← Quay lại trang sách

Chương 22

Lena muốn bịt tai lại, cảm giác cô không biết tới nữa, từ sau cái thời còn bé, cô từng vùi đầu xuống gối ẩn trốn, để không nghe thấy những tiếng động trong buồng bố mẹ vọng ra, những tiếng động đáng sợ cho cái tuổi mười hai của cô và không bao giờ cô muốn hiểu xem chúng có nghĩa là gì. Cô cố tự khuyên giải, tự bảo mình rằng những bí mật ấy không còn là bí mật với cô nữa, và đã từ lâu rồi, nhưng không ổn. Cô quay sang nằm nghiêng, dán thật sự vào tường, càng xa được bao nhiêu càng tôt với những người mà cô nghe thấy đang thở hổn hển: người ta làm tình ngay trước mũi cô, trên cùng một cái giường! Thật ra, đây không phải là một cái giường chính cống, mà là một chỗ nằm mênh mông, cái ổ nối liền theo chiều rộng, làm bằng những tấm nệm cũ đặt ngay ở mặt đất. Cái giường duy nhất của ngôi trại là một cái khung cũi với những thành bằng sắt đen, ở trong có hai đứa bé, một trai hai tuổi và một gái mười tám tháng đang nằm ngủ.

- Chúng là con ai? - Trong bữa ăn tối, Lena đã hỏi.

Họ nhìn nhau mỉm cười và Melina, không phải không ác ý, đã làm phiên dịch cho tất cả:

- Em có thể nói cho chị tên mẹ của chúng. Còn bố thì ta hãy nói rằng là một trong số những thằng lưu manh này. Nhưng đứa nào đây?

Quay sang đám con trai:

- Các cậu có biết nó không?

Trước sự im lặng thích thú của họ, Melina nói:

- Chị xem đấy, chúng cũng không biết chút nào hết, thì nói là con chung tất cả vậy. Dẫu sao, bọn này sống trong cộng đồng.

Trong bữa ăn tối, lần lượt từng người phục vụ người khác, trong câu chuyện trò, nói đến nghệ thuật, mưa gió, thời tiết đẹp, mùa, số lượng bánh ngày mai phải đi lấy trong làng. Hai trong ba cô gái để vú tồng ngồng. Melina là một. Người ta có thể nói cô ta đã làm mọi cái để cho bà chị vướng tai gai mắt, nổ ra những phản ứng tức giận, phản kháng hay dữ dằn. Nhưng Lena lỳ ra, thất kinh bởi những điều nhìn thấy, những điều xa cách quá với cô đến nỗi có lẽ cô cũng chẳng thấy ngạc nhiên hơn nếu cô phải qua một buổi tối ở nhà những người trên sao Hỏa. Sau bữa ăn, họ nằm ườn ra ở trên “giường” tập thể, hút thuốc lá:

- Cậu muốn không? Có đấy.

Một cách dũng cảm, Lena đã hút điếu thuốc marihuana [1] đầu tiên của cô, rít một vài hơi vụng về, uổng công chờ mở ra cho cô những thiên đường lừng tiếng mà người ta vẫn tán tụng biết mấy với cô. Nhưng chẳng có cái gì xảy ra hết, quá lắm là cô thấy đầu hơi nặng, nhưng không dám chắc có phải do rượu vang hồng cô uống hay không. Julien cào giã cây ghi-ta, đùa một lúc bằng cách đệm trái nhịp cho tiếng khóc của một đứa bé vừa mới thức giấc. Ngoài Julien và Fast, có Éric, một người Hà Lan đang thổi sáo và Alain, một người Pháp. Một trong ba cô gái tên gọi là “Mụ da đỏ”, chẳng rõ vì sao, có thể do hai con mắt màu xanh lá cây mênh mông và bộ tóc đen như mun tết bím của chị. Theo như điều Lena ngỡ ra đã hiểu được - cô chú ý tránh hỏi han để khỏi bị Melina gây gổ - thì “Mụ da đỏ” là nhà điêu khắc. Cô gái khác tên là Zize: tròn xoe, to béo, cởi mở và vui tính, luôn luôn dậy sớm nhất, trước khi “Mụ da đỏ” kịp duỗi thẳng cái khung cốt mềm mại dài ngoằng của mình. Rõ ràng không có một cặp ổn định nào trong nhóm người này, mỗi người chọn lấy người của mình tùy theo ý thích từng lúc. Tuy vậy, Lena đã hai ba lần bắt gặp con mắt của Melina thình lình sắc nhọn hẳn lên, khi Fast thản nhiên vỗ đít “Mụ da đỏ” hay Zize. Cố một lúc, Melina nhận lấy một vẻ đắc thắng. Rồi Alain đã âu yếm hôn vào miệng Melina. Melina nói với Lena:

- Peace and love [2].

Bằng bản năng, Lena biết Melina nói dối, đóng kịch với mình, chơi cái trò được là một người hay một vật gì đó: love [3] thì có thể, chứ peace [4] thì chắc hẳn không. Người ta có thể ngụy trang được tình cảm chứ không thể chèn nén được tình cảm. Con mắt Melina nhìn Fast đã nói cho Lena rõ được nhiều điều hơn hai giờ diễn thuyết: Melina chắc có ngủ với hai anh khác, nhưng mê Fast như điếu đổ. Và ghen.

Melina bảo Lena:

- Chị xem đấy, ở đây người ta chia chung tất cả. Các chuyện phiền toái, hạnh phúc, thức ăn thức uống, và đàn ông, tóm lại tất cả những cái gì là thiết yếu.

Rồi quay sang “Mụ da đỏ” và Zize:

- Về phía tình yêu, người ta chẳng có gì để phàn nàn hết, đúng không?

Với Lena:

- Đêm nay chị sẽ thấy liệu có một ai trong các ngài kia muốn bày tỏ với chị lòng tôn kính hay không... thưa Nữ quận chúa...

Mặc dù muốn làm cho Melina câm họng, Lena ngượng nghịu, chỉ có thể ấp úng:

- Chị, chị chỉ là ghé qua. Và khi làm tình thì chị có chỗ.

- A! Bọn này cũng thế! - Melina đáp - Tất cả là tùy tính khí từng lúc. Thí dụ Julien là để cho những ngày chán đời. Anh ta dịu dàng và chậm. Alain có một khía cạnh giàu tưởng tượng hay hay. Éric là một tay đa cảm, còn Fast... Fast... này “Mụ da đỏ” định nghĩa Fast như thế nào nhỉ...

Không đáp, “Mụ da đỏ” chỉ đưa đôi mắt mênh mông nhìn Melina. Để phá vỡ một sự căng thẳng cô cảm thấy đang dâng lên và không hiểu hết nguyên nhân, Lena nhìn thẳng vào mắt Fast nói:

- Đấy là tên thật của anh phải không? Fast?

Zize phá lên cười:

- Đây còn hơn một cái tên gọi nhiều! Đấy là tất cả một cương lĩnh!

Các người khác nhao nhao theo và Lena cảm thấy cô hoàn toàn vớ vẩn. Từ một lúc lâu, Alain vuốt ve hai vú để trần của Zize, chúng khẽ nẩy lên ở trong tay anh mỗi khi chị cười. Bây giờ hai người nhìn nhau rồi chẳng ý tứ giữ gìn gì, bước ra vào trong đêm tối. Lena cảm thấy Melina đang rình xem phản ứng của mình:

- Ở đây người ta không có gì phải giấu hết: người ta thích thì người ta làm. Người ta yêu nhau. Khi trời rét hay gấp gáp, chuyện ấy diễn ra ngay tại đây, trên ổ. Chẳng ai chú ý đến. Melina đã hút đến điếu thuốc thứ tư và mắt cô trở nên long lanh ở tận bên trong. Cô hết sức ngăn giữ mình, Lena vẫn cứ cảm thấy vang lên ở trong người những câu nói trưởng giả, ngu xuẩn, loại: “Nếu bố mà thấy Melina bây giờ!”. Nhưng trên hết cô muốn mình đừng phán xét, biết rằng điều đó sẽ đặt lại thành vấn đề quá nhiều việc, khuấy đảo lại quá nhiều ý niệm.

Bên cạnh cô bật lên một tiếng kêu sướng khoái thật sự. Lena cắn môi, thầm hỏi ai đã kêu: có thể là bất cứ ai. Trong đêm tối, cô cảm thấy những người kia thay đổi tư thế, với những tiếng cười lén lút, những lời phản đối thì thào, rồi lại những tiếng cười. Cô không thể nói được ai đang rỗi ở bên mình, tuy những thân hình đã nhiều lần chạm vào cô, cô cảm thấy hơi ấm của họ nhưng không thể nhận ra được giới tính. Không chịu được nữa, cô nhè nhẹ đứng dậy, men theo bờ tường và lần mò ra cửa. Cô mở cửa ra ngoài, một làn hơi thơm mát từ đất bốc lên bao bọc lấy cô. Cô có cảm tưởng đang giữa ban ngày, vì trăng rất sáng, chiếu hằn nét các cây ô-liu, vẽ một bóng rõ rệt ở dưới chân thành giếng, làm nổi sắc thái những thân mảnh mai và những hoa mong manh của các cây kim tước chi. Đêm tí tách những âm thanh kín đáo hợp thành tiếng rì rầm mà cô lắng tìm ra nguồn gốc, âm trần có tiết tấu của cóc nhái, dây đàn nhè nhẹ của dê và xa hơn nữa, ở một chỗ nào đó trong những cây sồi - điên điển, nhà nghệ sĩ độc ca thuộc dòng hoàng tộc, một con họa mi đang luyện gam của nó. Cô khẽ buông mình xuống một tảng đá lớn trước kia là một thớt cối xay. Rồi cô nghe, thở, tựa hồ những hành động đồng thời đang khiến cho người cô đầy ắp lên kia là do một người khác làm ra chứ không phải cô. Bởi vì không thể nào có khả năng, không thể quan niệm được nổi rằng chính bản thân cô, nữ quận chúa Sunderland, người tỉ phú, được nịnh hót, được nuông chiều, được săn đón kiếm tìm, được đàn ông tán tỉnh, vào đúng lúc này lại ở trong một ngôi trại hoang tàn, nơi em gái của chính cô, nghiện ngập ma túy, đang để cho đám híp-pi hay bít-ních [5] - cô không hiểu hai thứ khác nhau ra sao - nhảy, trong khi cô đã có thể tổ chức một hội vui tại lâu đài mới của cô ở Lancashire, hay tại biệt dinh của cô tại New York hay tại hòn đảo của cô ở Hy Lạp, hay bất cứ ở đâu, nhưng không phải ở đây, tại cái xó xỉnh không nước, không tiện nghi, không đầy tớ, không máy nói này, cái nơi tươi đẹp mà đêm nay, lần đầu tiên ở đó, cô cảm thấy thiên nhiên phập phồng sống động, không hề có bàn tay người gia công để cho cô ngắm nhìn này. Vậy mà cô đã biết được những nơi đẹp nhất trên thế giới, và chim họa mi thì nào có thiếu gì trong các vườn để hót ban đêm. Thế thì? Tại sao lại chính là ở đây cô mới lần đầu tiên nghe thãy chúng hót?

- Tôi luôn luôn nghe nói những cô gái con nhà thường ngủ ngay lập tức cơ mà?

Như bị một luồng điện giật, Lena quay ngoắt cả người lại: Fast đứng ở trước mặt cô, trần truồng hoàn toàn. Cô vờ không trông thấy điều đó và bất giác trả lời:

- Ngay sao được khi bấy nhiêu người làm tình trên cùng một cái giường!

Fast lùa tay vào mái tóc của anh:

- Cậu thấy cái đó ở đâu thế? Éric và Julien ngủ say như chết mà. Còn em gái cậu thì gẫy gục rồi.

- Xê ra...

Anh ngồi lên thớt cối, bên cạnh cô. Trên người Lena chỉ có một chiếc xì-líp và một áo cổ lọ. Tránh, cẩn thận không quay đầu lại phía Fast, Lena nhìn chằm chằm vào mặt trăng, thẳng trước mặt cô.

- Tất cả các cái đó cậu có thấy hay không?

Cô không đáp, chờ câu tiếp theo. Cô đã bị bất ngờ.

- Em gái cậu là một đứa phá quấy!

Rất lấy làm vui thầm trong bụng, Lena đáp với một vẻ bất bình:

- Có thể biết được cái gì khiến anh nói như thế không?

- Làm như cậu không biết ấy... Ở đây hay dầm trong đống “đạn” [6] của bố, đều không phải là là chỗ của nó. Nó vờ đấy. Nó không bình thường từ trong máu huyết nó rồi. Hơi tâm thần, phải không...

- Melina hoàn toàn bình thường.

Fast lạnh lùng buông ra:

- Cậu chẳng nghĩ tí nào như thế đâu. Tớ nói với cậu cái điều tớ vừa nói là cậu thích lắm. Vì hai chị em cậu ghét nhau.

Anh gãi sườn sồn sột:

- Chắc là vì các cậu nhiều “đạn” quá mới ghét nhau.

Lena hung hăng đáp:

- Trước hết những ai không hề được trông thấy “đạn” mặt mũi ra sao thì mới hay lắm chuyện rắc rối. Như anh chẳng hạn.

- Cậu biết gì về tớ nào, ê, con ngốc! Ở bên cạnh gia đình tớ, gia đình cậu có thể bị xem như là một bộ tộc của những kẻ nghèo xác!

Lena đầy hy vọng:

- Đúng đắn chứ?

- Nếu tớ nói ra với cậu nhỉ... Nó làm cậu tưng hửng chứ? Cậu là tàu, tớ là thép!

- Tên thật của anh là gì?

- Tên tớ là Past Steel Illimited Junior [7].

Lena nhún vai:

- Tôi biết chắc là anh bịp.

- Cậu thất vọng hử? Cậu thấy là cậu đã bị đạn của cậu nó chi phối chưa? Nó là cơ sở mà cậu cần phải có để đánh giá những người nói chuyện với cậu. Cậu tự bảo thầm: À, đây là một gã đẹp trai, mình thấy gã lẽ ra phải là P.D.G. [8] của một cái gì. Cậu thắng cuộc đấy. Tớ là P.D.G. của bản thân tớ.

- Tôi chưa bao giờ nói là anh đẹp trai.

- Không, cậu có nghĩ. Cậu nhìn vào mắt tớ rồi nói trái lại xem nào?

Lena không quay lại.

- Và hiện lúc này cậu đang thầm hỏi là tớ làm gì ở đây, thật ra tớ là ai, tớ nghĩ cái gì và tớ có thấy cậu đẹp không. Đúng, hử? Tớ sẽ cho cậu một chỉ dẫn về bản chất tớ. Trước hết tớ là một đứa lãng mạn, loại chắc là cậu yêu.

Anh nhẹ nhàng đứng dậy đi ra xa vài bước và đái. Bối rối, Lena không thể không ngắm nhìn người anh nhìn đằng lưng, hông đẹp và vai vuông, cái tam giác thanh tú mà người Ai Cập đã tạc trên các bức phù điêu của họ...

- Cậu xem đấy, tớ nói với cậu về mỹ học và đái cùng một lúc. Đó, cái đó là Fast, ta tiếp tục chứ? Được. Nếu cậu còn ở đó là vì cậu còn chờ phần tiếp sau... Lúc nãy cậu cho tớ bịp, khi tớ nói tớ ở trong ngành sắt thép! Đó cũng không phải là nói dối. Détroit, cậu biết không? Không, cậu không biết? Tớ đã ở đấy một tuần, dễ hiểu rồi tớ lên đường lang thang, đã bảy năm, để quên.

Anh ngừng lại và có một lúc im lặng rất lâu, hay đúng hơn, bầu im lặng bị tiếng rì rầm của đêm chiếm lĩnh. Lúc đó Lena đã trả lời được câu hỏi của cô vừa đặt ra cho cô trước đây một chút: nếu cô đã “nghe thấy” con họa mi thì đó là vì cô cô đơn tuyệt đối. Giữa các con chim và cô, luôn luôn có một tiếng người che lấp mất tiếng hót của chúng bằng những ngôn từ, luôn luôn giống nhau, nối tiếp vô định, khiến cho cô choáng váng. Cô vụt nhìn thấy lại những cái chuồng chim cô đã mở toang ra ở Paris sáu năm trước, trong một cơn nổi giận. Nhưng những con chim đã bị chết, đè nát.

- Tớ nói vừa rồi, cậu có buồn cười không?

Lần này cô dám quay đầu lại phía anh, vẫn chú ý giữ gìn không đưa mắt vào mặt anh, sợ anh nghĩ là cô nhìn thân người anh.

- Tôi nghĩ đến những cái chuồng chim tôi đã mở.

- Để phóng thích cho những con người?

- Không, những con chim.

- Và dĩ nhiên là cậu đã làm cho chúng ngoẻo!

- Tại sao anh biết?

- Tự do là một cuộc tự lập. Có những người không bao giờ hiểu như thế cả. Cậu mở cửa sổ ra cho họ, không khí ùa vào giết chết họ. Họ ngoẻo vì ngạt hơi.

- Cái đã xảy ra là đúng như thế.

- Đấy cậu xem.

- Anh có thường hay sống trong các cộng đồng không?

- Cộng đồng là tớ. Đâu có phải vì cậu chia sẻ một cái gì mà cậu lại cho ra bất cứ thứ gì. Sống chung, cái đó không có nghĩa là một người vì mọi người mà mọi người vì một người. Cái đó có nghĩa là mỗi người thử sử dụng người khác để gỡ cho mình đỡ rắc rối hơn, cho một thời gian dài ngắn tùy. Cái đó không bao giờ kéo lại được.

- Tại sao?

- Tại vì người ta đều giống như em gái cậu, họ giả vờ. Những người duy nhất không giả vờ là những người say. Thì lại vô bổ.

- Anh xếp anh vào loại nào? Say hay giả vờ?

- Cả hai. Tớ là cả hai đồng thời.

- Và... Như thế anh thích không?

- Không hề.

- Anh thích là gì nào?

- Nếu tớ biết tớ chẳng ở đây. Hay, nếu cậu muốn thì vì để biết xem tớ thích gì mà tớ ở đây.

- Anh tìm ra chưa?

- Tuyệt đối chưa.

- Anh không rõ anh muốn là gì à?

- Hoàn toàn không. Nhưng cái mà tớ không muốn, tớ là thế, thì tớ biết chắc chắn.

- Cái gì?

- Một cái gì đó giống như cậu.

Thình lình Lena cảm thấy lạnh toát. Nhưng Fast đã đứng lên, ngáp đến sái quai hàm:

- Thôi chào! Tớ đi ngáy đây.

Mềm mại và uyển chuyển như mèo, anh biến vào trong bóng tối ngôi trại. Lena vẫn ngồi bất động, sững sờ. Cô nghe thấy ở trong nhà những tiếng xì xào và một câu đanh gọn, dằn giọng hơn, mà cô không hiểu nghĩa, nhưng qua âm điệu thì là một câu chửi. Cửa khẽ kẹt mở. Melina hiện ra, mặc xì líp và không nịt vú. Bằng một giọng nham hiểm, cô ta nói với Lena:

- Thế nào? Hắn đéo hay chứ hả?

Không thể giải thích được vì sao, Lena cảm thấy rưng rưng nước mắt.

Irène bồn chồn vì nỗi sốt ruột hả lòng hả dạ này: trận đánh gây hoang mang đã bắt đầu rồi. Gã Sunderland ngu độn kia đã có vẻ coi rẻ cô khi cô gọi hắn, nhưng cô biết rằng cú dây nói của cô đang sắp gây ra một loạt phản ứng dây chuyền: có anh chồng nào hay tin vợ mình đùa giỡn ở trong một cộng đồng tính dục mà lại có thể dửng dưng được hay không cơ chứ? Ngồi trên giường, thuốc lá châm nối điếu này sang điếu khác, cô chờ người ta cho cô dây nói số hai. Khi cô có Athènes ở đầu dây, cô đã phải đợi một lúc để cho đầy tớ đi tìm Médée Mikolofides lạc ở trong một căn buồng đếm không xuể của ngôi nhà. Cô định dùng mẹo với mẹ, nhưng ý muốn nói toạc cả ra vẫn cứ mạnh hơn. Vừa nghe thấy tiếng mẹ, cô liền nói với một giọng lo lắng:

- Mẹ, thật đáng sợ. Socrate vừa mới chết!

Trước tiên, mụ già nén một tiếng kêu mừng rỡ, rồi bảo cô nhắc lại ba, bốn lần, mỗi lần đều bắt nói chính xác, cụ thể. Irène nói Kallenberg đã đi Paris để tổ chức lễ tang rồi.

- Nhưng, - Cô nói thêm - đừng cho anh ấy biết là con báo cho mẹ! Anh ấy bắt con thề không được nói việc đó với bất cứ ai!

- Không lạ. - Bà mẹ líu tíu rủa - Thằng chồng khốn kiếp của chị nó muốn xơi ngon một mình à!

- Con nghĩ bổn phận của con là phải nói với mẹ... - Irène õng ẹo bằng một giọng khuất phục...

Médée ngắt lời cô:

- Chị đã làm rất phải. Tôi sẽ đi sửa soạn bố trí các thứ ngay bây giờ đây.

Irène muốn hỏi bà xem đã có tin gì của Lena chưa, nhưng bà đặt dây nói xuống. Bà cũng đểu lắm! Chẳng cả cám ơn cô! Cô tự an ủi bằng cách tưởng tượng đến những điều bực bõ khó chịu sắp rơi xuống đầu Kallenberg. Bây giờ cô cần báo cái tin đó cho một vài đứa bạn thân mà chồng họ là đối thủ của Kallenberg. Để cho tin lan truyền nhanh, cô nói rõ với họ là cô yêu cầu phải giữ tuyệt đối bí mật cho cô.

Cô xoa xoa tay, tính toán với một nỗi xúc động khó tả những hậu quả của sự hỗn loạn mà cô đang gieo rắc. Một tấm gương hắt trả lại hình ảnh cô, ngơ ngác, tóc bù, phấn son loang lổ, nhem nhuốc: cô vất cho nó một cái hôn phớt bằng đầu ngón tay, cười duyên với nó và lè lưỡi ra với nó một cách đáng yêu. So với cái vố cô xỏ người chồng yêu dấu của cô, thì vẻ xấu xí nhất thời này của cô xem ra hầu như lại là một niềm khoái trá đối với cô. Cô tìm một con số trong sổ tay, cầm lại máy nói rồi lại đặt nó xuống: một ý nghĩ đáng kinh ngạc vừa mới nảy ra ở trong đầu cô. Cô lại cầm lấy máy nói xin cho đường dây dài:

- Thưa chị, tôi muốn chị hỏi cho tôi Bahamas ạ...

Lần thứ ba, Kallenberg đi qua dinh thự mà không dám đẩy cổng sắt vào: nếu người ta báo tin cho ông sai thì ông mất mặt đây. Nhưng ông cần phải biết: thành công đã đến mức của ông, chỉ cần một sai sót nhỏ nhất cũng làm cho ông lâm nguy, có nghĩa là đặt lại thành vấn đề toàn bộ đế quốc của ông.

Đã cuối tháng Sáu mà trời rất nóng. Những chiếc xe hơi chạy xuôi con đường bên đại lộ Foch, cái này dính vào cái kia, xả ra những luồng ôxýt cácbon và mùi xăng nồng nặc. Để được kín đáo hơn, Herman đã đi máy bay chở khách tới Fast. Ông ra lệnh cho anh lái đón ông ở sân bay phải chạy vòng vèo nhiều quãng trước khi tới đích. Trước hết cần sao cho không có một thằng nhãi láu cá nào truyền rộng cái tin trước khi Kallenberg có thì giờ khai thác nó. Vậy nên mọi sự chỉ trông vào mấy giờ đồng hồ thôi, cái điều mà mụ Irène điên rồ có vẻ như là chẳng hiểu biết gì hết. Ông vẫn còn ở bên tai những lời chửi rủa của ả.

- Lúc nào cũng con đĩ ấy! - Irène hét lên giữa hai cơn co giật thần kinh - Tại sao không là tôi?...

- Câm đi, đồ ngu! Có những cái quan trọng hơn chứ!

- Một con đĩ chà đạp danh dự tôi bằng cách ngủ với bọn lưu manh và nghiện ma túy!

- Chúng ta thành chuyện ngụ ngôn của châu Âu! - Irène la lên dữ dội - Mất hết danh dự!...

Kallenberg nhảy bổ vào nắm lấy cô ả:

- Cô có nghe tôi không?... Cô muốn tôi đấm vỡ mồm cô ra để cho cô câm họng hả?

Ả có vẻ như ra khỏi một cơn nhập đồng:

- Cái gì cơ?... Có chuyện gì thế?... Anh bảo cái gì?...

Herman thét vào giữa mặt ả:

- Nó sắp góa chồng rồi, em gái cô ấy!!!

Irène hỏi như lú lẫn:

- Ai? Melina à?

- Không, đồ ngu! Không phải con đĩ! Con đĩ Melina có chồng đâu!

Ông nói dằn vào mặt Irène, nhấn rõ từng âm tiết:

- Lena! Lê... na!...

Irène khẽ hít hít và buột ra câu chuyện tuyệt vời này:

- Ông quận công đang hấp hối!

Những co giật dữ dội và liên tục rút nghiến quai hàm Kallenberg lại, chứng tật kinh khủng tàn phá mặt mũi ông mỗi khi ông cần cố sức khắc phục ý muốn giết người, cuối cùng ông nói được:

- Quận công nào, con ngốc? Satrapoulos là quận công à?

Hoàn toàn tự nhiên, Herman nói đến Socrate như là người chồng suốt đời của Lena. Trong con mắt ông, việc họ ly dị nhau không hề được cho vào bàn tính: ngoài ông và Socrate ra, mọi anh đàn ông lẻn vào trong bộ tộc đều chỉ là một vai phụ nhất thời, dù cho đó là quận công Sunderland đi chăng nữa. Irène tròn xoe mắt:

- Socrate ốm?

- Sắp ngoẻo đến nơi!

- Trời! Ông ta làm sao?

- Đau tim, không qua được ngày hôm nay.

- Ai bảo anh?

- Cái đó dính gì đến cô? Tôi biết là hết, có thế thôi!

- Đáng sợ! Anh định làm gì bây giờ?

- Gọi một linh mục, và đặt làm vòng hoa.

- Đồ tồi! Anh cũng có thể giả vờ buồn phiền được chứ?

- Vì cái rác rưởi ấy ư?... Cho nó chết sớm!

Thấy Irène đứng im, ông chỉ ngón tay trỏ vào cô ta:

- Bây giờ nghe tôi đây!... Không ai được biết cái chuyện đang xảy ra kia, cô nghe thấy không, không một ai, vì những lý do mà cô ngu lắm không hiểu được. Hé ra với bất cứ ai một lời tôi vừa kể cho cô là tôi giết ngay cô đó!

Irène hét lên với ông, chua cay:

- Anh chỉ có thể làm với em được mỗi cái chuyện ấy nữa thôi mà!

Herman đã toan đóng sầm cửa lại càng nhanh càng tốt để không phải nghe Irène nói, nhưng rồi vẫn cứ nghe thấy.

Ông chợt đứng sững lại, trông thấy hai người nghiêm trang xách cặp đi ở trong biệt thự của Satrapoulos ra: dân kinh doanh hay bác sĩ tim? Bực mình vì đã lưỡng lự, ông chuyển ngay sang hành động. Ông đi vào khu vườn trồng thủy tùng, phuy-danh và đại. Đến cửa lót đá hoa cương, ông vấp phải một người coi cổng mặc chế phục đô đốc đứng đàng hoàng ở trước mặt ông ngăn lại: Kallenberg nhìn xói vào mặt hắn rồi nói bằng tiếng Pháp:

- Socrate Satrapoulos chờ tôi.

Người kia nghi hoặc nhìn ông:

- Tôi nghĩ rằng ông Satrapoulos không ở đây.

- Tôi là Herman Kallenberg, anh em đồng hao với ông ấy. Người ta đã báo cho tôi, tôi lên nhé?

Đô đốc ngập ngừng, vẻ đàng hoàng của Kallenberg làm cho ông dè nể, nhưng cô y tá trước đây hai giờ thú thật với ông tấn bi kịch đã bắt ông thề là giữ bí mật rồi: không ai được biết chuyện ông chủ ốm. Con yêu râu xanh cảm thấy người đầy tớ do dự thì kết luận ngay là Socrate quả có đang kề miệng hố. Trước hết, ông phải nắm chắc rằng đúng như thật, rồi sau ông vẫn đủ thì giờ kiếm chác được trong việc này. Ông oai vệ gạt bộ chế phục sang một bên. Người kia né ra, cau mày lại suy nghĩ rồi đi nhấc máy nói lên.

Kallenberg leo lên một cầu thang hai cánh. Lên đến tầng gác cao sang, thờ hổn hển một chút, ông bấm chuông ở căn phòng lớn và lập tức một người cai quản biệt dinh mở cửa ra ngay. Sau ông ta là François, viên thư ký người Pháp của Socrate, nom có vẻ rất xao xuyến:

- Ông Kallenberg... Nói với ông thế nào bây giờ nhỉ... sáng nay ông chủ bị mệt một chút... tôi không nghĩ rằng ông chủ lại tiếp được ông...

Herman nạp hết cường độ vào con mắt ông. Ông nắm lấy hai vai viên thư ký, nhìn thẳng vào mắt hắn rồi bằng một cái giọng run lên vì cố nén xúc động:

- Tôi xin anh, François, giữa các thành viên trong gia đình thì không nên có những chuyện giấu diếm. Tôi biết cả rồi. Xảy ra như thế nào hả anh?

François muốn nói nhưng quay mặt đi, cắn môi và lắc đầu đau đớn, cổ họng nghẹn thắt lại.

Kallenberg nhiệt thành nài:

- François? Irène và tôi muốn biết rõ!

Khi Socrate gục ngã, viên thư ký hoảng hồn đã lập tức thỉnh thị ngay văn phòng ở Luân Đôn. Người ta đã ra lệnh cho anh không được lộ ra một tí nào về cơn đau tim của ông chủ, để có thời gian giải quyết một số công việc mà không làm cho dư luận lo sợ. Nhưng với Kallenberg thì những quy định ấy có giá trị không đây? Dầu sao, nét mặt bơ phờ của ông còn tệ hơn là lời thú nhận: ông sẽ quỵ mất...

- Thật hãi hùng, thưa ông... Ông chủ không còn được nổi một giờ đồng hồ nữa đâu... Các giáo sư vừa mới ra xong... Các vị đã yêu cầu tôi (giọng anh gần như nấc lên)... báo tin cho gia đình... Tôi đã gọi một vị linh mục... Tôi đã thử liên hệ với bà, để báo cho các đứa trẻ... Nhưng tôi không liên hệ được... Tôi muốn nói là bà Helena...

Herman nhìn anh với vẻ một người cha đầy lòng tốt:

- Rất tốt, François ạ... Bây giờ tôi đã ở đây, tôi lo liệu mọi việc! Tôi có thể gặp ông ta không?

- Tôi không rõ, thưa ông, tôi không rõ nữa... Mời ông.

Họ đi trong hành lang dài vô tận. Con yêu râu xanh thầm hỏi tại sao người ta lại có thể sống được ở một nơi trang hoàng thiếu thẩm mỹ đến thế này. Đến trước phòng Socrate, François khẽ gọi vào cửa. Một cô y tá mở cửa ra và nhìn anh với vẻ hỏi han. Viên thư ký thì thào:

- Ông Kallenberg là anh em đồng hao với ông Socrate... ông muốn gặp ông chủ...

Cô y tá lắc đầu. Nghiến răng lại, Herman nói:

- Đúng một phút thôi, thưa cô, rất quan trọng.

Và cương quyết, ông gạt cô ra. Thoạt đầu, ông không nhìn rõ thấy gì cả. Những tấm rèm đều buông kín và trong phòng mênh mông, một không khí bi ai bao trùm lên tất cả. Ở một góc, quỳ trước một chiếc ghế thấp, một linh mục râu xồm đang bất động đọc thầm những câu kinh dưới ánh một ngọn nến. Rồi Herman đoán phổng ra cái giường, chiếu sáng lờ mờ bởi một cây đèn đêm nho nhỏ, ánh sáng nhợt nhạt của nó bọc khuôn lấy hình thù duỗi dài của Satrapoulos thành người lớp mặt phẳng lớn đùng đục trắng. Ông bước lại gần Socrate, nằm thẳng, nom như cỏn con, im lìm, mắt nhắm nghiền, mặt tái xám, da ốp lấy xương thành một màng nhẵn mịn và xanh mét.

Đúng lúc này Kallenberg biết rõ rằng con người kia đang sắp chết, nếu chưa phải là đã chết. Ở cuối căn phòng, một cánh cửa mở ra và một chị y tá béo, nhiều tuổi hơn đi ra. Chị có vẻ giận dữ thấy có nhiều người như thế ở trong phòng. Chị giơ tay, mạnh mẽ và ra lệnh, chỉ lối bước ra cho những kẻ đột nhập. Cô y tá, thay vì xin lỗi, làm một cử chỉ bất lực, còn Con yêu râu xanh thì làm một cử chỉ làm lành. Họ đi ra.

- Xin nói cho sự thật, thưa cô? - Kallenberg hỏi.

Cô y tá nhìn François, hỏi xem có được phép trả lời hay không. Viên thư ký bằng lòng, gật đầu, nhẫn chịu.

Kallenberg nài thêm:

- Có hy vọng gì không?

Cô y tá quay lại ông:

- Không còn hy vọng.

Herman không chịu chỉ có thế. Ông cần một cái gì chính xác hơn:

- Chị thật là chắc chắn như thế chứ?... Không còn có cơ may nào nữa?

- Chỉ là chuyện phút giây thôi.

Lần này, ông đã được biết đủ. Ông chỉ một ngón tay quyền uy vào François:

- Nhất là không hé với ai một lời nào cả, anh hiểu tôi nói chứ? Tôi lo liệu tất. Hai giờ nữa anh gọi dây nói cho tôi ở Luân Đôn. Tôi chờ anh gọi.

Ông để họ đứng đực ở đấy, lao vội xuống thang gác, gạt bắn đô đốc, chạy bổ ra phố, nhảy lên xe và quát anh tài:

- Đến Villacoublay!

Máy bay riêng của ông chờ ông ở đó, người lái đã được lệnh sẵn sàng cất cánh, ngay khi ông chủ của anh tới. Trước mắt, ông có những việc cấp bách, sống còn phải làm cho xong. Bằng cái trò phức tạp của những hoạt động chứng khoán, những hiệp hội và đầu tư xé nhỏ, ông có một phần trong gần như toàn bộ các công việc và các nhóm tài chính ở dưới quyền kiểm soát của Satrapoulos. Trong một vài sở hữu mới, ông là người đứng tên cổ phần mà tổng số cao nhất lên ba mươi phần trăm vốn tư bản. Nếu Socrate chết thì ngay ngày mai, sẽ có một sự hốt hoảng ở trong giới ngân hàng của hai bán cầu: những đế quốc tài chính do các cá nhân đơn độc dựng lên thì rất ít có cơ sống sót được khi mà những người lập ra chúng không còn nữa. Hai ngả phải chọn: hoặc mua lại những cổ phần của Satrapoulos - nhưng lúc nào, ở ai và bao nhiêu, như thế nào? Tưởng mình bất tử, liệu hắn có để chúc thư lại không đây? - Hoặc bán tống bán tháo tất cả đi, trước khi tin đồn về cái chết của hắn làm cho sụp đổ thời giá cổ phần. Trong trường hợp thứ nhất sẽ cần phải mua lại cả các tài sản tiêu cực, vì sự năng động của Socrate là do chính ngay vận động, chính ngay tốc độ của nó nuôi dưỡng mà có được. Socrate ra ngoài cuộc - thì việc lớn đầu tiên của các công trường đóng tàu là đòi các chủ dầu lửa có đơn đặt hàng phải thanh toán tiền ngay - và theo các nguồn thông tin của ông thì số này rất nhiều. Cũng còn những chuyện rắc rối với Sở Tài chính Mỹ mà Socrate phải trả tiền kỳ hạn cho tư bản riêng của hắn. Không quên những công ty đã thu nhập những người đứng tên cổ phần mà rồi sẽ chỉ có mỗi một chuyện vội vã là xô đến các cửa quầy để đòi hoàn lại cổ phần. Toàn bộ các hoạt động này lên tới hàng chục tỉ bạc: làm thế nào đây? Có một lúc, ông tính đến việc nhờ bà mẹ vợ tài trợ, nhưng mụ già Mikolofides sẽ sướng quá chừng là được tự tay làm cho tiền của mụ sinh nảy lộc bằng cách chơi canh bạc theo kiểu của mụ và trước tiên là chọi lại Kallenberg chứ.

Có thể có một phương sách thứ ba cho phép lợi dụng được cả hai khả năng trên, phương sách này lại lợi ở chỗ xóa bỏ được cái vẻ đối lập bên ngoài của chúng: nếu bí mật về cái chết này chưa bị lộ - Kallenberg cắn môi tức bực vì đã nói nó ra với mụ vợ ngu độn - thì ông sẽ có thể chơi cả hai tay làm hai bước được. Trước tiên bán đi theo thời giá bình thường, trước lúc một kẻ nào đó biết được tin kia, sau đó, khi cái tin đã trở thành công khai, thì góp phần vào sự hoảng loạn chung. Khi đó, ông có thể sẽ cho phép ông mua lại các cổ phần có giá hạ, lúc mà các thằng khờ khạo đem bán vung chúng ra bằng một phần năm giá trị chính thức của chúng. Sau đó, ông sẽ tìm cách lừa Médée Mikolofides và nắm lấy quyền kiểm soát hoàn toàn công việc: ông đã nhìn thấy ông là bá chủ thế giới rồi. Ông cầm máy nói, bấm vào một cái nút làm cho miếng kính ở giữa ông và anh tài đóng lại:

- Alô, Jack?... Ngày mai, Sở Chứng khoán mở cửa, tôi muốn là anh bán hết cổ phần đi... phải!... Các cổ phần tôi có ở trong công ty của người đồng hao của tôi. Báo động ngay các văn phòng của tôi ở Luân Đôn, Tokio, Athènes, New York, Stockholm... Anh thức đêm làm cho tôi một bản tổng kết và báo cho các nhân viên mua bán chứng khoán của tôi biết! Tất cả phải xong trưa mai!... Không tranh luận! Không cần hiểu gì cả!... Cứ làm thôi! Một giờ nữa tôi lại gọi cho anh!...

Ông đặt máy xuống, chặn đứt những câu hỏi sợ hãi của người đại diện của ông chắc là đang thầm hỏi xem ông có bị điên rồ hay không. Ông thừa biết như anh ta là một khối lượng cổ phần như thế mà thình lình được đem bán ở thị trường thế giới thì sẽ làm cho các nhà tài chính chột dạ. Nhưng làm thế nào? Không dám liều thì liệu ông có thể trở thành tỷ phú được không?

Trong khi chiếc Bentley lao như một mũi tên qua khu ngoại ô ghê sợ của Paris, ông bật cười về một ý nghĩ kỳ quặc: sống, Socrate chọc gậy bánh xe ông. Chết, hắn sắp cho phép ông nhân tư bản của ông lên gấp đôi. Trung thực mà nói, làm sao lại luyến tiếc hắn được cơ chứ, trong những điều kiện như thế.

Paris, mười giờ sáng, phường Opéra. Hội nghị. Trong phòng biên tập, các trưởng ban của bộ phận News họp. Các mục bàn bạc là những tin sẽ được phát ở số báo buổi trưa. Vấn đề là: cần hay không cần thông báo cái chết của nhà chủ tàu Satrapoulos, cái chết chưa chính thức, nhưng tin đồn về nó đã có ngay hiệu quả là chặn đứng mọi thời giá của Chứng khoán quốc tế?

- Ai theo dõi tại chỗ? - Antoine Vitaly, thư ký tòa soạn hỏi một cách sừng sộ.

Max Frey nhỏ, rất lâu đời trong nghề nhưng mới về tòa báo, phụ trách mục tin từ nửa tháng nay - người ta đã thu nạp ông từ một tờ báo hàng ngày lớn, nơi ông là phó của tổng biên tập trước khi giận nhau với ông này bởi một chuyện đàn bà lố bịch, chuyện vợ chồng của ông tổng biên tập - vậy là Max Frey nhỏ muốn tỏ ra rằng mình xứng đáng với trọng trách, không cái gì lọt ra khỏi mắt mình được. Ông nói rất cưa đứt đục khoát:

- Jolivet và Duruy. Họ đang phục ở trong xe hơi.

- Gọi họ đi!

Frey cầm lấy máy nói trong một bầu im lặng đáng ngại. Tất cả im thin thít. Vụ này quan trọng. Từ hai giờ qua, người ta lục tung hồ sơ lên để tìm các tư liệu vang dội liên quan đến đời Socrate. Trong một phòng ghép dựng tin khác, người ta đang cắt dán những mẩu tin điện. Một khi ghép xong, chúng sẽ đem lại sự mạch lạc, sức sống và cái vẻ xây dựng cho cái vật chỉ là những mảnh vụn của sinh tầng những tiếng ồn của cuộc sống.

Vitaly nói gắt:

- Lắp ghép đến đâu rồi?

- Họ đang làm. - Một tiếng đáp lại.

Đang quay lại máy nói - lần đầu ông không gọi được - Frey vẫn không thể cười khẩy: Ở tờ báo hàng ngày của ông, hồ sơ Satrapoulos và cả hồ sơ Chevalier [9], De Gaulle [10], Piaf [11], người ta đã lên từ tám hoánh. Các vị khách hàng chỉ cần có chết nữa thôi, tin trang nhất đã được xếp chữ cỡ đậm cả rồi, chỉ còn có việc cho thêm ngày giờ vào đó. Hàng tuần, người ta bổ sung cho nó. Ở mặt bàn đá phòng lưu trữ, như vậy là có đến một trăm tin trang nhất làm của dự trữ, đã hoàn toàn sẵn sàng đầu đề chạy suốt năm cột: ÔNG MỖ CHẾT... Thỉnh thoảng người ta lại lấy chúng ra, khi sức khỏe của đương sự sa sút. Khốn thay, không phải ngày nào cũng là ngày đại cát vui vẻ, đâu có sáng nào họ cũng chết, người ta lại đành hài lòng với một vụ ám sát dưới nước, một vụ nội các bị lật nhào, thậm chí, những ngày thiếu tin quá, thì hài lòng với những trò động cỡn của thời tiết, khí tượng, cái bầu vú của thông tin trong thời kỳ đói kém kia. Lạ lùng là họ cứ để cho nước đến chân mới nhảy, ở trên đài phát thanh...

- Cậu đấy phải không, Jolivet?

Frey bịt đầu dưới của máy nói lại, nói to lên với tất cả mọi người:

- Cậu Duruy.

Vitaly cáu:

- Tôi bất cần, muốn cậu nào cũng được! Hắn đã chết, đúng thế hay là cứt!

Frey quát hùa theo, cho Duruy:

- Thế nào?... Hắn đã chết, đúng thế hay... (ông mới về nhà này, chưa dám văng cứt với người dưới)... đúng thế hay không đúng?

Ông nghe câu trả lời, người căng thẳng. Và nói với mọi người:

- Anh ta không biết, anh ta nghĩ là đúng...

Vitaly giằng lấy máy nói ở trong tay Frey:

- Cái trò nghề ấy là cái gì thế? Cả hai cậu làm cái chó gì ở đấy?

Vừa dỏng tai nghe những lời người phóng viên trình bày, ông vừa vẽ lên sổ tay của ông những dương vật có cánh thiên thần. Một lúc, ông nói:

- Được! Các cậu quay về, người ta chờ các cậu ở đấy!

Với những người khác:

- Cả ngôi nhà đang rối mù lên. Các cậu ấy đã gặp một cô y tá và một viên thư ký. Không người nào muốn mở cửa cho các cậu ấy. Viên thư ký nói với Jolivet rằng hắn sẽ có một tuyên bố chính thức vào hai giờ chiều. Bây giờ ta làm gì, ta chờ chứ?

- Nhưng nếu ta bị lừa?

- Thì ta cứ việc đưa tin scoop [12] và dùng điều kiện cách thôi.

- Còn linh mục? - Một người nào đó nói to...

- Ông ta sẽ mở mồm chừng mười phút. Bằng tiếng Hy Lạp. Ai nói tiếng Hy Lạp ở đây?

- Không có ai.

- Hay lắm!

Vitaly giơ tay bảo mọi người yên. Ông nói:

- Tất cả mọi người đều bắt hắn ngoẻo rồi. Trò xiếc kéo dài từ sáng hôm qua. Người ta đã thấy Kallenberg lén đến đại lộ Foch. Với tất cả món đạn quan trọng như thế, các bạn nghĩ là họ lại sẽ không công bố hiệu lệnh hay sao!

Nói với Frey:

- Ngay khi hai con rối của anh về đến đây thì bắt tay vào việc luôn! Tôi muốn story đầy đủ trên số báo một giờ chiều! Thôi, nhào vô!

Frey nhìn Vitaly với một thoáng nuối tiếc. Ông nghĩ đến quyền hành đã bị mất của ông: làm người phụ trách mới sướng làm sao...

- Alô, vâng... - Hans hét to. Người gọi dây nói chắc ở rất xa, ông nghe không rõ, phải ấn máy nói vào đầu tưởng đến đứt cả tai ra. Chính Hankie đã đòi phải đặt máy nói. Hans thì bỏ qua được nó. Đài vô tuyến trên du thuyền của ông đã thừa đủ để nối được ông với thế giới khi nào ông muốn rồi: mua một hòn đảo cho bất cứ ai cũng có thể đến tìm gặp như ở văn phòng tại Amsterdam để làm quái gì cơ chứ? Bơi trồi lên một đại dương những tiếng khảm khạch và rú rít, cái tiếng nói không quen thuộc đang nài nỉ một cách giận dữ. Như bởi phép mầu, những tạp âm bỗng biến mất và Hans hiểu ra được điều người ta đang nói với ông. Mặt ông lạnh cứng lại. Ông nói:

- Bao giờ?

Rồi:

- Bà nghĩ như thế?

Và cuối cùng:

- Bà chắc chắn là vậy?

Và:

- Tôi xin cám ơn bà, tôi làm ngay những việc cần thiết bây giờ.

Ông đặt máy xuống, chạy ầm ầm qua chỗ Hankie và nói vội với bà:

- Anh chạy ra tàu!... Cấp bách!... Điện phải đánh!... Anh trở lại...

Vẻ triết gia, Hankie nhún vai. Bà vui lòng sống, sống đơn giản thế thôi, không hiểu được tại sao chồng bà cứ tất bật tối ngày. Tiền ư? Hai ông bà có nhiều quá đến mức không bao giờ có thể tiêu xài hết được. Vậy thì cái gì? Bà lại ngồi vào với tấm thảm của bà, một phác thảo của Lurçat [13] mà bà đã dệt từ gần một năm nay.

Khi Hans quay lại, ông bảo bà:

- Anh được biết một tin hãi hùng. Satrapoulos vừa mới chết.

Hankie buông ra một câu không thể ngờ tới:

- Chúng mình nhận các đứa trẻ làm con nuôi!

Hans nhìn bà với vẻ trách móc:

- Hankie!... Chúng có một người mẹ.

Hankie đánh trống lảng:

- Sao anh lại biết?

- Vừa rồi, lúc nghe dây nói.

- Mà bây giờ anh mới bảo em!

- Hankie!... Anh cần phải có những sự bố trí, anh chuyển các lệnh mua bán đến Sở Chứng khoán... Đó là chuyện từng phút không chậm trễ được.

- Người ta báo anh tin bố của những đứa bé cưng tội nghiệp này vừa mới chết, đáng lẽ là báo với em. Đáng lẽ ôm chúng nó vào trong lòng, thì anh lại lo đến Sở Chứng khoán!

Hans mang một vẻ mặt phạm tội:

- Em không hiểu chuyện làm ăn...

- Chuyện vừa xảy ra thật là kinh hoàng, thật là kinh hoàng... Trước hết, không được nói gì với chúng cả.

- Anh không biết. Irène Kallenberg đã báo tin cho anh. Chị ấy nói không biết mẹ các đứa bé ở đâu, người ta không thể liên hệ với mẹ chúng nó được, chị ấy gánh trách nhiệm của mẹ chúng nó trong lúc mẹ chúng nó đi vắng. Dẫu sao thì chị ấy cũng là dì của chúng nó.

- Thật đáng sợ.

- Chị ấy yêu cầu anh báo tin cho các đứa trẻ, bởi chúng nó có lẽ đã muốn người ta báo cho chúng nó biết...

- Không khi nào! Không phải chúng ta đi làm cái việc ấy! Anh điên à? Chúng nó mới mười hai tuổi!

- Thế nào thì chúng cũng phải về châu Âu gấp. Ở Paris.

Hankie nhìn ông, không tin:

- Chúng sắp đi à?... Người ta lấy mất của chúng ta chúng nó à?

- Hankie... chúng nó có phải là con chúng ta đâu...

Bà bĩu môi chua chát:

- Đúng, chúng không phải là con chúng ta...

- Hankie...

Bà thở một hơi dài:

- Anh định làm gì bây giờ?

- Báo cho chúng nó, bảo với chúng nó...

- Thật ghê rợn...

- Đúng...

- Bao giờ chúng nó phải đi?

- Anh đã gọi một chiếc thủy phi cơ ở Miami. Nó sắp tới đây rồi.

- Hans!

- Hử?

- Đừng nói gì với chúng cả.

- Hankie...

- Đừng nói gì với chúng nó hết. Chúng ta không có quyền gánh lấy một trách nhiệm như thế!... Em sẽ xem em có thể làm được gì tại chỗ cùng với chúng nó không.

- Tại chỗ?

- Anh nghĩ rằng em lại để cho chúng đi một mình ư?

- Chúng nó mỗi đứa đều có một cô bảo mẫu... lại có thầy gia sư.

- Em đi chuẩn bị hành lý đây.

Người ta đi tìm hai đứa trẻ, người ta cho các cô bảo mẫu và thầy gia sư biết tin mật và nhất trí với nhau rằng người ta sẽ chỉ nói với chúng là bố chúng bị ốm nhẹ, muốn thấy chúng nó trở về nhà. Vả chăng, nhà nào? Nhà chúng ở khắp mọi nơi. Thực tế, bọn trẻ đã đẻ ra trong một chiếc máy bay và đã nhiều lần đi vòng quanh quả đất, từ cung điện đến biệt dinh, từ đồn điền đến nhà sang trọng, từ máy bay phản lực đến du thuyền. Trong phòng khách, Hans buồn nản chờ Hankie sửa soạn hành lý của bà. Khi đi qua ông, một người thủy thủ xách va-li của bà đi trước, bà đã cúi xuống và hôn lên trán ông:

- Đừng có đi đâu trong khi em không có nhà... Anh biết là anh luôn làm những chuyện ngu dại đấy...

Bà cầm lấy tay Maria và Achille, hai đứa trẻ cười như điên, khoái trá vì sự thay đổi chương trình bất ngờ này: chúng sẽ chặt các cây cọ một lần khác vậy. Trước khi ra cửa, Hankie quay trở vào nâng tấm thảm rồi nhét vào trong ví của bà.

Chú thích:

[1] Có ma túy nhẹ (marihuana).

[2] Tiếng Anh: Hòa bình và tình yêu.

[3] Tình yêu.

[4] Hòa bình.

[5] Đều là những lớp thanh niên chán ghét xã hội tư sản, nhưng chống lại bằng cách phá phách trước tiên bản thân họ.

[6] Tiếng lóng có nghĩa là tiền bạc.

[7] Tiếng Anh: Công ty thép cổ phần không hạn chế Fast.

[8] Viết tắt chữ Pháp: Président - Directeur - Général (Chủ tịch, Tổng giám đốc) chức vụ cao nhất của các Công ty, xí nghiệp.

[9] Nghệ sĩ hát nổi tiếng người Pháp: Maurice Chevalier.

[10] Tướng De Gaulle. Tổng thống nước Pháp.

[11] Nữ ca sĩ nổi tiếng người Pháp.

[12] Tiếng Anh (đọc là scup) có nghĩa là tin đăng trước các báo.

[13] Lurçat: Họa sĩ nổi tiếng người Pháp.