← Quay lại trang sách

Chương 24

Socrate Satrapoulos đã chết ngày hôm qua sau một cơn đau tim. Những người thân cận của người tỉ phú chủ tàu này, cho đến nay, vẫn từ chối cung cấp chi tiết về hoàn cảnh cái chết của ông ta. Từ sáng hôm nay, tất cả các trụ sở tài chính trên thế giới hình như bị hoảng hốt, nỗi hoảng hốt đã lan sang đến các chứng khoán...

Socrate nhảy một bước ra khỏi giường, kéo theo cả một đống chăn và khăn trải giường. Ông dừng lại ở giữa phòng, cúi gập người xuống, chống hai tay lên đùi và rống lên cười khoái trá:

- A! A! A! Bọn mặt nghệt! A! A! A!

Ông đi vài bước múa sirtaki, hai tay đập không khí. Đang xoay người, ông bỗng đối diện với một tấm gương lớn, cười rú lên khi thấy hình ông. Ông chỉ ngón tay trỏ và nói:

- Những thằng tội nghiệp!

Ông quấn một tấm khăn trải giường vào quanh đầu, ngoáy mông làm một điệu múa bụng sôi nổi. Với bộ pyjama sòng sọc và cái khăn trên đầu này, ông thấy ông ghê gớm. Ông nằm ngửa ra, lăn tròn nhiều vòng, đứng lên rất dẻo dang rồi lại nhảy lên giường, chơi trò nhảy lên, nhảy xuống ở trên đó, không hề động đến mâm thịt gà, vịt cũng đang đặt ở trên đó. Một chai rượu đổ lăn kềnh kéo ông về thực tại trong một khoảnh khắc, một điều cho phép ông lại bắt được những mẫu câu tức cười khác...

... hàng nghìn người có tín phiếu nhỏ... các cửa quầy thu phát ở ngân hàng... hội đồng Bộ trưởng...

Ông lại cười như điên và lại tung mình vào một điệu múa Tây Ban Nha. Từ đúng một tiếng đồng hồ qua, ông đã trở thành con người duy nhất nắm tất cả các cổ phần trong kinh doanh của ông! Chỉ một lúc, qua trung gian của tay sai các ngân hàng Mỹ La tinh điều khiển từ xa, ông đã mua lại, với giá một mẩu bánh mì toàn bộ những cổ phần làm nên vốn kinh doanh của ông ở các nước ngoài trước đây.

Từ nay, thôi hết hội đồng quản trị, thôi hết phải cười duyên với các chủ nợ hay những tay chung vốn; quyết định, trách nhiệm, ông sẽ một mình đảm đương, không còn phải vờ vĩnh chia sẻ với người khác nữa. Kallenberg bị loại! Mụ già Mikolofides bị loại! Ông sắp có thể chia lại vốn tư bản: Tất cả cho ông. Ông giả một giọng nói khác, rống to lên theo một điệu hát của ca sĩ lang thang nổi tiếng ngày xưa: “Tôi hiểu công việc làm ăn là như thế đấy!”.

Ông vật mình xuống chiếc ghế thấp mà vài tiếng đồng hồ trước đây, ông linh mục đã lẩm bẩm những lời cầu nguyện ở đó, một ông linh mục cáu ghét bẩn thỉu mua với một giá rẻ mạt. Trong khi đài phát thanh tiếp tục đưa ra những lời lẽ không đâu, ông nói:

- Cục cứt! Chưa bao giờ mình thấy trong người dễ chịu bằng lúc mình chết!

Ông lại bật ra một tiếng cười tưởng như không bao giờ dứt.

- Các anh là một lũ điên! Các anh rồ hết rồi!

Vitaly vừa triệu tập một cuộc họp mới ở trong phòng giấy của ông - sự lầm lẫn thật là quá quắt: trạm phát thanh vừa chính thức phát ra tin tức về cái chết của một người, thì mười phút sau, người đó đã gọi điện thoại đến đòi phải cải chính ngay lập tức.

- Chúng ta còn ra thế nào nữa!

Vitaly muốn quên khuấy đi là chính ông đã đích thân ra lệnh đưa tin vịt đó lên đài. Có thể là ông ta đã quên thật sự chăng? Bây giờ ông cần có những cái đầu để đổ lên.

- Tôi sẽ biết chính xác ai đã phạm lỗi lầm này. Tôi sẽ biết! Tôi sẽ nói gì với ông Ribot khi ông ta chất vấn tôi? Là tôi đã bỏ tiền ra mướn những tên vô học ư?

Tính lá mặt lá trái của Vitaly không làm cho một biên tập viên nào ngạc nhiên cả. Muốn leo lên quyền hành thì phải có cái năng khiếu đứng lên đầu khi mọi việc trôi chảy và lẩn mặt khi công việc trục trặc, không ai không biết cái quy tắc đó. Họ sẵn sàng áp dụng nó một cách không thương xót ngày nào họ cần leo lên một bậc thang bằng cách đạp xuống bất cứ người nào bám lấy bậc thang ấy. Có thể là Vitaly cũng nên. Ông Ribot là chủ chính của hãng này. Ông ta bắt đầu trong ngành bơ sữa và phát tài trong ngành sóng điện. Vitaly vốn là tay giao thiệp với nhiều giới ở Paris, đã đưa ông đi làm quen với các tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Ông Ribot bèn nghĩ rằng Vitaly rất cần thiết cho ông. Cũng như phần đông những con cá mập lớn, trước đây, Ribot chưa biết rằng những tên làm đại sứ chỉ là những kẻ ăn bám, rằng chỉ cần trông thấy quyển ngân phiếu của ông là lập tức chúng nảy ra nguyện vọng lớn lao muốn được kết bạn với ông, trung thành với ông, ít nhất tình bạn và lòng trung thành ấy cũng lâu dài suốt thời kỳ những tấm ngân phiếu kia được bảo đảm. Chưa hết, Vitaly còn dạy cho Ribot đánh quần vợt. Cái ngày mà Ribot nách kẹp chiếc vợt, chân đi giày cao su, đôi mông mặc chiếc quần cụt thì ông ta liền tự đánh giá là từ đây mình thuộc hẳn về phái thượng lưu trong xã hội rồi. Trong công nghiệp làm bơ, người ta không chơi quần vợt. Vitaly biết rằng dù ông có làm gì chăng nữa ông cũng là một món kiêng húy rồi. Những biên tập viên khác cũng biết như vậy, không một ai dại dột nhắc cho Vitaly, thư ký tòa soạn, rằng chính ông đã quyết định một mình về tin vịt ấy. Nhưng họ lại cảm thấy nhẹ nhõm! Vitaly đã trách mắng họ, ngay trước mặt họ. Đó là dấu hiệu ông ta không giận họ - khi ông muốn làm hại một người nào thì ông chơi trò như một người đánh bi-da, cáu gắt với Pierre để tỏ ý rằng chính Paul mà ông không đá động đến đã làm sai. Phải hiểu Vitaly, phải biết tất cả những điều đó, nếu người ta muốn giữ cái ghế và không bị đau tim vào quãng bốn mươi tuổi. Mà lúc này, Vitaly mắng mỏ mọi người, trừ Frey, chân mới. Người ta hiểu rằng Frey không còn làm ở đây lâu nữa. Frey ngại rằng mình cũng hiểu như vậy. Ông ta không còn biết làm cách nào để khỏi bị mất mặt nữa! Tệ hơn: ông cảm thấy mình là thủ phạm thật.

Mười ngày trước đó, Socrate đã đến Nhà tiên tri ở Cascais. Socrate có một việc phải hỏi Nhà tiên tri, nhưng không biết đề cập như thế nào, sợ người “cố vấn về tử vi” của ông cho ông là lố bịch.

Ông ngồi đó, do dự, và Nhà tiên tri cảm thấy rõ vấn đề ông muốn nói chính là nằm trong sự im lặng kéo dài đó. Cuối cùng Socrate quyết định một cách vụng về:

- Vấn đề tình duyên của tôi, không bao giờ thầy nói đến vấn đề tình duyên cả?

- Tôi nghĩ rằng quả tim của ông nó chỉ đập về công việc kinh doanh của ông mà thôi!

- Đàn bà và kinh doanh thường đi đôi với nhau.

- Vậy ông muốn biết gì nào?

- Tôi muốn ông nói với tôi về một người đàn bà.

- Ông nói đi... Hay thôi! Ông đừng nói gì cả, để tôi nhìn xem.

Kalwozyak rải những con bài của ông ra.

- Người đàn bà này trẻ.

- Cố nhiên!

- Cô ấy rất được che chở! Tôi trông thấy những bức tường hàng rào bao bọc xung quanh...

Socrate có vẻ nhẫn chịu:

- Thế đấy!...

- Nhưng những bức tường đó, không phải chính cô ta dựng lên giữa ông và cô ta... Một đám đông người bao bọc chung quanh cô ta... Cô ta buồn... Phải chăng cô ta là một người có tiếng tăm trong xã hội?

- A... vâng.

- Nữ diễn viên?

- Không. Nhưng ở một khía cạnh nào đó...

- Có phải chúng ta bàn về người đàn bà đang sống với ông không?

- Hoàn toàn không phải! Một người đàn bà khác!

- Cô ta giữ một vai trò... Hay là người ta buộc cô ta giữ một vai trò... Cái gì thế?

- Chính trị!

- Vậy thì tôi có thể nói chắc chắn với ông rằng cô ta không chịu nổi đâu! Cô ta gục mất!

- Không thể được.

- Trời! Bao nhiêu là hăm dọa!... Cái chết...

Socrate bám chặt vào chiếc ghế bành:

- Đối với cô ta ư?

- Không... không... Cái chết ở khắp mọi nơi... Nhưng cô ta được che chở... Cô ta đã có chồng chứ?

- Vâng.

- Vấn đề của ông là thế nào?

- Tôi muốn biết... Tôi có cảm giác là cô ta có... cảm tình đối với tôi. Cô ta gửi cho tôi nhiều tấm ảnh, như một đứa nhỏ... Mai đây, có thể cả một đất nước phủ phục dưới chân cô ta...

- Ông có thường gặp cô ta không?

- Không. Một lần, cô ta có đến tàu của tôi, trong một cuộc đi chơi trên biển. Cô ấy nói với tôi rằng, nếu cô ấy có quyền chọn lựa, thì đấy là nơi cô ta thích sống nhất!

- Vậy thì ông băn khoăn nỗi gì?

- Cô ta làm tôi nhút nhát.

- Ông yêu phải không?

- Tôi cũng không biết nữa! Tôi có vẻ ngốc phải không?

- Cũng không ngốc hơn bất cứ một người si tình nào khác. - Nhà tiên tri trả lời một cách suy nghĩ.

Ông nhìn Socrate một cách soi mói:

- Lát nữa, chúng ta sẽ xem ngôi sao chiếu mệnh của ông ở trên trời! Tôi sẽ chỉ cho ông biết có thể gần gũi người đàn bà ấy không và khi nào. Bây giờ, tôi có một điều cần nói với ông: ông Kallenberg cách đây ba ngày có đến gặp tôi.

Socrate trở nên cứng rắn:

- Đến bao giờ tên ấy mới hết làm phiền tôi? Tôi tưởng rằng sau vụ ly hôn của tôi và các vố tôi giáng vào đầu hắn, thì hắn đã nằm im rồi chứ! Tại sao hắn lại muốn gây sự với tôi?

- Ông làm hỏng cuộc đời của ông ta!

- Tôi chỉ tự vệ mà thôi!

- Ông không hiểu! Ông làm hỏng cuộc đời của ông ta vì bao giờ ông cũng đi nhanh hơn! Ông buộc ông ta đóng những vai trò thứ hai mà ông ta thuộc về loại người rất đau khổ khi không được đóng vai trò thứ nhất.

Socrate mỉm một nụ cười vừa trẻ con, vừa dã thú:

- Tôi biết làm thế nào!

- Sau lưng ông, ông ta đang vơ vét bất cứ bằng giá nào, tất cả những cổ phần của công ty các ông!

- Thầy xem! Vở đó có làm gì nổi tôi đâu! Cho dù hắn mua lại được tất cả các cổ phần khác đi chăng nữa, thì trong công ty, tôi vẫn là người có số cổ phần nhiều nhất. Tôi có đến năm mươi hai phần trăm kia mà!

- Chỉ một mình ông thôi ư?

- Thực tế, vâng! Về hình thức, các con tôi có hai phần trăm và Lena, vợ trước của tôi có ba phần trăm.

- Ông thử giả dụ xem, nếu ông ta cuỗm được năm phần trăm ấy?

- Thầy nói đùa đẫy chứ? Hai cháu Achille và Maria mới có mười hai tuổi.

- Chúng nó còn nhỏ, vâng. Nhưng, Lena?

Trời! Ông thầy tiên tri nói có lý lắm! Lena rất có thể gây khó khăn cho Socrate, nếu cô muốn.

Đúng vào lúc đó, mưu mô của Socrate đã nảy mầm. Thật ra không hẳn đúng là một sự nảy mầm, mà là một thứ minh mẫn nhanh như chớp, cả một quá trình diễn biến thu ngắn lại: nguyên nhân, hậu quả, thực hành và lợi lộc. Đã từ lâu, Socrate muốn hất cẳng những người mà trước đây, ông rất cần đến để xây dựng sự nghiệp hùng hậu của ông: vừa mới tìm ra thủ đoạn để cho rơi bọn họ.

- Tôi nghĩ rằng tôi sắp ốm nặng... Tôi nghĩ rằng tôi sắp chết cũng nên.

Nhà tiên tri dẩu môi ra:

- Hè... Nếu như thế thì tôi đã biết...

Socrate nắm lấy hai bàn tay Nhà tiên tri, và tuôn ra một hơi nhanh như súng máy:

- Thầy nghe tôi đây! Giả dụ tôi chết đi... giả dụ những người thân cận của tôi giữ bí mật cái tin ấy, nhưng có những chỗ xì ra... chỉ một chỗ xì ra thôi... Tôi chết... Thầy vẫn nghe tôi nói đấy chứ? Tôi chết đi, những công việc kinh doanh của tôi không còn đắt giá nữa, tất cả vốn liếng của tôi đều bỏ hẳn vào những tàu chở dầu đang được đóng ở các xưởng, những chiếc tàu khổng lồ cao cấp của tôi. Ai dám mạo hiểm nhận lấy cái vốn tiêu cực ấy? Không một ai cả! Những người có cổ phần sẽ run sợ thấy cổ phần tụt giá. Kết quả họ phải bán ra! Và sau đó một thời gian ngắn, ai là người sẽ mua lại?

- Vậy ông đã chọn cách ông chết chưa?

- Việc đó, tôi nhờ thầy.

Nhà tiên tri cười khẩy:

- Đó là một ý rất hay! Nhưng chúng ta đừng nóng đầu. Hãy thong thả! Chúng ta sẽ xem vào thời kỳ nào thì cái tang ấy hợp với những người thân cận của ông nhất.

Mortimer như bị thôi miên vì hai bàn tay của Fast. Hai bàn tay vừa dài, vừa lớn, vừa gầy, vừa khỏe. Những móng tay ghét bám đen lên, bị gãy ở nhiều chỗ. Mortimer rất muốn giam chúng nó lại. Những ngón tay có đời sống riêng kia kêu gọi những ngón tay của Mortimer một cách không thể cưỡng lại được. Ông cần phải chăm sóc chúng. Ngay trong hội họa cũng vậy, muốn “nhìn” sự thật một bức tranh, Mortimer cần thiết phải đưa tay vuốt ve mặt bức tranh. Một hôm, ở trường trung học - lúc đó Mortimer mới mười hai tuổi - thầy giáo dừng bước trước bàn của ông, đứng quay lại giảng cho cả lớp. Ông thầy chắp tay ra lưng ngay trước mũi Mortimer, hai bàn tay ngắn, béo như quả chuối mắn, quắp lấy nhau, ôm ấp nhau, rời nhau ra, lại nắm lấy nhau, những đoạn phía trước chặt rời ra, run rẩy, run rẩy. Mortimer đã không nghe được gì từ lâu, luôn luôn bị ám ảnh bởi ý muốn không thể cản lại được là nắm lấy đôi tay ấy. Và ông không hề quyết định, việc ấy đã xảy ra ngoài ý muốn của ông. Thầy giáo tưởng ông định đưa mình ra làm trò hề, đã đánh ông một bạt tai nảy lửa. Cả lớp phá lên cười và Mortimer ra khỏi cơn mê, một bên má cháy bỏng, đau đớn. Đến tận bây giờ, ý nghĩ sờ tay người khác vẫn gắn liền với ý nghĩ bị bạt tai, bị trừng phạt tức khắc. Đến mức, khi người ta bắt tay ông, ông liền rút tay lại rất nhanh, sợ bị trừng phạt vì một sự tiếp xúc kéo dài.

Nếu ông cầm bàn tay Fast, liệu Fast có bạt tai ông không?

Đến Marseille, họ trọ tại khách sạn Nô-ây. Ngay trước khi Mortimer giở mưu kế để thuyết phục mẹ trở về Luân Đôn, bà quận chúa đã tuyên bố bà muốn về ngay Luân Đôn trong ngày mai, nói rõ ra rằng “làm xong phận sự, bà không muốn chen vào việc vợ chồng con trai bà nữa”. Điều đó, nhằm vào Lena, nhưng lại có kèm thêm những điệu bộ cho Mortimer biết rõ thái độ khinh bỉ của bà. Bà bắt dọn cơm chiều cho bà trong phòng riêng của bà sau khi con trai của bà đến hôn lên trán bà và chúc ngủ ngon. Sáng sau, tám giờ, bà đi chuyên máy bay đầu tiên về Luân Đôn. Mortimer thở phào, nhẹ nhõm trở về khách sạn, ở đó Lena và Fast đang ăn điểm tâm với nhau. Fast có vẻ rầu rĩ. Về phía Lena, cô im lặng không nói gì. Mortimer muốn bắt chuyện với họ, nhưng vô ích, chỉ tiếp được những câu trả lời qua quýt! Đêm trước, Fast chỉ hỏi có một câu:

- Ông bà có thể đưa tôi về Paris được không?

Chẳng rõ anh ta thanh toán vé máy bay như thế nào mà sướng run lên vì hy vọng Mortimer đã bỏ tiền túi ra trả những như thanh toán cả cho tiền ăn, trọ ở khách sạn - Fast bay lượn vi vu ở trên những chuyện lặt vặt ấy tựa như anh cảm thấy riêng chỉ sự có mặt của anh cũng đã là một ân huệ cho người khác rồi. Không bao giờ anh nói đến tiếng “cám ơn” và mặc dù ý thức tiết kiệm và lịch sự - vốn là truyền thống trong dòng họ Sunderland - Mortimer vẫn không lấy làm khó chịu về cách xử sự ấy.

- Đến Paris, anh sẽ về đâu?

- Tôi chẳng biết nữa!

Fast đang uống uýt-xki, từng ngụm nhỏ. Mortimer ngồi bên cạnh anh ta, Lena ngồi cùng một hàng ghế, nhưng ở bên lối đi. Khi đôi mắt của Mortimer không dán vào hai bàn tay của Fast thì ông lại vụng trộm đưa nó vào bộ mặt của Fast mà chiều nghiêng hoàn mỹ và thanh tú làm cho ông sững sờ.

- Anh sẽ về khách sạn?

- Không.

- Về nhà bạn?

- Không biết nữa! Không quen ai hết!

- Nếu vì lý do này hay lý do kia, anh gặp điều gì lúng túng, tôi có rất nhiều bạn bè ở Paris vui lòng đón tiếp anh.

- Cái gì làm cho anh nghĩ rằng tôi lúng túng?

- Không có gì cả, rõ ràng như thế! Có điều là lời mời của tôi vẫn có giá trị. Và nếu như anh vui lòng ở chơi một thời gian tại lâu đài cổ của chúng tôi ở Lên-cát-sai thì...

- Anh có muốn uống uýt-xki không?

Mortimer hiểu ngay là “tôi muốn uống uýt-xki” và thầm lấy làm vui lòng bởi cách nói ấy, từ miệng của Fast, nó hầu như là một dấu hiệu của phép lịch sự. Ông ra hiệu cho chị phục vụ trên máy bay mang rượu đến một lần nữa. Lena cũng làm như vậy...

- Anh là sinh viên à?

- Cũng có khi.

- Về môn gì?

Fast nhìn Mortimer với một vẻ chán ngán hết sức:

- Tôi vẽ!

- Họa là một môn rất hấp dẫn! Anh có triển lãm chứ?

- Không.

- Anh bán tranh?

- Không bao giờ.

- Như vậy thật là ngốc! Vì sao thế?

- Chắc là chẳng một ai thích những bức tranh đó!

- Anh nghĩ thế! Thế còn anh?

- Con số không!

- Anh không thích tranh của anh à?

- Như cứt!

Mortimer cảm thấy tai mình đỏ bừng lên. Ông nhìn sang Lena và thấy Lena cũng đang hau háu nhìn Fast: đây là lần đầu tiên họ phát hiện ở nhau một thích thú chung. Một ý nghĩ thoáng qua mà ông thấy là nực cười: rồi đây ông có trở thành người tình địch của vợ ông không?

Ông đứng lên và đi qua mặt Fast, đưa chân chạm vào đầu gối anh ta. Ông cảm thấy nhịp mạch của ông đập nhanh hơn:

- Xin lỗi!...

Ông ngồi vào chiếc ghế bành bên cạnh, tạm thời vắng khách:

- Cô thấy trong người thế nào?

Lena thở dài kín đáo.

- Tốt lắm! Mortimer! Cảm ơn anh!

- Cô biết rằng, bất cứ xảy ra việc gì, tôi bao giờ cũng ở bên cạnh cô!

- Tôi biết thế!

- Khoảng mười lăm phút nữa chúng ta sẽ hạ cánh. Cô có muốn đi thẳng ngay về đại lộ Foch không?

- Cố nhiên!

- Cô có biết chàng trai kia rất lắm tài không? Anh ta là họa sĩ. Trước đây cô có biết thế không?

- Trước đây tôi không biết!

Mortimer sung sướng vì đã bước sâu vào cuộc đời riêng tư của Fast hơn Lena. Ông nói tiếp:

- Chàng ta hình như hoàn toàn bơ vơ. Cô thấy có điều gì trở ngại nếu chúng ta mời anh ta về nhà chơi vào ngày mai không? Tôi muốn nói là sau khi câu chuyện gớm ghiếc kia đã được giải quyết xong.

- Anh muốn thế nào thì anh cứ làm, Mortimer ạ!

Để giấu niềm xúc động của mình, Lena cố ý nhìn chăm chú vào tấm bản đồ Atlas, ngang dọc những đường màu đỏ, đường bay của những chiếc Boeing nối liền các lục địa.

Giữa lúc mà thành công chắc chắn của Socrate làm cho ông nhảy cỡn trên giường thì cánh cửa phòng mở ra và Lena bước vào. Cô nhìn Socrate và Socrate nhìn cô, hai người cùng ngạc nhiên như nhau. Còn giữ nguyên trên đầu chiếc khăn quấn kỳ dị, và đang nhảy nhót, Socrate đã đứng sững lại, với vẻ đột ngột của trẻ con chơi trò làm các ông tướng. Còn Lena thì bất giác đưa tay lên giữ quay hàm của cô. Nó vốn có khuynh hướng đáng buồn là hay bị trẹo đi trong những hoàn cảnh đặc biệt. Tình thế hết sức bất ngờ, hết sức lạ lùng đến nỗi cả hai đều không ai nói lên lời nào trong nửa phút. Bị cố định một cách ngớ ngẩn vào cái ý tỏ ra người vợ trước của ông vẫn còn giữ chìa khóa phòng ông, Socrate không thể nghĩ được gì khác nữa! Sự im lặng đã lên đến tột độ mà sau đó, nhất thiết phải có cái gì bùng ra. Socrate ghê tởm thấy quận công Sunderland rụt rè thò đầu vào trong cánh cửa hé mở, trong lúc đằng sau lưng ông, François đang làm những cử chỉ tuyệt vọng và bất lực. Lena kinh ngạc đến nỗi phải bíu vào cánh tay ông chồng mới. Bàng hoàng, ông quận công ngây ra ngắm con người mặc quần áo ngủ, đầu tóc quấn một tấm khăn trải giường nhàu nát, đứng trên một chiếc giường bừa bãi đầy những thức ăn và rượu đổ vãi... con người mà ông chuẩn bị một cách chắc chắn là trông thấy ở dạng xác chết kia.

- Các người có muốn uống gì không?

Đó là tất cả những điều Socrate có thể tìm nói lên được. Sự phi lý lớn đến nỗi ông lại phá lên cười điên dại, mặt đỏ gắt, người gập làm đôi, trong khi tay thì vẫn làm những cử chỉ xin lỗi. Và cử chỉ ấy lại làm cho ông cười dữ hơn lên. Lena bị lay động mạnh đến nỗi chính cô là người đầu tiên không tự kìm được. Đầu tiên là một cái gì đó khe khẽ bật ra từng tiếng đến tắt ngâm ở môi. Rồi một tiếng nấc, báo hiệu cho cả một trận cười như bão táp. Đến lượt Mortimer, mặc dù cố giữ bộ mặt lạnh lùng cũng bị lây nhiễm, thốt ra mấy tiếng lúc cúc trong cổ họng, trước khi gập đôi người lại mà cười...

Socrate bấm chuông gọi cô hầu phòng. Và cô này bắt gặp cả ba mặt đều đỏ gay, gào thét, chỉ tay vào lẫn nhau, thở không ra hơi nữa! Cuối cùng, khó khăn lắm, Socrate mới nói lên được hai tiếng “sâm-banh”! Sau đó toàn thân rúm lại, ông đành phải nằm dài ra. Mê lú, người co quắp lại, Lena ngã ra giường và lăn đến cạnh Socrate mà ôm chặt lấy ông. Nằm dài trong chiếc ghế bành, thân hình như một mụt măng run lên, Mortimer vỗ tay lên đùi mà cười, nước mắt nước mũi dàn dụa. Lớp trò điên loạn đó kéo dài trong năm phút đồng hồ. Rồi Socrate cố gắng tự chủ, bước đến gần ông quận công chìa tay ra:

- Hân hạnh được biết ông!

Thật là quá sức ông. Ông lại tiếp tục cười, trong một thứ tiếng gào đau đớn, do nỗi cười đã quá dư và kéo dài. Họ uống rượu với nhau, Socrate giải thích đại khái rằng ông là nạn nhân của một vụ phá quấy mà ông sẽ cố gắng tìm ra thủ phạm.

Nhưng lẽ phải không còn đúng lúc nữa: một cái gì đó đã bị gáy trong những bộ máy của ngôi nhà đang biến thành máy xay say rượu kia. Đột nhiên, không có một ai báo trước, Hankie Vermeer, mặc tang phục và khóc sướt mướt bước vào trong phòng, tay nắm tay Achille và Maria.

Thằng con trai kêu lên không hề có sự nối tiếp:

- Ba à! Về cây cọ, con mới chặt có một cây thôi.

Maria đâm bổ vào trong đôi cánh tay của mẹ, rồi dời ra và nhảy lên ôm cổ bố:

- Khi bố mặt quần áo ngủ, trông bố ngộ quá!

Suýt ngất đi, Hankie đành chỉ lắp bắp những câu không rõ ràng, pha lẫn tiếng Hà Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp và một vài mẩu bằng tiếng Hy Lạp: thật là vượt quá sức bà. Bà ngã vào cánh tay Lena, vừa khóc vừa nói:

- Tôi đã tin chắc là không phải mà! Tôi đã tin chắc như thế! Lạy Chúa tôi! Cảm tạ! Tôi chưa dám nói gì với các cháu!

- Socrate!

Tiếng rú làm mọi người quay về phía cửa ra vào: mắt đầm đìa, mặt đỏ và tang thương, Menelas nhảy vào trong phòng, nhào đến Socrate, hôn lấy hôn để:

- Thật là khủng khiếp! Em đã đi vòng quanh trái đất để về đây... Em đã tưởng chết được... Trời ơi! Trời ơi! - Chị dừng lại, ôm chặt Socrate và nhìn ông như chưa hề thấy ông bao giờ:

- Socrate! Nhưng anh còn sống! Anh còn sống!

Bằng tiếng Hy Lạp, chỉ nói những câu nhanh và dồn dập, mơn trớn, nắm bóp hai bàn tay ông rồi lại hôn hít ông, những cái hôn ngắn, môi lướt nhẹ. Bây giờ chị mới nhận thấy lớp trò này có đến một nửa tá người đang làm chứng. Như trên mây trở về mặt đất, chị ngắm nhìn từng người một.

- Olympia! Tôi cần phải giới thiệu với em: bà Vermeer. Em biết Lena, Achille và Maria rồi!

- Các con anh xinh quá!

- Và quận công Sunderland, người chồng của vợ tôi! - Socrate muốn sửa cái câu nói ông cố nhịn: chậm rồi! Ông lắc đầu một cách ân hận, thay cho lời xin lỗi anh chàng ngố mà Lena đã chọn làm người kế nghiệp ông.

Olympia kêu to lên:

- Nào, bây giờ anh giải thích cho em hiểu đi!

Socrate bắt đầu kể lại câu chuyện của ông, trong khi người ta dẫn hai đứa trẻ sang phòng khách để dọn kem cho chúng và François thì dặn khách sạn Plazza giữ một dãy phòng cho Hankie. vẫn chưa trở lại bình thường, còn lảo đảo... chẳng hề, bàn riêng với nhau, Lena và Mortimer đã cùng từ chối bữa ăn Socrate mời: họ cần gặp lại Fast ở khách sạn Ritz vào hồi tám giờ - và cả hai, vì những lý do giống nhau đều không muốn mất một tí nào sự có mặt hay lời lẽ của Fast.

Socrate thầm hài lòng về sự từ chối đó. Ông khó tưởng tượng ra nổi một bữa ăn chung với người chồng mới của người vợ cũ của ông, và người đàn bà chủ tọa đó lại tự coi mình là vợ tương lai của ông. Để bay đến bên giường ông lúc hấp hối, Menelas một lần nữa đã phải xé một bản hợp đồng ở châu Úc. Nếu có bữa ăn quái gở đó, thì quả thật đã phụ lòng yêu mến của chị biết bao nhiêu. Và ngày mai, Socrate đã phải bay đến Baran, đọc một tập hồ sơ dày cộp mà các cố vấn của ông đã chuẩn bị cho ông. Không có cả thì giờ để đưa “con báo” của ông ghé Paris nữa. Ông sẽ đền cho những xúc động của chị bằng cách tặng chị một vật trang sức. Socrate vốn chẳng làm một cái gì ngẫu nhiên cả, vẫn giữ một số trang sức trong mỗi ngôi nhà của ông. Rất nhiều lần, trong những trường hợp cấp bách, sự lo xa đó đã tỏ ra là rất có ích.