên của anh. Tự vỗ ngực là người giỏi xem tâm lý, anh vẫn chưa thể, trong một trăm ki-lô-mét, hiểu được cô là người thế nào, thật bụng muốn làm cái gì và đi đâu. Bản thân cô ta liệu có biết không? Khi từ sân bay Marignane ra, cô nói với anh bằng một thứ tiếng Pháp rất sõi nhưng với một cái giọng khó xác định nổi là giọng người nước nào:

- Tôi muốn đi xa hơn Carpentras. Anh có biết chỗ ấy không?

Nói chung khách không bao giờ bảo anh đi ra quá Marseille. Cô ta ở đâu đến? Biết bao nhiêu máy bay hạ cánh, cất cánh một ngày. Xếp cái túi thủy thủ vào trong hòm xe, anh thấy một tấm nhãn có tên một công ty hàng không Ý móc ở quai túi. Điều này chẳng nói lên được mấy tí. Vì máy bay Ý cũng đến cả Groenland hay Nam Phi. Dẫu sao thì anh cũng đã nhận lời đi xa rồi, tuy không thể không phấp phỏng lo để tự vệ: nếu cô ta sẽ không trả tiền anh? Nhưng anh lại tự trách anh ngay. Cô gái này kéo lê thê ở đằng sau cô một mùi nước hoa đắt tiền, dai dẳng, mùi nước hoa không phải ở quần áo cô mặc - một gin xanh và một áo pun màu lam thẫm cổ lọ của thủy thủ - mà là ở những buồng sóng thoang thoảng toát ra từ toàn thể con người cô. Anh đã nhiều lần thử gạ chuyện, bình luận đường xá họ đang đi, lấy cô ta ra làm chứng cho sự thiếu thận trọng của “những anh tài khác” khi anh vượt lên khó khăn, mời cô ta thuốc lá mà cô ta từ chối, kể những chuyện cười mà anh không hiểu liệu cô ta có hiểu hay không rồi cười cầu âu một mình vì đã cao giọng kể chúng ra. Khi đến Plan-d’Orgon, anh hiểu ra rằng chẳng ăn thua quái gì và thôi nói với cô ả. Chiếc xe lao đi giữa hai hàng cây tiêu huyền mà cái bóng sắc đậm của chúng đang băm chặt mặt nhựa đường kêu lên choen choét dưới bánh xe. Chốc chốc, những người nông dân bày các quầy bán dưa ở dưới vệ đường vẫy mời họ.

- Cái chỗ chị đến ấy gọi chính xác ra là cái gì?

- Chỗ ấy không gọi là gì!

Anh bực vì câu trả lời này, câu duy nhất anh nghe thấy từ khi bắt đầu cuộc đi của họ. Anh nhấn rõ:

- Không, tôi muốn nói là sau Carpentras thì tôi phải đi qua đâu?

- Anh chờ một chút... nó ở giữa (chị lấy ở trong túi chiếc quần gin ra một tờ giấy)... giữa Oppède và Roussillon... Tất cả những điều tôi biết là ở bên dưới con đường đi lên làng có một cái trạm biến thế.

- Vâng, nhưng cái làng gọi là gì?

- Ngày xưa gọi là làng Cagoulet.

- Nó đổi tên rồi à?

- Không. Nhưng không ai ở đấy nữa.

- A!...

Càng ngày càng kỳ quặc... Một cô gái ăn mặc như một sinh viên nhẵn túi nhưng lại không còn đủ trẻ để là một sinh viên, cũng không nhẵn túi hẳn vì chị phải trả món tiền xe khá đau đấy, và lại đi đến một cái làng không gọi là gì, không có ai ở...

- Chị có các bạn đang chờ chị ở đó?

Cô ta không đáp, điều làm cho anh khẽ nhún vai. Một lúc rất lâu chỉ còn lại những vũng nắng, những vùng rậm, tiếng máy thỉnh thoảng bị tiếng ve sầu gay gắt che át đi, tùy theo góc độ công kích của gió bắc, và xa xa mảng xanh lơ êm dịu của một cánh đồng trồng cỏ lavande, nét dựng thẳng đen nhánh của một cây trắc bá, màu đỏ chói chang như kêu thét của một bông mào gà trên lớp cỏ trụi của sỏi đá. Xe đi qua một cây cầu ở dưới có một dòng nước ngầu bọt vọt ra uốn khúc quanh co:

- La Durance... ở bên trái, đằng kia, là Avignon. Nhưng chúng ta thì sẽ tiếp tục đi về tay phải bởi vì chúng ta đến Carpentras...

Anh bật lên cười hô hố, hài lòng về câu nói đùa nghèo nàn của mình, rồi quay lại để xem cô ta có cười theo mình không: cô ta như chẳng nghe thấy anh cười, mặt quay sang bên phải, những món tóc lòa xòa tuột ra khỏi chiếc khăn quàng bị gió quất tung lên.

Anh vội quặt xe vào rìa đường, tiếng còi giận dữ của một chiếc xe hạng nặng báo cho anh hay là anh đang chiếm lòng đường. Đến lúc anh phải dừng lại lấy xăng. Anh xuống xe, đi lại phía cửa sau và hỏi cô:

- Chị muốn ra một tí cho đỡ chồn chân không?

Cô cám ơn anh bằng một nụ cười rực rỡ khiến anh ngẩn ra: cô gái này đẹp làm sao! Anh chưa thật hẳn nhìn thấy rõ cô cho đến lúc này, mà cô thì có một bộ mặt để đóng phim. Quả là cô đã giữ ở trên mũi một cặp kính râm rất to. Bây giờ cô bỏ kính ra, khiến bộ mặt hoàn mỹ của cô làm cho choáng váng, và một cách nghịch lý lại làm cho anh yên tâm: mặt mũi như thế này thì người ta có cái để trả tắc xi.

Anh lại ngồi vào tay lái và đi tiếp. Bên tay phải, người ta đã trông thấy dãy núi nằm ngang ở Luberon, màu xám lam. Đã đi qua Carpentras, rồi Vaison-la-Romainen. Ve sầu kêu dữ dội đến nỗi người ta không nghe thấy chúng nữa, âm thanh nền, âm thanh của gió.

Người tài xế quay lại khách đi xe:

- Chú ý hử! Ta đến đấy.

- Sau Roussillon, Roussillon đây.

Những ngôi nhà màu gạch cua, những cây tiêu huyền trăm tuổi lẻ và những cụ già nom trẻ ở trước những cái cửa. Một quả bóng lăn vào gầm xe, một thằng bé đuổi theo sau. Phanh rít:

- A! Người ở đây lơ mơ nhỉ!

Ra khỏi làng chừng vài cây số, chiếc xe chạy chậm lại gần như lăn từng bước:

- Chị có nói đến một trạm biến thế hử?

Anh chàng nhờ cô trả lời. Anh bất giác liếc vào đồng hồ chỉ cây số: 52.398 phrăng! Làm sao anh dám đưa ra cho cô ta một con số khổng lồ đến thế? Dẫu sao đó là tại lỗi của cô ta, tại sao cô lại không hỏi anh để thuê chuyến.

- Đây! Trạm biến thế của chị đây!

Một cột bê tông đứng gác ở ngã tư đường chính và một con đường khác rải đá leo lên đồi. Người tài xế nhảy xuống xe tìm một cột chỉ đường mà các dòng chữ hình như đã bị xóa, lại gần rồi đắc thắng reo lên:

- Cagoulet!... Chị thấy không, có ghi! Hai cây số. Ta đi đến đó chứ?

Cô lắc đầu, tỏ ý muốn xuống xe ở đây. Anh nói tiếp:

- Cái đó nữa, tôi cũng ngạc nhiên! Một cái làng chẳng có tên, đúng là ý nghĩ người Paris thật!

- Anh cho tôi cái túi.

Anh mở hòm sau xe, lấy ở đó ra chiếc túi thủy thủ và cầm nó trong tay, không dám đặt xuống đãt hay đưa cho cô.

- Tôi phải trả anh bao nhiêu?

Anh thật sự khổ tâm mà nói với cô ta rằng:

- 52.720 phrăng.

Anh cúi đầu, tựa hồ vừa thốt ra một câu thô tục. Anh muốn bớt cho cô.

- Thôi, năm mươi chẵn và thế là tốt lắm rồi!

Cô mỉm cười với anh, thọc các ngón tay vào trong chiếc túi - những ngón tay mà anh sẵn sàng thề là chúng chưa bao giờ dầm vào một chậu nước giặt giũ nào - và lấy một tập dày đáng sợ những tờ giấy bạc lớn: anh gần như thấy chướng vì điều đó.

- Chị đi chơi mà mang tất cả cái này theo à?

Lại một nụ cười. Cô đưa cho anh sáu tờ giấy bạc mười nghìn phrăng. Anh lấy năm tờ, còn trả lại cô một tờ. Cô từ chối.

- Được, thế thì tôi lấy tiền lẻ ra trả lại chị.

Cô giơ tay ngăn:

- Anh giữ cả, đi với anh là tôi thích rồi.

Bây giờ, anh thật không biết nên làm như thế nào nữa. Anh đứng thần ra ở trước mặt cô ta, tập giấy bạc ở trong tay. Khi về Marseille, anh mà kể cho chúng nó nghe chuyện này nhỉ... Như một thủy thủ chính cống, cô hất cái túi lên vai bằng một động tác hông, mỉm cười với anh một lần cuối cùng rồi đi vào con đường đá. Anh đứng một lúc lâu, ngắm hình dáng cô xa dần, ngưỡng mộ những đường nét bị chiếc quần vải thô bó lẳn lấy. Cuối cùng, anh lắc đầu như để ra khỏi một giấc mơ, ngồi vào chỗ của mình rồi mở máy, đầu đầy những ý nghĩ mông lung.

Đến một lúc, con đường đi theo sườn dốc một quả đồi nhỏ và Lena phải xuống thấp, điều làm che khuất mất một lúc những ngôi nhà cô đã nom thấy khi ở trên cao. Cái đập vào cô trước tiên là chất lượng của sự yên tĩnh và hương vị thơm mát của không khí. Đôi khi tiếng chân cô gây ra một tiếng trượt gọn lỏn và lén lút, có thể là một con thằn lằn hay một con thỏ chạy trốn. Mặc dù việc cô sắp phải làm, cô vẫn cảm thấy tự do một cách lạ lùng, và trẻ, không tài nào nghĩ ra nổi một cái gì thật hơn được khung cảnh này. Một cái gì vừa vững chắc, thô khỏe, vừa thuần khiết, không giả tạo, cũng không thum thủm bốc mùi. Chẳng hiểu vì sao cô đã chạy, sung sướng cảm thấy hai chân mềm mại của mình và cái cử động thoải mái của các cơ bắp. Không kể đến lớp nhựa ngớ ngẩn của sân quần vợt, đã từ bao lâu nay cô chưa hề chạy rồi, chạy vì vui thích, không có mục đích nào khác là sự kích thích của bản thân việc chạy. Cô tới đỉnh dốc, lại dần dần trông thấy ba hay bốn ngôi trại lớn, trước là thấy mái với những chỗ hụt ngói, sau đến những bức tường dày trổ những cửa tròn ở ngay dưới giầm kèo rồi thấp nữa, những cửa sổ có cửa chớp màu xám và đen loang lổ vì cũ. Không khí vắng một cách khác thường. Vẳng đến tai cô tiếng một con gà mái kêu cục cụ và những hòa âm xoành xoành của một chiếc ghi-ta. Bên trái những ngôi nhà, hơi tách ra một chút cô trông thấy một căn nhà kho có một cây rơm kề bên và một cái giếng không xa một cây ô-liu lắm. Trước cái giếng, hình dáng một người đàn ông đang kéo xô nước. Người đàn ông cởi trần đến thắt lưng và hát theo những nốt của chiếc ghi-ta. Lena dừng lại một lát, vẫn chưa bị người đàn ông trông thấy. Cô đặt túi xuống dưới chân, và đứng nhìn, thấm đậm ánh sáng, giai điệu nhạc và không khí thơm lành, ngắm cái lưng nổi bắp và rám nắng của người đàn ông mà bây giờ cô đã thấy là có một bộ tóc rất dài buộc túm lại ở đằng sau cổ. Cô nghĩ rằng cô đang sống một giây phút hiếm hoi, tuy cô đã ngăn cô đừng nghĩ như thế, bởi vì chẳng có lý do nào lại là như thế cả. Nhưng điều đó làm cho cô nhớ lại một giây phút ân huệ khác mà cô được hưởng nhiều năm trước đây, ở Hy Lạp, trong một chuyến đi biển trên du thuyền của chồng, trong khi cô bơi ở dưới đáy biển đến một vùng nước, nơi cô trông thấy thân hình người yêu của cô gần như thấu suốt do đỏ rực màu da cam. Cô thở gấp một hơi, đặt lại cái túi lên vai rồi đi dứt khoát, đến phía các cái trại. Đôi giày đế sợi của cô không bước êm trên mặt đất. Cô chỉ còn cách người đàn ông mười mét thì vì bản năng anh quay lại, chiếc xô đầy nước trong tay.

- Hê-lô!

Lena mỉm cười ngượng nghịu đáp lại:

- Hê-lô!

Cả hai đều đứng im. Anh với chiếc xô, cô với chiếc túi. Họ chỉ nhìn nhau không nói một lời, anh chắc khoảng hai mươi, hai nhăm tuổi, cao lêu nghêu, râu ria xồm xoàm, tóc đen, khắp người đen nhẻm vì nắng, trừ hai hàm răng xẻ rạch mặt anh ta ra như một đường ánh sáng, và đôi mắt màu nhạt xuyên thủng nó như hai cái lỗ trên một chiếc mặt nạ, Lena nghĩ ngoài Marc ra, cô chưa thấy một người đàn ông nào đẹp như thế: đáng lẽ đến tìm vị thần đang làm lụng này thì những nhà sản xuất phim ở Hollywood làm cái quái quỷ gì không biết? Cô hết sức cố gắng để trở lại với thực tế. Cô làm một vẻ mặt xa vắng và cô muốn tỏ ra oai quyền. Trong nhà, cây ghi-ta ngừng điểm nhịp cho khung cảnh và bầu im lặng càng trở nên ghê gớm. Anh vẫn nhìn cô, thân thiện, tốt ý, cười cợt, tự tin. Cô nói một câu gọn lỏn bằng tiếng Anh:

- Tôi đến tìm em gái [1].

Lông mày bên phải của chàng trai nghếch lên cao một mi-li-mét. Anh đặt cái xô xuống:

- Là ai cơ, em cậu ấy?

Lena sững người vì người ta có thể cậu tớ với cô. Cô nuốt nước miếng:

- Melina. Melina Mikolofides.

Anh cười toét:

- À thế à? Cậu là chị của Melina? Nó đi lấy củi... Cậu uống nước không?

Lena nhận thấy mình khát khô cổ họng:

- Không, cảm ơn.

- Uống đi, nước mát lắm!

- Cảm ơn, không.

- Nếu thử! Này lại đây xem...

Anh đặt xô lên thành giếng, lại bên cô, cầm tay cô kéo đến cạnh giếng mà cô không dám phản đối.

- Nào... Uống đi...

Không cưỡng lại nữa, cô cúi xuống chiếc xô đầy những bóng xanh lam và nhúng môi vào. Nước lạnh làm miệng cô buốt lên. Cô uống từng ngụm ngon lành, một lúc lâu.

- Thế cậu là vợ của Satrapoulos, gã đầu lừa đấy à?

Rồi anh bật cười to. Xem ra anh không coi việc đó là cái gì hết. Tuy anh nói câu đó không một chút gây gổ, cà khịa, Lena vẫn gay gắt vặn lại:

- Anh lạc hậu mất năm năm rồi. Tôi là nữ quận chúa Sunderland.

Anh nghiêng mình, khoát rộng tay chào, với một cái vẻ khiến chị muốn giết tươi anh:

- Xin bà tha lỗi, thưa quận chúa, tôi không biết ạ.

Rồi nói thêm:

- Muốn gì, ở đây cậu có là quận chúa hay con ở thì cũng chẳng nghĩa lý gì với chúng tớ cả.

- Chúng tớ!

- Ừ... chúng tớ có bảy đứa, ba gái và bốn trai, thêm cậu thì đẹp, sẽ thành số tròn, không lẻ.

Lena lẽ ra muốn lơ đi cái sự láo xược này, nhưng cô không giữ được:

- Anh nhầm, không có tôi và Melina, các anh chị chỉ là sáu người.

- Ai bảo cậu là Melina muốn đi? Và ai bảo cậu là cậu sẽ không muốn ở lại?

Sự táo tợn làm cho Lena tức uất.

- Em tôi đâu?

- Nào, vào trong nhà, bỏ cái thùng xuống rồi chôn lưỡi búa chiến trận của cậu đi. Cậu đói không?

- Không.

- Cậu vừa mới không khát xong. Mà cậu vẫn uống đấy!

Anh lại cầm chiếc xô và đi vào cổng trại. Đến tận nơi các ngôi nhà nom thảm hại, vá víu, trống hở tuềnh toàng nhưng màu sắc, gạch cua và nâu, được nắng cho một lớp thời gian cổ kính, thì lại nóng ẩm. Lena đi theo anh. Khi cô đặt một chân lên cái bậc duy nhất của thềm lên xuống, anh đã né để cô đi qua và nói nhỏ vào tai cô, như một lời tâm sự:

- Tên tớ là Fast!

Cô vào một gian phòng mênh mông, ở trong cùng dàn ra phè phè một cái lò sưởi kếch xù. Nền đất nện, vài thứ nông cụ cũ kỹ sét gỉ móc trên tường đá, mạng nhện trên kèo trần, thật ra không còn trần mà là mái. Ở một góc, một cái ổ rơm rộng, một cái bàn đồ sộ thô kệch đầy đĩa bát bẩn và hai bàn chân trần của một anh con trai đang ôm một cây ghi-ta trong tay:

- Nó là Julien.

Rồi mỉm cười nói với Julien đang cúi chào:

- Chị của Melina! Cậu tên là gì? Tên gọi, chứ không phải họ?...

- Lena... Ồ... Helena.

- Tốt. Nào, Lena, bởi vì cậu ở đây cho nên cậu phải nhúng tay vào việc... Do cậu đã bước vào gia đình chúng tôi, cậu hãy đi nhặt đậu. Cậu sẽ thãy hay lắm, tớ cuộc là cậu chưa nhặt đậu bao giờ!

Lena không thể không liếc vội vào các móng tay dài nhọn bôi son màu của cô: hoặc là cô ngủ mơ, hoặc là mười mươi cái gã này rồ!

Như một cơn lốc, Irène bước trước mọi người vào phòng cô ta, hai chân tự tụt lấy giày rồi hất tung đôi giày da cho chúng muốn rơi đâu thì rơi. Cô cáu kỉnh quẳng chiếc ví tay, nó bay lên một quảng trước khi rơi xuống mép giường và mở toang ra, đồ lề bên trong tung tóe. Vào sau cô, người hầu và chị sen, tay ôm đầy những va-li, sững sờ nhìn nhau. Do Irène đã tự hào không bao giờ để cho người giúp việc thấy được tâm trạng mình, cô phải vờ trút cơn giận dữ vào cái việc cỏn con do chính cô gây ra:

- Kìa, giúp tôi đi chứ lại đứng đực ra à!

Liza vội nhào đến nhặt nhanh các đồ vật nho nhỏ rơi ở trong ví ra. Xô đến cản không cho nhặt, Irène ốp lên mặt mình một nụ cười đáng sợ, trái nghịch với sự căng thẳng nội tâm của cô:

- Thôi, để đấy Liza! Tôi làm lấy. Lát nữa, tôi sẽ gọi chị lấy trà...

Liza đánh hơi thấy cơn bão nổi ra đến nơi. Chị kín đáo làm hiệu cho Albert rồi kéo anh ra theo mình. Họ vừa ra khuất, Irène liền quăng mình úp sấp xuống giường run rẩy tìm hộp thuốc. Khi tìm thấy nó, cô đặt ba viên lên lưỡi, nhăn mặt, mở một tủ ngăn kéo lấy một chai cô-nhắc. Cô tu luôn một ngụm dài, giơ tay lau mồm, ho một hơi rồi cúi gập người xuống đi vào buồng tắm. Cô mở to cái vòi nước bằng vàng ở chậu rửa mặt, khum hai tay đựng nước và uống một miếng đầy. Cô càng ho dữ. Tất cả đều hỏng bét! Cô ngồi xuống chậu đại tiểu tiện, đầu đặt lên hai nắm đấm, răng nghiến chặt và va vào nhau, lập cập, cô nén không nổi cơn giận và nỗi thất vọng của cô. Ba hôm trước, cô đã nhận được lệnh của mẹ qua dây nói:

- Lên máy bay ngay và đến đây lập tức! Không cãi! Gia đình đang lâm nguy.

Cô đã toan táo gan cho bà mẹ nghỉ sớm cơ đấy, nhưng cô lại cam trả lời bà: “Thưa mẹ vâng, con đến”. Như thường lệ. Lúc tới sân bay Athènes, cô ngạc nhiên một cách khó chịu thấy em mình ở đó. Bản thân Lena cũng vừa mới đến trước đó một giờ, được triệu tới bởi cùng các duyên cớ bí mật trên. Médée Mikolofides không hề úp mở quanh co. Bà cho gọi hai chị em vào ngay phòng làm việc của bà và bảo đóng chặt cánh cửa nhồi da lại. Bà ngồi trong chiếc ghế bành ưa thích của bà, nét mặt trịnh trọng và nghiêm nghị, sắp mở miệng nói, bà lại thôi, đứng dậy, chân thoăn thoắt và len lén ra cửa, mở đánh rầm tựa như bà đang sẵn chờ một kẻ nào nấp ở đằng sau đó. Hành lang dài vắng lặng. Bà quay về ghế ngồi, tỏ ra không để ý đến con mắt của Lena và Irène nhìn bà, ngạc nhiên. Bà tiến công:

- Chúng ta đang bị nhục. Và tiếp theo chuyện nhục là sự nghiệp tan tành.

Lena và Irène nín câm nghe tiếp. Thận trọng như một người âm mưu làm loạn, bà mẹ lấy ở trong một cái hộp nhỏ khóa kín ra một trang báo:

- Các chị đọc đi... Nếu bố các chị mà đọc thấy thì ông ấy chết đi được!

Hai người thiếu phụ sửng sốt cùng cúi xuống để đọc... Đó là một bài đăng trên một tờ báo Pháp, đầu đề:

CON GÁI CỦA NHÀ TƯ BẢN KẾCH XÙ TRONG THIÊN ĐƯỜNG NHÂN TẠO.

Lena có vẻ lo lắng nhưng Irène cảm thấy trong người tràn ngập một tình cảm đắc thắng: đây là dính đến Melina, đứa em của cả hai, đứa em khinh hai người chị ngỡ như xéo đạp lên được. Thế thì đẹp quá còn gì! Theo tờ báo, Melina đoạn tuyệt với truyền thống làm việc và nghiêm túc của gia đình, đang sống một cuộc sống cực kỳ tự do - chữ “cực kỳ” in đậm - trong cộng đồng híp-pi tại miền nam nước Pháp, trong dãy hoành sơn Alpilles. Trong cộng đồng này - Người phóng viên viết tiếp - tất cả chia đều, nhàn vui, cơm nước, ngủ nghê, tình yêu (ở đây chữ “tình yêu” lại cũng in đậm).

- Thế nào? Các chị nghĩ sao?

Médée nói như vắt câu đó ra, hai bàn tay bám vào bàn làm việc, người ngả về phía trước. Kiêu hãnh, Irène thấy rằng lần đầu tiên trong đời, mẹ mình hỏi đến ý kiến mình, bảo cô tham gia các quyết định của bà. Dĩ nhiên không có hạnh phúc trọn vẹn, vì cả Lena cũng hưởng được sự tin cậy này: cô hãy còn quá vớ vẩn để có thể thích thú được điều đó.

- Chưa hết đâu - Médée nói tiếp - Xem đây!

Bà lấy phắt ở trong cái hộp con ra một tập báo buộc bằng một sợi dây cao su:

- Phần lớn tạp chí châu Âu đã đăng lại cái tin này của cái tờ báo Pháp bẩn thỉu xoay tiền kia!

Bà rõ ràng chờ các lời bình luận của các cô.

Đạo đức giả, Irène nói trước:

- Melina đáng thương... Chắc là em nó khổ lắm...

Bà góa Mikolofides chồm lên:

- Thế còn tao? Và chúng ta!... Tôi muốn rằng em các chị ngừng cái trò bậy bạ của nó lại, các chị hiểu chứ? Tôi muốn nó trở về nhà! Và nếu nó không muốn đi theo các chị thì tôi cử bọn cớm đi tìm nó!

- Mẹ muốn chúng con đem nó về?... - Lena hỏi, những lúc nghiêm trọng cô gọi mẹ là mẹ như khi cô còn bé.

- Cả hai chúng con ư? - Irène xen vào.

Médée không trả lời ngay, mãi nghĩ ra cách trả lời tốt nhất làm cho con chim lạc lối của bà trở lại với chuồng, với ổ. Cuối cùng bà nói:

- Ý chị sao?

Irène nắm lấy câu hỏi, sung sướng có dịp may làm người trung gian ở giữa các thành viên ly tán của gia đình:

- Mẹ, có lẽ tốt hơn hết là một trong hai chúng con đi thôi. Cần kín đáo... không gây tai tiếng...

Médée nhìn chị chầm chầm...

- Chị nghĩ thế?

- Vâng, thưa mẹ, ý kiến con như thế.

Bà quay sang Lena:

- Còn chị?

- Con nghĩ là chị Irène nói đúng. Nếu cả hai chị em đến thì có cơ Melina cưỡng lại.

Bà góa đặt xòe hai bàn tay lên bàn:

- Được, tốt. Lena, chị sẽ đi.

Irène có cảm tưởng bị một lưỡi dao gấm đâm vào tim! Thế này thật quá bất công! Chỉ một câu, mẹ cô đã bỏ đi mất của cô cái vai trò quan trọng cô từng làm cho nó lấp lóa trong vài phút. Như xưa nay, cô đã không dám phản bội và giấu nỗi thất vọng của cô bằng cách khẳng định ngược lại điều cô nghĩ. Quay sang Lena:

- Mẹ nói đúng. Em ngoại giao hơn chị.

Cô uất nghẹn lên vì câu cô nói... cô nói tiếp:

- Với lại chị có nhiều việc phải làm ở Luân Đôn quá...

Bà mẹ nhìn xói vào chị:

- Không có chuyện chị về Luân Đôn đâu! Chị ở đây, trong khi chờ Lena đem Melina về, tôi trông coi chị. Phải gắn lại với nhau!

- Nhưng... - Irène thử phản đối - chồng con...

Médée bật lên cười khinh miệt:

- Chồng chị ấy ư!...

Phải nói rằng bà góa Mikolofides càng có tuổi càng trở nên không thể chịu nổi. Trong bốn mươi tám giờ sau đó, bị giữ rịt ở trong ngôi nhà mênh mông tựa hồ mới lên sáu tuổi, Irène nhận ra thấy điều đó bởi một lô một lốc chi tiết. Bà ta có một mặc cảm bị hành hạ ngược đãi khiến bà ta nhìn thấy kẻ cắp ở khắp nơi. Bà ta sẵn sàng coi những người giúp việc thân cận nhất là những đứa lưu manh đểu cáng, một khi họ tự liệu có chút sáng kiến, một cử chỉ tự lực nhỏ nhặt nhất nào. Ngoài ra, bà ta đã nói thật với Irène lòng thù ghét của bà ta đối với Kallenberg và Satrapoulos. Trước hết vì hai người đã cạnh tranh như điên ở trên biển với bà - bất chấp rất nhiều Hiệp hội mà cả ba cùng chung vốn với nhau - thứ hai vì thành công ghê gớm của hai chàng rể - bà vẫn chưa quên được việc Satrapoulos và Lena ly dị - là một sự xỉ vả nghiêm trọng đối với những đặc quyền chủ xí nghiệp của bà ta. Tóm lại, Irène đã qua những giờ ác mộng ở bên cạnh nhà độc tài dễ bẳn và đa nghi này. Sáng ngày thứ ba, thấy người ta vẫn chưa có vân mòng về Lena, Irène đã phải van nài bà để bà cho cô ta trở về Luân Đôn, thề rằng cô sẽ gọi dây nói và sẵn sàng để cho bà sử dụng. Chưa nguôi giận, cuối cùng Médée đã nhận lời.

Và bây giờ Irène đang ở trong dinh cơ của cô tại nước Anh, ngồi như một con ngu ngốc ở trên một cái chậu ỉa đái, khổ sở như cô chưa hề khổ sở như thế đã từ lâu. Cô nghe thấy cửa phòng mở ra, nghĩ là Liza trở lại. Cô vẫn ngồi im lặng như cũ, chỉ đẩy hờ cánh cửa buồng tắm vào. Cánh cửa bị đẩy từ bên ngoài lại mở ra về phía cô. Cô ngẩng đầu lên. Herman nhìn cô với một vẻ chán ớn không thể nói ra lời. Bị bất ngờ, cô chẳng nghĩ đến thay đổi tư thế, và vẫn theo đuổi ý nghĩ của mình, cô lấy chồng ra làm chứng cho sự bất công của bà mẹ:

- Cái con ấy, cái con ấy!... Bao giờ cũng là cái con ấy!

“Con yêu râu xanh” nín lặng. Cô nói rõ:

- Mẹ chẳng có suy nghĩ gì cả! Mẹ đã chọn Lena đi tìm Melina!

Kallenberg như bùng nổ:

- Người ta mặc xác cái đứa em con đĩ của cô! Vừa xảy ra một chuyện kinh khủng đây này!

Irène bất giác giơ tay lau rimmel [2] chảy từ trên mắt xuống, hòa vào phấn hóa trang làm cho hai gò má cô loang lổ: còn có thể xảy ra cái gì tệ hơn nữa đấy? Cô bị mẹ làm nhục và bị chồng đối xử như một con chó.

Melina đứng thẳng lên, xoa xoa vùng ngang lưng đau ê ẩm và chửi thề.

- Cục cứt!

Cô đến buông mình xuống dưới một gốc cây ô-liu, rút ở trong túi sơ-mi ra một điếu thuốc lá rúm ró và châm lửa. Cô chán phè cái việc đi kiếm củi. Cô chán phè mọi sự, cô rít vài hơi thuốc và suy nghĩ về cái chủ đề cũ rích của cô: giống như một đứa trưởng giả làm cho cô buồn nôn, nhưng sống một cuộc đời trở về với ruộng đất cũng chẳng làm được cho cô thoải mái hơn. Vậy thế nào? Chỗ đứng thật của cô ở đâu? Cô đọc thì thầm bốn câu thơ cuối cùng trong bài Gaspard tội nghiệp của Verlaine:

Tôi sinh ra quá sớm hay là quá muộn,

Tôi làm gì đây trên thế gian này

Ôi tất cả nỗi khổ của tôi sâu sắc

Hãy cầu nguyện cho tôi, chàng tội nghiệp Gaspard.

Cô đã cảm thấy rõ là cô được thỏa thuê toại nguyện nhờ có Fast - anh keo kiệt thân xác hơn keo kiệt về lời châm chọc rất nhiều - nhưng không ổn: căn bệnh của cô ở ngay trong máu huyết cô và nó có từ quá lâu rồi. Khi cô vừa đến tuổi suy nghĩ - mà cô gọi là tuổi không suy nghĩ - cô đã hiểu được rằng cô sẽ không thể như hai bà chị buông mình trôi theo nề nếp. Gia đình - nhất là gia đình cô - làm cho cô tởm lợm, mọi cố gắng liên tục đều đem lại cho cô một cảm giác váng vất... Cô bèn chơi quân bài may rủi, nó đưa cô thẳng một lèo tới quân bài Hưởng lạc. Nếu người ta có thể nói ra thì: thì điếu thuốc lá đầu tiên năm lên mười - để xem sao - người tình đầu tiên năm mười ba tuổi - vẫn là để xem sao - chơi trai năm mười lăm, hút ma túy hình như cùng thời kỳ đó. Điều ngộ nhất là rốt cục, ở trong nhà, người ta không coi cô như là đứa trẻ con vĩnh viễn của dòng họ nữa, bởi vì cuộc nổi loạn thường trực của cô đã xúi giục cô làm những việc không thể nào lường trước và vì cô không chịu uốn theo những luật lệ của dòng họ.

Médée Mikolofides đã quyết định từ nay tốt hơn cả là người ta coi cô như đứa độc đáo chứ không phải đứa rồ, dại nghiện ma túy sa đọa. Các vai trò đã được phân chia, cô liền đem danh dự ra giữ trọn đến cùng chức phận của mình. Khi mẹ cô phái cô đến học ở đại học, cô đã bỏ trường đi với một gã lang thang gặp gỡ ở trong buồng đại tiểu tiện của sân bay. Có tiền chi đủ cho hai mạng, anh có đầu óc ngông càn đủ dùng cho bốn. Đời đẹp dài được nửa tháng. Khi cô tiêu hết đồng xu cuối cùng, anh liền mất sạch tính bông phèng hài hước: đứa con hoang trở về. Người ta xóa sổ tất cả và người ta bắt đầu lại... Từng phen bất thần, làm như không hay biết gì, mẹ Médée lại giới thiệu với cô những đám tán tỉnh cô một cách lãng mạn, trong khi lẽ ra chỉ cần bóp vú cô cho đầy tay, là cô ừ liền. Bọn ngu si! Những xe hơi kiểu xe đua, những ca-vát, trình độ trí tuệ, tính nhút nhát của họ thì có non nước gì! Sao mà cô căm ghét họ thế, những nhân vật được gia đình cô chiều chuộng kia! Nặng nề, béo tốt, mụ mẫm, diện bảnh chọe, cất lời mà chẳng nói ra được cái gì - tức là chỉ nói về mình thôi - những kẻ khiếp nhược đang tìm kiếm thân phận, những kẻ mô phạm uyên bác và trịnh trọng, đáng ngán như cái chết...

Như một nhân chứng thản nhiên, cô đã khinh bỏ chứng kiến những câu chuyện vợ chồng thảm hại của hai bà chị, do những tên ăn thịt người đáng sợ đặt bẫy. Nhưng có những điều kiện giảm khinh cho các chuyện đó: trong con mắt cô, Irène là một ả không có đầu óc, còn Lena thì đẹp và vô vị ngang nhau. Bây giờ cầm chắc thoát khỏi số phận hai người rồi, cô lại thầm hỏi liệu cô có tránh vỏ dưa vặp vỏ dừa không đây. Hai mươi tuổi, cô tin chắc những beautiful people [3] mà cô quen lui tới, các nghệ sĩ lẩn trốn khỏi cảnh tù túng, các nhà sáng tạo trăm thứ bà dằn sẽ có thể nảy nở thành những vị thần, một ngày nào đó.

Cô đã bị tưng hửng... Từ nay, trong các bạn đường của cô; cô đã đánh hơi không hề sai ra được ai là những kẻ tương lai sẽ thất bại, những kẻ ngỡ rằng chỉ cần uống rượu thôi thì ắt có tài, bởi lẽ một số thiên tài đều nghiện rượu. Lô-gích của những dân say, những dân túy lúy tối ngày...

Khốn thay, cô lại quá kiêu hãnh, không cài được số lùi sau khi đã chặt đứt mất bao nhiêu là cầu rồi. Tốt hơn cả vẫn là vờ tin vào cuộc phiêu lưu của mình, vào tình yêu tập thể, vào những lý thuyết triết học bao la và vào những cái hay của chế độ ăn rau quả. Người tù của một trào lưu chống lại nề nếp - cái chỉ là phản ánh của nề nếp lật ngược - đôi khi cô cảm thấy rằng dám thú nhận thất bại sẽ là chiến công lớn nhất của cô. Nhưng đến phút cuối cùng một cái gì đó luôn luôn ngăn giữ cô lại. Chà! Nếu không có Fast thì cô đã bán xới khỏi cái trại thối mục này từ lâu rồi!...

Thình lình cô có cảm giác cô đơn, chua cay, không người tri kỷ. Cô bất chợt thấy mình đang thì thào: “Mày ấy, mày đang ở trong một thảm cảnh đó, biết không?...” Cô dụi mẩu thuốc lên lớp rêu khô, khoác bao củi lên vai rồi đi tiếp về nhà kho.

Fast đang chờ cô ở ngưỡng của, nụ cười muôn thuở mập mờ khó hiểu ở trên môi. Bằng bản năng, cô biết rằng anh có điều gì muốn nói với cô. Cô đứng sững trước mặt anh, buông bao củi xuống đất. Anh nhấm một cọng rơm, nhìn cô. Rồi với một vẻ thích thú, anh chỉ vào ngôi nhà nói:

- Có người nào đến tìm cậu đấy!

Cô cau mày, sửng sốt:

- Ai?

- Chị cậu.

Chú thích:

[1] Ở đây, có sự lầm lẫn của tác giả. Tập I giới thiệu Melina là chị của Lena.

[2] Thuốc bôi mắt để trang điểm.

[3] Giới người bảnh chọe.