← Quay lại trang sách

Chương 25

Nhà tiên tri chơi trò thò lò hai mặt đã từ lâu, cho nên với ông, chóng hay chày, tai họa xảy đến là điều không thể tránh khỏi! Lần này, tai họa đã đến. Kallenberg sắp sửa đến bây giờ. Trong máy điện thoại, ông có vẻ giận điên lên, đòi gặp tức khắc với giọng nói của một người muốn thanh toán dứt điểm. Nhà tiên tri lại càng hiểu rõ điều đó bởi vì trong cách đối xử của ông có một cái gì đó không được lô-gích, một chi tiết ông đã phải thua nó, mặc dù nó phạm đến quan niệm của ông về công bằng và danh dự: một mặt, ông đã phản lại Kallenberg một cách nhẹ nhàng, làm lợi cho Socrate, một mặt, không ngần ngại, ông nhận những món tiền thù lao khổng lồ Kallenberg trả cho ông về công lao và lòng trung thành của ông! Thật là lạ lùng! Vậy mà Nhà tiên tri không có cái đầu để làm nghề này! Trong thực tế, và trong niềm tiếc hận lớn của ông, ông có cái đầu như tất cả mọi người, cái tuổi sáu mươi được chứng thực bằng một cái đầu như hoàn toàn hói, thiên hướng suy ngẫm và nhàn tản, rất thích nhà triết học Spinoza mà tác phẩm BÀN VỀ ĐẠO ĐỨC đã làm cho ông đắm chìm vào trong cực lạc - một sự ham mê tiền tài mà mãi sau này ông mới có, và một sự nghi ngờ rất lớn đối với nghề nghiệp của ông, nghề bói toán - không phải ông không nhìn nghề đó một cách nghiêm túc đâu: trái lại là đằng khác.

Ông rất kinh ngạc thấy những điều tiên đoán của ông thường lại đúng với sự thật và sự vi phạm có tang chứng này đối với hệ thống lô-gích và hợp lý chủ đạo cuộc sống của ông đã làm cho ông chìm ngập trong một cảm giác khó chịu vu vơ... Bi quan do tính tình và học vấn, song không thừa nhận rằng tư tưởng lại có thể can thiệp vào diễn biến tự nhiên của sự việc, hay một trí tuệ con người lại có thể hiểu được trình tự thời gian của diễn biến đó. Lần thứ nhất, khi ông đoán đúng, ông cho là một sự tình cờ. Lần thứ hai, cho là một sự trùng hợp. Lần thứ ba, ông cất nghiến vào đáy va-li các đồ nghề bói toán, những con bài, những quả cân thủy tinh và những bức tượng con con, quyết định một cách dữ tợn là không chơi trò phù thủy tập sự đó nữa để khỏi mất đi cái tạo nên ý nghĩa hiện thực của cuộc sống của ông, sự yên ổn về trí tuệ của ông.

Việc đó xảy ra sau chiến tranh một ít. Cuộc sống đang rất khó khăn, và sự có mặt của ông ở Paris rất đáng lo ngại vì trước đó ông đã tỏ ra quá lộ liễu lòng khâm phục đám quân xung kích của Hitler!

Thời gian đó, ông muốn làm nghề viết văn, ngỡ mình thuộc diện thiên tài, mặc một bộ áo quần may sẵn của hãng “Cô làm vườn xinh đẹp” từ thời tiền chiến, ăn mỗi ngày một con cá mòi độc nhất, đun sôi lại trên chiếc đèn cồn, trong căn nhà nhỏ hẹp, tồi tàn, phố Château-des-Rentiers, nơi bất đắc dĩ ông chọn làm chỗ cư trú và ông hy vọng chỉ là tạm thời. Để đánh dấu thành công văn học tương lai của ông bằng một chiến thắng vang dội, ngay từ đầu ông đã quyết định thực hiện một thứ bích họa toàn diện về những thiểu số tính dục, về những con người sống ngoài lề cuộc du hí phất phơ, tóm lại, về tất cả những con người gặp khó khăn về sinh lý, và muốn thỏa lòng nhục dục, phải làm lắm trò như trá hình, cầm roi quật đối phương, hoặc cho đối phương quật lại, ăn những thứ lạ lùng mà sự đồi truy đòi hỏi, nhưng dạ dày lại cự tuyệt...; và nó sẽ được thực hiện một cách độc đáo đến mức, sau quyển sách của ông - dày ít nhất một nghìn trang - bất cứ ai viết về vấn đề này, đều bị phê bình ngay lập tức là nhắc lại. Một tay tập tễnh làm nghề xuất bản, người gầy nhom và bốc đồng, cay cú được là môn đệ của Nhà xuất bản nổi tiếng Gurdjieff, đã bằng lòng bỏ tiền ra để nuôi dưỡng những bập bẹ ban đầu của cái công trình đồ sộ. Số tiền đó lấy trong của hồi môn của người vợ mới của ông ta, bà vốn là vợ góa của một bá tước Ba Lan, có lẽ quý tộc giả, nhưng triệu phú thật. Khốn thay, công việc sưu tầm tài liệu thực tế của con gà nòi của ông ta, tiến hành rất kỹ lưỡng giữa hai nơi ăn chơi Blanche và Pigalle, sớm tỏ ra hết sức tốn kém. Thêm vào đó, một câu nói hớ hênh và ngây thơ của “nhà tác giả” tương lai, cuối cùng đã làm cho “nhà xuất bản” ngờ ngợ. Số là, trong một lúc trút niềm tâm sự, tác giả đã nói với ông, ông nghe chắc chắn như vậy:

- Cho là mọi sự thuận lợi cả thì riêng việc sắp xếp cái đề cương của quyển sách của tôi cũng đã chiếm đến hai năm rồi!

Những lời nói tai hại đã làm tràn cốc rượu. Chỉ trong có một ngày, Nhà tiên tri, lúc đó chỉ là Hilaire Kalwozyac, vô tổ quốc từ đời cha đến đời con, gốc gác Ba Lan, lòng dạ Pháp, bỗng trở thành một tên thất nghiệp, dự định lớn lao rơi vào chôn u u minh minh, một tác phẩm rút vào trong ý nghĩ và lại trở về cảnh khốn khổ, khốn nạn như trước.

Xuất phát từ nguyên tắc là trong thời bình, không một ai có thể chết đói ở châu Âu, và dù hay dù dở, mọi việc rồi cũng ổn thỏa, ông quyết định tự buông mình theo cuộc sống không một chút chua chát, quay về với cái ổ chuột ở quận 13, với con cá mòi khô hàng ngày, vẫn tin tưởng vào tài năng của mình và tò mò chờ xem cái gì sẽ đến với ông đây! Thật là kỳ cục! Vài ngày sau khi cắt hợp đồng với nhà xuất bản, vào quãng ba giờ chiều, ông ta đang tư lự đi trên đại lộ Cli-si, giữa hai dãy gian hàng hội chợ, thì bỗng nghe có người gọi tên ông:

- Hilaire! Hilaire!

Ông quay lại và thấy một người phục phịch ở trong một gian hàng xổ số:

- Số 8 vừa mới ra! Ông trúng một cân đường!

Người béo ấy vẫy tay rối rít, một cách thân thiết với ông:

- Thế nào? Không nhận ra mình à?

- Arthur!

Hơn là nhờ bộ mặt chó con đỏ tía của anh ta, Kalwozyak đã nhận ra anh ta nhờ tiếng nói lanh lảnh của dân nghèo tỉnh lẻ: Arthur!... Ông đã gặp anh ta trong những ngày bắt đầu chiến tranh, ở Vesoul, trong một trại lính mới động viên tại đó, bị gọi nhầm, ông đã bị giam giữ. Mặc dù ông đã phản đối những phiền phức không lịch sự nhằm buộc ông, một ngoại kiều yêu nước Pháp, phải đứng dưới cờ ra trận.

Lúc ấy, để ổn định cuộc sống vật chất, Kalwozyak đang tính nuôi gà - chủ yếu là loại gà Leghorn, đẻ rất kỳ diệu - nhưng chẳng một mống nào sống sót trong đàn gia cầm của ông, nó bị một bày dân lang thang, di cư vào miền Nam, ăn cắp sạch. Ông đã rất mê Arthur, vì Arthur khéo tìm ra thức ăn ở những nơi chẳng còn gì cả. Arthur, trùm sỏ hậu cần, vui vẻ và quý báu. Việc cả hai đều được xác nhận: “Không đủ điều kiện để vào quân đội”, tuy vì những lý do khác nhau, đã thắt chặt thêm tình bạn của họ: họ đã từng đi với nhau một đoạn đường, vài tuần hay vài tháng, Kalwozyak không nhớ nữa. Nhưng ông rất lấy làm thích về sự thán phục của Arthur đối với ông. Arthur đã gắn cho ông sức mạnh vạn năng, trong một địa hạt mà tạo hóa không nuông chiều gì ông: sự thông minh về lý thuyết. Kalwozyak, chỉ cần người ta mớm cho một chút, là có thể luận thao thao hàng giờ về nhà văn Pháp Montaigne, nhà triết học Đức Hegel, hay về sức mạnh ý chí của nhà triết học Đức Nietzsche.

Theo ông, sức mạnh ý chí của Nietzsche, không phải là một bản năng độc lập, như người ta tưởng nhầm từ trước đến nay mà chỉ là một phần nhỏ của dục lực; hoặc đọc vanh vách những bài thơ của Villon, của Mallarmé, của Racine hay Ronsard. Trí tuệ không lường trước được của ông, trí nhớ rất chính xác của ông cho phép ông đãi đằng thịnh soạn các món đó cho các thính giả của ông ngẩn ngơ ra vì bậc anh hùng và những người chết đang ở trong tiềm thế. Khi ông cảm thấy thính giả của ông hết sức bàng hoàng và mệt phờ, ông liền ngắt chuyện bằng một câu trễ nải: “Cứt! Bao giờ mới được chén chứ?”. Câu nói đã cho thêm vào tầm hiểu biết rộng rãi của ông một vầng hào quang của đức khiêm tốn. Thật ra, nói cho đúng, ông không phải một con người văn học - nguyên ông bắt đầu là học nghề y, nhưng việc học hành nhanh chóng bị bỏ dở, vì một vụ phá thai không may mắn khi ông đang ở năm thứ hai ngoại trú, đoạn đường khó khăn và bấp bênh, trong đó những mánh lới nhà nghề còn quá mù mờ, chưa thể cứu sống được mạng người nhưng lại chưa đủ chắc chắn để tránh được cái chết - một thời kỳ buồn thảm.

- Thế bây giờ, anh thành gì rồi?

- Tôi đang sưu tầm tài liệu để viết một quyển sách (sai, không còn nhà xuất bản, thì không còn sách nữa).

- Cái đó có lấy hết thì giờ của anh không? Anh đi với tôi. Tôi có câu chuyện muốn nói với anh! Chúng ta ra quán ăn! Ê, Louise!

Và Arthur ra khỏi gian hàng của anh, quen mồm nói lớn: “Toàn trúng số cả!”. Ai cũng trúng! Rồi hạ giọng nữ trung, với Kalwozyak:

- Toàn là bị cháy túi cả! Toàn những thằng máu mê! Con mụ to béo, thay tôi ở gian hàng đó, là Louise! Vợ tôi đấy!

Trước bàn rượu, những lời nói của Arthur làm cho Kalwozyak dỏng tai lên: không hơn, không kém, Arthur đề nghị với ông - trong một thời gian ngắn, cố nhiên - thay chân một tay thuật sĩ, nửa là nhà tướng số, nửa là nhà thiên văn, xem bói trong gian hàng bằng gỗ, ngay cạnh cái xe lưu động của anh ta.

- Và anh sẽ thấy, - Anh ta nói rõ - bọn quỷnh không thiếu đâu. Nghề này hái ra tiền. Chỉ cần phịa với họ những chuyện bá láp mà họ thích nghe là ăn tiền. Và anh, về mặt ấy, với tất cả những cái anh có ở trong đầu thì anh phải là số dách!

Kalwozyak, rất lưu tâm, đã đưa ra một vài lời phản đối cho phải phép, lập luận rằng ông chưa hề được đào tạo để có thể đương đầu với một tình huống như thế. Arthur gạt gạt bàn tay, quét phăng đi những do dự đó và gọi thêm rượu:

- Anh đừng ngại! Anh muốn nói hươu, nói vượn gì với họ, họ cũng xực hết, một khi anh chít một chiếc khăn lên đầu và làm ra vẻ một người Ấn Độ.

Kalwozyak hẹn ngày mai sẽ trả lời, và nhân Arthur mời ăn cơm tối đó, về khoản này, ông đã được bảo đảm, với mấy đồng phrăng cuối cùng, ông liền chạy ngay ra một hiệu sách vơ vét những sách tướng số, soạn một cách sơ đẳng thật đấy, nhưng hấp dẫn và là món suy nguyên học, nghiên cứu những nguyên nhân vì sao nhân loại cần đến thế những điều kỳ diệu, lại khao khát đến những điều biết chắc. Vốn luôn luôn sống ngày nào hay ngày ấy, vì sở thích cũng có, và vì nhu cầu cũng có, ông không hiểu nổi cái việc con người lại có thể muốn đem hành động của mình phục tùng ý tốt của đấng bề trên, Đức Chúa, đạo Thiền, Mahomet, Phật hay là ngôi sao Pluton: điều đó vô nghĩa lý và cất hết thú vị của cuộc sống vì đã tước bỏ đi cuộc sống cái khái niệm đem giá trị lại cho cuộc sống, đó là sự rủi ro: Ông tự hứa sau đây sẽ nghiên cứu sâu vấn đề nguyên nhân này, còn hiện nay thì hãy hạn chế vào trong việc tiêu hóa cái vấn đề hậu quả, đi sâu hơn nữa vào ý nghĩa tượng trưng của những con bài bói toán, vị trí của những ngôi sao so với những ngày hạ chí, đông chí, chui rúc một cách vừa tò mò vừa chán chường vào những bí mật của ý chí thánh thần thể hiện trong bã cà phê, những bí mật của các chỉ tay, vào phép toán học giả hiệu của môn xem tướng mạo con người. Lúc đó, ông đang ngồi ở một quán rượu, không xa chỗ hội chợ. Đến giờ đi ăn cơm tối, ông đã quyết định: ông sẽ thử làm một tay thuật sĩ xem sao, khá tự tin để không thể gây ra được những tấn bi kịch trong những khách hàng tương lai, cũng khá giỏi tâm lý để có thể trả lại được khách hàng của ông lòng yêu đời và một tinh thần phấn đấu, vì đó chính là điều những thằng ngu kia đến tìm kiếm ở ông, họ không dám liều nếu họ không chắc thắng. Arthur phấn khởi nhận lấy câu trả lời của ông:

- Rồi anh xem, chúng ta sẽ no nê!

- Chúng ta?

- Ơ kìa. Anh tưởng thế nào? Chiếc xe lăn là của tôi, chúng ta sẽ chia đôi, mỗi người một nửa, như hồi năm 40 ấy! (Nói cái này ra thật đúng lúc quá).

Bắt đầu từ hôm sau, hơi ngượng nghịu, ông tiếp người khách hàng đầu tiên, một chị bán thịt, bị chồng bỏ. Ông chăm chú ngồi nghe chị ta, ngạc nhiên thấy một con người tầm thường như vậy mà cũng có một nỗi buồn như thế! Chị ta nói mãi, nói mãi, giữa những tiếng khóc nức nở mà Nhà tiên tri ở Cascaïs không hề nghĩ đến việc phải nói một điều gì với chị ta, hoặc ngắt lời chị ta. Cùng lắm, khi dòng lời của người khách hàng hình như chảy chậm lại, hoặc do dự giữa nhiều ngả của sự đau khổ, để rồi lại thao thao hơn, xông thẳng tới cái ý cố định của chị ta: cái “củ c...” của chị ta bay mất rồi, thì ông thỉnh thoảng gật đầu một cách thông cảm và ái ngại. Khi đã trút hết niềm tâm sự, chuyện nói hết rồi, chị ta dừng lại, thì có một lúc im lặng mà chị ta không chịu nổi phải phá tan nó bằng một câu:

- Thưa giáo sư! Giáo sư không bao giờ biết được công lao của giáo sư đã giúp đỡ tôi to lớn biết là nhường nào! Xin cảm ớn! Xin cảm ơn!

Và chị ta ra về, lùa lên trên bàn một tờ giấy bạc lớn. Bàng hoàng, “giáo sư” hiểu ngay ra rằng nguyên tắc thứ nhất của nghề kiếm cơm mới mẻ này là: lắng nghe! Người đàn bà ấy trả tiền cho ông chỉ để được có người nghe câu chuyện của chị ta. Trong sự im lặng của ông, chị ta đã tìm ra được niềm an ủi mà ông chẳng phải làm gì để đem lại cho chị ta. Câu chuyện thảm hại của chị ta, chị ta đã đọc thuộc nó ra trước một nhân chứng, với một cái giọng nhỏ nhẹ, và thế là chị ta đã được giải thoát. Điều này thật là lạ! Arthur thò đầu sang:

- Thế nào? Tốt chứ?

Và khi nhìn thấy tờ giấy bạc:

- Này! Bắt đầu khá đây! Anh đã nói gì với chị ta, để chị ta để lại ngần ấy tiền?

- Không nói gì cả! Không một lời nào hết! Tôi chưa hề mở mồm mà!

Thán phục, Arthur vỗ vào vai ông một cái rất mạnh:

- Anh là một tay cờ bạc bợm đấy! Cứ thế, chúng ta tiếp tục.

Và Nhà tiên tri tiếp tục, dần dần đặt thành thể diện cái việc nhìn thấy mọi người hài lòng ra về, rơi vào trò chơi của chính phép biện chứng của ông. Trừ những ai đến với vẻ gây sự hay giễu cợt, thì ông lấy làm thích thú được đập cho co vòi lại và dìm vào trong nỗi lo âu. Với ông, đấy là một quyền lực mới mẻ mà ông vẫn chưa khai phá được hết các ranh giới, cũng như chưa hiểu hết các trách nhiệm. Hôm qua, Arthur nói với ông:

- Anh phải tìm cho anh một cái tên, một cái gì thật kêu, có vẻ nước ngoài một tí. Thầy Phù thủy châu Phi hay một trò gì đó vào loại ấy. Anh muốn lấy tên là gì nào? Kìa, nói đi chứ! Anh làm nghề tiên đoán kia mà!

- Thầy Tiên tri nhé!

- Như thế chưa đủ! Phải có vẻ từ phương xa đến. Anh hiểu đấy, nếu anh nói anh cũng là người của khu phố này thì không ổn!... Nhà Tiên tri ở phố Pigalle thì còn ra làm sao! Nào, anh muốn anh từ đâu đến nào?

- Từ Cascaïs được không?

- Cái xứ đó ở đâu?

- Ở Bồ Đào Nha, không xa thủ đô Lisbonne gần Estoril.

- Ở cái xứ đó có những thuật sĩ không?

- Không! Nhưng đây là nơi tôi đã đi qua một lần. Lúc đó, tôi đã định dừng chân sống ở đó!

- Cascaïs cũng được! Này, Louise! Nghe nhá: Nhà tiên tri ở Cascaïs. Nghe có kêu không, hử? Bợm lắm, Kalwozyak ạ!

Giữa hai đợt tiếp khách, ông lấy những quyển sách nghiệp vụ từ trong tấm áo dài Ấn Độ của ông ra - theo lời khẩn khoản của người canh ty với ông, ông đã phải hy sinh cho cái trò dân gian lố lăng kia - và trau dồi nghệ thuật của ông, nếu như người ta có thể gọi là nghệ thuật, cái mà trong con mắt ông chỉ là ngụy biện và lừa đảo. Cố tình quên đi cái khiếu bẩm sinh của ông về tâm lý học, nhiều lúc, vì cuộc chơi, ông đã họa những bản đồ các ngôi sao trên trời theo cách toán học, tránh diễn giải bất cứ điều gì, để đọc ra được rõ hơn cái mà vị trí các ngôi sao vạch ra cho thấy một cách tưởng tượng. Như một người thợ tiện kim khí, không chú ý đến đối với, không để tâm vào đó, trong lúc suy nghĩ về cái khác mà vẫn cứ hoàn thành nó một cách máy móc vậy. Phải nhận rằng trong những ngày đầu làm nghề linh nhỡn đó, ông đã gặp được những con chuột thí nghiệm lý tưởng, những con nhà võ đang phởn, những nạ dòng xứ Bơ-rơ-ta-nhơ bị quỷ ám, tuổi năm mươi bị cảnh tắc kinh làm tình làm tội, những bộ mặt vô danh trong khu phố... Tùy theo ngẫu hứng của ông hay số lượng khách hàng - số lượng không ngừng tăng lên - ông xông vào phát triển dông dài hoặc ít hoặc nhiều, ba chủ đề chính: tiền tài, tình yêu và sức khỏe, những bầu vú nuôi sống mọi hoạt động bói toán. Ông ngạc nhiên thấy tiếng tăm của ông lan rộng rất nhanh, truyền đi như một đám cháy nhờ sự quảng cáo từ miệng sang tai. Người ta tìm đến ông từ quận 16, người ta viết thư cho ông từ Roubaix, người ta mời ông đến Bruxelles. Trong khi tài nghệ của ông dần dần càng nâng cao lên. Ông nhận thấy trong cách cư xử của ông đã có những thay đổi. Và vốn là người tế nhị, ông không thể không thấy ý nghĩa mỉa mai trong sự thay đổi đó. Một hôm ông tự bắt chợt ông chỉ trích một “bạn đồng nghiệp” mà người ta ca tụng tài năng với ông. Ông công kích người ấy ở một điểm thuần túy kỹ thuật bói toán. Trường hợp cụ thể này là như sau: một bao diêm đổ ra trên một mặt bàn mà lại dùng làm chỗ dựa cho bói toán được! Và những que diêm mà ông khinh thường đó, hỏi có gì tức cười và vô công hiệu hơn những con bài, một vết mực, một quả cầu bằng thủy tinh ông vẫn dựa vào không? Ông cũng cảm thấy mình lố bịch. Nhưng vẫn tỏ ra có óc khôi hài, tự cười chê mình vì đã lấy ra được cái chi tiết bị coi là sai kia, cái chi tiết của một hệ thống mà toàn bộ sai đâu có kém gì nó, và loại ông phủ nhận triệt để sự tồn tại. Một chuyện khác, cùng loại đã làm cho ông hiểu được sức mạnh của guồng máy bịp bợm. Louise, mụ Louise to béo, vốn đã biết rất rõ về nguồn gốc của trò bịp bợm này, vậy mà lại giấu Arthur đến khẩn khoản ông xin một quẻ bói bài. Làm thế nào mà cái mụ chủ hết sức lý trí ấy cũng lại rơi vào cái bẫy chính mụ ta đã giăng ra cho người khác?

Kalwozyak hết sức ngạc nhiên, rút ra từ đó một nguyên tắc thứ hai: chỉ cần anh tự xưng là nhà tiên tri và khoác vào những bộ sậu của nhà tiên tri là anh sẽ trở thành nhà tiên tri thật sự. - Hơn tất cả, điều làm cho ông đau lòng nhất đây là thấy những người ông vốn kính trọng về mặt thông minh và về mặt hiểu biết, cũng phục tùng những quy luật ngôn từ của ông chẳng khác gì những bà bán kem, tựa hồ như một khi họ đã vào vòng thì óc phê phán của họ chống lại được cơn mê sảng của những dục vọng ấu trĩ của họ nữa: tiền tài, sức khỏe và tình yêu. Với một sự ngạc nhiên pha lẫn buồn phiền, ông tiếp đón những nhà kinh doanh phát tài và những tay mới tập tễnh làm chính trị đến khúm núm dâng cho ông những tập hồ sơ của họ, đợi chờ sự phán xét của ông để ký vào những hồ sơ đó những chữ ký định đoạt những số tiền lớn, những đập thủy điện, sự phá sản của những người này, sự giàu sang của những người kia. Đôi khi ông muốn túm lấy vai họ, lay mạnh họ và hét to với họ rằng họ là những thằng điên khi họ tin vào ông, khi họ để cho những cái họ nắm thật ở trong tay họ phụ thuộc vào những hư ảo của lòng mê tín của họ. Nhưng ông vẫn im lặng, giận dữ nhét vào dưới áo của ông những tờ giấy bạc họ trao cho ông, phát điên lên vì phải nhận những lời ngợi khen về sự sáng suốt và về những lời tiên đoán của ông. Ông không tài nào hiểu nổi nhân loại lại có thể nằm trong tay những tên cầm đầu như vậy, những kẻ không tự điều khiển được, không tự quyết định được. Nhân loại đã bị lừa phỉnh bởi những tinh hoa đó, chúng còn con nít hơn cả những đứa con của chính nhân loại, con nít đến nỗi ông chẳng là quái gì cả, ông cũng điều khiển được chúng, những kẻ có quyền làm tất cả.

Mario hiện ra, vẻ lo lắng:

- Ông Kallenberg đang ngồi ở phòng khách.

- Ông ta cứ vào!

Kalwozyak cố gắng tập trung tư tưởng: vô ích. Ông quá sợ để có thể lái được như thường lệ người khách hàng nóng nảy của ông. Kallenberg nhảy bắn vào trong phòng, hai bàn tay nắm lại, nét mặt hung dữ. Không cần đến cả chào hỏi, Kallenberg tiến công dữ dội:

- Tôi vừa mất hàng tỉ đô-la! Đó là lỗi tại ông!

- Ông Kallenberg...

Xử nhũn, xử nhũn làm ông ta dịu đi. Nhưng người ta không ngăn nổi được một dòng thác lũ:

- Ông im đi! Ông đã lừa tôi!

- Tôi xin ông...

- Ông đã nhìn thấy hắn ta chết! Hắn có chết không? Không! Hắn đang khỏe như thường! Hắn đang cười nhạo với tiền của tôi.

- Xin ông nghe tôi nói đã! Tôi chỉ mới nói với ông rằng tôi thấy cái chết trên người hắn, tôi không hề nói...

- Vậy thì ông phải nói rõ ràng ra chứ! Tôi, tôi không cần cái chết trên người hắn, khi mà hắn không tỏi thật sự.

- Tôi không hề muốn...

- Hắn vẫn sống, có phải không? Chứng cớ sờ sờ ra đấy!

- Tôi không nói trái lại.

- Tôi, tôi đã nghe ông, tôi đã tin ông.

- Vậy thì, cuối cùng, ông Kallenberg, tôi đã lừa ông điều gì nào?

- Điều gì à? Ông đã nói với tôi những chuyện con tườu! Điều ấy đấy!

Trước một tràng dài như vậy, nhà tiên tri chỉ đành lắc đầu và thỉnh thoảng đưa hai tay lên làm dịu Kallenberg. Kallenberg không phải đối thủ độc nhất của Socrate mà ông đã đầu độc một cách tài tình bằng cách giả vờ đưa cho Kallenberg những tin mật bịa đặt. Có điều ông đã làm việc đó một cách rất khôn khéo, rất lập lờ, sau đó luôn luôn vẫn có thể đổ lỗi cho khách hàng của ông là đã hiểu nhầm lời lẽ của ông. Cái chết của Socrate đã là sự liều lĩnh đầu tiên khó chuộc lại được mà ông đã làm đối với Kallenberg, ông ướm thử một lần tự bào chữa nữa cho ông:

- Ông hãy nhớ lại xem! Tôi đã nói với ông là hắn đang gặp một tai nạn lớn, là cái chết có thể... vậy thì tôi có nói dối ông không?

- Hắn vẫn sống sờ sờ ra đấy! - Kallenberg chua chát và giận dữ nói dằn từng tiếng:

- Ông làm như ông cho là lỗi của tôi ấy!

- Ừ!

- Ông Kallenberg! Dù sao, tôi không thể ám sát hắn ta, để bảo đảm cho những lời tiên đoán của tôi được... Tôi không phải là người tuyệt đối không lầm được.

- Tôi đã trả cho ông khá đắt rồi đấy!

Nhà tiên tri thấy rằng đây là một phút cần tấn công lại để tự vệ được tốt hơn. Lập tức ông làm ra một bộ mặt bất bình và đứng lên:

- Thưa ông, lần này ông đã đi quá xa đấy!

- Đừng giở cái trò phù thủy Ấn Độ bị xúc phạm ra đây! Không phải tiền của ông đã đi đời nhà ma, mà là tiền của tôi!

Kalwozyak vẫn đứng:

- Từ rày về sau, ông sẽ không còn mất tiền vì lỗi của tôi nữa. Từ rày tôi từ chối, không tiếp ông nữa!

- Thế nào? Không đùa đấy chứ? Nói thế thì dễ quá! Phải sửa cái lỗi lầm đã chứ!

Mặc dù lời dọa dẫm, Nhà tiên tri phân biệt thấy trong giọng nói của Kallenberg có một thoáng ngập ngừng, một cái gì đó không được vững vàng lắm. Phải thấy rằng con khỉ đột này vẫn còn cần đến ông. Ông đẩy mạnh lợi thế đó lên:

- Cố nhiên tôi sẽ hoàn lại cho ông tất cả số tiền ông đã trả cho tôi qua những lần ông đến bói toán.

- Điều ấy khó đấy!

- Ông không tin à?

Ông lắc lắc một quả chuông nhỏ. Mario thò đầu qua cánh cửa hé mở:

- Mario! Tập ngân phiếu của tôi?

Ông phải giữ vững trò bịp bợm này đến cùng, để có thể thoát khỏi bước khó khăn mà không tốn kém gì và làm Kallenberg lung lay:

- Bao nhiêu?

Kallenberg thấy ông ta nói một cách nghiêm chỉnh. Khi người ta tước mất ở miệng ông cái vũ khí ông ưa dùng - chữ “bao nhiêu” - ông liền cảm thấy lép vế ngay. Kallenberg nuốt giận và cất tiếng cười ré như chiếc chũm chọe bị gỉ:

- Thôi, chúng ta hãy bình tĩnh...

Nhà tiên tri vẫn đứng cao lên như một tay phù thủy Ấn Độ.

- Thầy hãy ngồi xuống đã! Tôi nào có muốn xúc phạm thầy! Dù sao thầy cũng nên thú thật là có thế!

Ngập ngừng, Nhà tiên tri rất thong thả ngồi xuống.

- Tôi không cần quái gì thầy trả tiền lại cho tôi. Kinh doanh của tôi thua được trên hàng trăm triệu đô-la. Chúng ta hãy thiết thực hơn. Chúng ta còn nhiều việc phải làm chung với nhau, thầy Kalwozyak ạ!

Tên cúng cơm bị lộ ra làm cho nhà tiên tri nghiến răng lo sợ. Như vậy có nghĩa là “nguy hiểm”! Khi người ta đọc tẩy cái đó ra trước mặt ông ta, ông ta như bị lột truồng, hết thứ tự vệ.

- Ông không tin nữa?

- Tôi không hề nói thế bao giờ! Khi bực thì người ta nói bất cứ điều gì. Ai ai cũng có thể lầm một lần.

- Nếu hắn ta sống sót thì đó là một điều kỳ lạ... Những con bài bói...

Lại những con bài bói! Kallenberg nghĩ đến những cổ phần bán vung tán tàn của ông với giá những tờ giấy thường! Thế nhưng thái độ của anh thầy bói vườn này làm cho ông sửng sốt: có thể là lão ta thành thật chăng? Một nghi ngờ còn vương vất? Socrate đã suýt chết thật hay cái chết giả của hắn là một trò bố trí? Cái nào đúng?

- Vậy thật sự là hắn đã gần chết?

- Ông không tin ư? Ông có biết trong quẻ bói lợi hại nhất, cái lưỡi liềm báo hiệu cái gì không?

Kallenberg không cần biết đến điều đó. Ông tức giận về nỗi thời vận của ông, do thiếu cái đường may mắn mà phải nhờ vả vào những tay phù thủy gà mờ này. Dẫu sao ông vẫn tự phụ là không tin Chúa, không tin Quỷ, càng không tin những trò tướng số và bói bài nhảm nhí. Thành ra, ông ngạc nhiên khi nghe thấy chính miệng ông thốt ra những điều làm cho ông ngồi đực ra này:

- Vậy nói thật, ông hãy bói một quẻ nói về vợ tôi xem nào. Tôi nghĩ rằng tôi muốn ly hôn đấy!

Kallenberg mỉm một nụ cười ngượng nghịu rồi cắn chặt môi lại, bực mình đã thốt ra cái lời lẽ ngu như lừa kia. Lạnh lùng, Nhà tiên tri trang trọng gật đầu.

Socrate đặt chồng hồ sơ xuống và đưa cặp mắt mệt mỏi nhìn những đám mây đang trôi bên dưới cánh máy bay. Tình thế thật phức tạp. Ở Baran, tiểu vương Ả Rập Hadj Thami el-Sadek đang làm bừa. Từ gần năm năm nay, ông ta đã đặt vững vàng uy tín của ông ta ở Trung Cận Đông và trong các nước Ả Rập - Những sự kiện ở kênh đào Suez đã góp phần tăng thêm quyền lực đó. Nhờ Hadj Thami el-Sadek đã moi ra rất nhiều tiền từ trong két bạc của các tiểu vương khác, mà Nasser, mặc dù bị người Do Thái, người Anh và người Pháp nện cho ra trò tại chỗ, vẫn cứ chiến thắng về mặt chính trị.

Tiểu vương Hadj Thami el-Sadek buộc ông phải chọn một phe, Socrate đã đứng về phía Ả Rập, điều làm cho vốn liếng của ông bị hút mất đi rất nhiều. Ông hiểu rõ là làm như vậy ông sẽ trở thành một trong những guồng máy của canh bạc chính trị khổng lồ, đang diễn ra trên những bờ biển của vịnh Persique. Cuộc đấu tranh nhằm hất cẳng châu Âu ra khỏi biển Méditerranée có lợi cho những tên khổng lồ Mỹ và Liên Xô đang bí mật đương đầu với nhau ở đó bằng cách tung ra hàng núi đô-la, cung cấp vũ khí, tuyên bố ở Liên Hiệp Quốc, chiến tranh lạnh, gián điệp đến nỗi cuối cùng, không còn biết được ai là bạn, ai là thù nữa.

Cố nhiên, trong những “giới được thông tin tốt”, người ta được biết bằng Socrate - cũng như Kallenberg, Médée Mikolofides và một số chủ tàu người Hy Lạp kém quan trọng, nhỏ hơn, phần lớn được sự ủng hộ lén lút của tổ chức Phanar, cái nhà thờ Thiên Chúa giáo chính thống của người Nga đang dần dần gặm nhấm bá quyền của nhà thờ Vatican kia, cái tổ chức mà những tay chủ tàu lần lượt là chủ nhà băng hoặc người vận động - đã đánh lá bài Ả Rập và vô tình trở thành những đồng minh của người Nga. Ở Hoa Thịnh Đốn, Bộ Ngoại giao đã thề thịt cho bằng được Socrate, bắt đầu bằng việc gây ra cho ông hàng nghìn chuyện ức hiếp mà cả một đám trạng sư quốc tế đang tìm cách giảm bớt đi hiệu lực. Kết quả của việc đóng kênh Suez là người Nhật thuê thêm thợ ở các xưởng đóng tàu của họ để đóng những con tàu khổng lồ chở dầu, đưa “vàng đen” theo con đường phía nam châu Phi qua Cap, theo con đường vương giả của Vasco de Gama thời xưa, từng làm giàu cho Bồ Đào Nha và Anh, trước khi làm cho Ai Cập và Venise lụn bại.

Từ trước đến nay, khu vực kênh đào Suez vẫn được các nước công nhận là trung lập - cả những cuộc chiến tranh lần những cuộc cách mạng đều không thể thay đổi được quy chế đó. Những nước tham chiến của tất cả các phe đều quá cần đến con kênh đó để cho tàu tiếp tế của họ cập bến của họ.

Nực cười nhất là người Anh và người Mỹ tung ra mọi lực lượng để làm cho kênh đào không bị đóng, thế mà rồi lại đấu đá nhau để cho đóng kênh đào lại. Họ vui lòng chịu những hậu quả tai hại về kinh tế còn hơn để Liên Xô mở con đường tiếp tế cho Việt Nam.

Socrate đã hiểu rằng kênh đào Suez từ nay sẽ thoát khỏi ảnh hưởng của người châu Âu, những người đã xây dựng nên nó. Hiểu thời cuộc nhanh hơn người là cơ sở của gia sản ông.

Vượt lên khỏi cuộc chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Mỹ, ông còn nhìn thấy xa hơn nữa, biết rất rõ rằng rồi đây, dầu lửa sẽ thuộc về những nước có nó trong lòng đất. Và mặc dầu là người Hy Lạp từ tâm can đến trí óc, về mặt kinh doanh, Socrate vẫn thấy mình là công dân của thế giới! Dưới con mắt ông, một người Do Thái, một người Ả Rập hay một người Thổ Nhĩ Kỳ chăng nữa đều chỉ có một giá trị của cái thị trường mà họ nắm trong tay. Với một phóng viên từng hỏi ông:

- Ông chuộng nước nào nhất?

Ông trả lời:

- Nước nào mà tôi có thể tránh thuế được nhiều nhất và kinh doanh ít bị hạn chế nhất! Tóm lại, một nước hiểu được ý nghĩa của kinh doanh!

Có điều, trong việc giúp đỡ hết mình tiểu vương Hadj Thami el-Sadek, ông đã đi quá xa, hơn cả lòng ông mong muốn, mặc dầu những món lợi tức khổng lồ mà đồng minh đó đem đến cho ông! Những công ty lớn đồng lòng với nhau kết án ông là phản bội - phản bội gì khi là chuyện tiền bạc?

Người Nga nghi ngại sức mạnh của ông, người Mỹ thề độc là phải khử ông, thằng anh đồng hao cũ và bà mẹ vợ của ông, Kallenberg và Médée Mikolofides ngáng cản chân ông, và tiểu vương Hadj Thami el-Sadek, người mà trước đây ông tưởng là hám lợi hơn mọi cái, thì nay tỏ ra rất nghiêm túc trong vai trò lãnh tụ chính trị của ông ta. Ở toàn bộ Trung Cận Đông, người ta mệnh danh cho ông ta là “Người hòa giải vĩ đại” - Người Ả Rập vốn sẵn những ví von đó! Than ôi! Tất cả những điều thấy trước được của Socrate thế là thành hình trong đầu vị tiểu vương đã tiếp nhận khẩu hiệu “Dầu lửa của người Ả Rập thuộc về người Ả Rập!”. Khốn thay, để thực hiện ý đồ đẹp đẽ đó, nhà vua lại không hề làm theo cái cách Socrate đã tính toán. Cuối cùng, con dê già hiểu ra rằng hắn có thể cúp cái vòi dầu lửa của châu Âu bằng một biện pháp rất đơn giản: ngừng việc khai thác các giếng dầu cho đến lúc nguyên thủ quốc gia các nước phải van nài hắn tha cho. Dầu lửa đâu vẫn còn đấy, nó có bay đi đâu! Trong thời gian đó, tiêu thụ hết các kho dầu tích trữ của họ, người phương Tây sẽ thè lưỡi ra mà đẩy cho các xe của họ chạy và máy bay của họ cất cánh. Trong cuộc chiến tranh sáu ngày vừa qua, người ta đã có được một khái niệm về hậu quả của việc ngừng sản xuất dầu lửa. Hàng triệu người đi xe ô-tô xếp hàng ở các trạm xăng, van nài người bán xăng bán cho họ, mỗi người vài lít theo giá chợ đen.

Còn vấn đề khai thác những mỏ dầu mới, ngoài biển Bắc hay ở Alaska chưa phải là việc mai mốt - nó sẽ làm cho “giá vàng đen” nhảy vọt lên một bước mới. Từ nay, el-Sadek không còn là một con chó sói cô đơn, cuồng tín và sợ sệt của buổi ban đầu nữa! Cả một đám ô hợp người Ả Rập có trình độ đại học, được đào luyện về những ngóc ngách, quanh co của công pháp quốc tế tại các chuyên khoa tốt nhất của châu Âu và Hoa Kỳ, đều hướng theo el-Sadek, đều lập luận rằng việc đầu tư vốn tốt nhất là để cho dầu lửa ngủ yên dưới cát, nơi không một ai có thể đến lấy nó đi được. Họ quả quyết rằng rồi đây, họ sẽ thành công trong việc loại trừ dứt khoát tất cả các công ty kếch xù từng khai thác các mỏ dầu trên đất nước họ dù các công ty này có muốn hay không! Hiện nay chương trình to tát ấy còn quá sớm, chưa phù hợp với Socrate: nếu những giếng dầu đóng lại, thì tàu của ông sẽ chở gì? Búp bê chắc! Ở đây đã đến cái bước đồng tiền không còn quan trọng đến thế nữa. Fayçal của Ả Rập Xê-Út mỗi năm thu vào trung bình một tỉ đô-la của các công ty nộp với hình thức tô. Những đồng cấp của ông, các tiểu vương của Ả Rập Xê-Út cũng hưởng gần bằng thế.

Khi họ đã bão hòa những chiếc xe Cadillac bằng vàng khối, và những chiếc Rolls-Royce chạy trên những con đường dài mười cây số không dẫn đến đâu, từ trong cát ra, chúng lại biến vào trong cát - Khi họ đã thừa mứa những lâu đài bằng hoa cương lát, những mảng ghép bằng vàng, bên trong đầy những cô tái tóc vàng béo tốt của phương Bắc, khi họ đã chất thành đống trong những hang của Ali-Baba hàng tấn, hàng tấn nén vàng thì có ngày họ sẽ chất ngạt bởi bản thân sự giàu có của họ, không thể tiêu nổi được nữa một phần trăm số họ thu vào.

Lúc đó, họ sẽ tiếp tục cái mà Socrate đã phác họa cho họ vài năm trước đâu, là xây dựng các trung đoàn trang bị bằng những vũ khí tối tân, tên lửa đất đối đất và máy bay oanh tạc mà Liên Xô sẽ vui lòng dạy cho họ lái. El-Sadek chỉ huy việc phối hợp hành động của phong trào giải phóng đó, sẽ lĩnh phần hoa hồng của ông, đánh vào sự thương lượng của cuộc trao đổi kinh tế khổng lồ đó: bây giờ điều đó không thỏa mãn ông nữa! Ông muốn phương Tây phải quỳ gối dưới chân ông, ông phân phối cho họ tùy sở thích ông, hoặc cắt nghiến toàn bộ dầu hỏa của họ nếu ông không bằng lòng.

Socrate lấy cặp kính ra, lau chúng cẩn thận. Cái đó không phải dễ. Kinh nghiệm đã dạy cho ông biết rằng những quan điểm triết học, chính trị, hay tư tưởng được người ta lựa chọn cuối cùng bao giờ cũng đều lệ thuộc vào thực tế kinh tế: một mặt, ông không muốn làm một điều gì trái ý el-Sadek. Ông đã hy sinh quá nhiều để được là bạn của el-Sadek.

Nhưng mặt khác, ông biết rõ ràng người Mỹ và người Âu, đang bất đắc dĩ phải nhất thời “ngậm trái bồ hòn”, đến ngày tính sổ, họ bắt buộc phải tung hê cái đó đi bằng những sắc lệnh của các nhà vua tí hon ở vịnh Persique. Như vậy, ông sẽ nhạt bớt với el-Sadek và sống hòa bình với các đồng minh tương lai của ông ở Hoa Thịnh Đốn. Ông thầy tiên tri đã căn dặn ông không được làm mạnh đột ngột một cái gì hết và phải tranh thủ những tình bạn trong hàng ngũ đối phương.

Không nên hy vọng Chính phủ Mỹ hiện thời rất đang cứng rắn, chĩa mũi dùi vào ông, lại mềm đi với ông. Trái lại, ông hy vọng rất nhiều vào cuộc bầu cử sắp đến - những cuộc bầu cử diễn ra nay mai - để xoay ngược tình hình thành ra có lợi cho ông! Ông đã bỏ ra rất nhiều tiền cho các ứng cử viên có cơ trúng cử, biết rằng một khi một người trong họ chạy đến đích thì người đó sẽ vất trở lại chiếc thang cho ông leo lên. Nói theo thuật ngữ kinh doanh, những tỉ đô-la quăng ra cho những người không quen biết - hay là hầu như không quen biết - được gọi là khoản đầu tư lâu dài. Người ông quen biết nhất trong những người ra ứng cử là Scott Baltimore. Nghịch lý thay, đó lại là người ông sợ được trúng cử nhất. Những thăm dò cuối cùng đã coi anh là một con ngựa có thể được giải bất ngờ nghiêm chỉnh nhất. Scott là một người thẳng tính, lặng lẽ. Anh nhận cái mà người ta nhét vào túi anh, nhưng không hứa hẹn một điều gì cả. Không nên đợi chờ một sự giúp đỡ ở phía anh, nếu việc đó làm phiền đến chính trị của anh hoặc đảo lộn những nguyên tắc của anh. Socrate rất phục tính bướng bỉnh, nghị lực rất lớn, sức làm việc, khả năng dám có những quyết định nảy lửa của anh. Một người cầm đầu thật sự. Nhưng làm thế nào tháo tung được một người cầm đầu? Hơn nữa, Socrate đánh hơi thấy anh ta không ưa gì ông. Tình bạn của Peggy đối với ông chắc chắn có liên quan đến tâm trạng đó. Người ta có thể là một thiên tài, nhưng không vì vậy mà thoát khỏi ghen tuông. Nếu anh ta trúng cử, anh ta sẽ trở thành một đồng minh hay một kẻ thù? Thật khó mà đoán trước được.

Với el-Sadek, có dễ hơn. Socrate đã có trong tay vũ khí tuyệt đối có thể kéo cổ lão trở về những lập trường yêu nước nhất của lão được. Đó là cuốn phim tuyệt vời trong đó lão vô tình làm diễn viên chính, cách đây mười năm. Dẫu sao, Socrate vẫn yêu chuộng điều đình hơn là chiến tranh, ông chỉ sử dụng cuốn phim đó trong trường hợp cực kỳ nguy hiểm mà thôi. Ngang tầm mắt ông, một ngọn đèn đỏ nhấp nháy. Chiếc máy bay của ông sắp hạ cánh. Socrate thắt dây an toàn lại, và nhìn xuống bên dưới. Đàng xa kia, trên đường chân trời, nơi biển chấm hết, vô số những ngọn lửa phụt lên thẳng tắp, những giếng dầu lửa đang cháy rực bầu trời suốt ngày đêm. Vượt qua tấm màn lửa ấy, ông sẽ thấy con đường nhỏ, mà ở cuối đường như thường lệ, có chiếc Rolls của Nhà Hòa giải vĩ đại chờ ông.

Tám hôm trước ngày bầu cử, số phiếu của Scott tụt xuống, mà người ta không thể tìm ra lý do và chiều hướng. Tình yêu hay lòng thù ghét, như gió xoáy theo những chiều hướng không thể lường trước được. Trong giai đoạn đầu, Scott và những người cổ vũ cho anh ta đã nổi lên thành những con ngựa có thể giật giải của hai đảng nhiều cử tri nhất. Suốt cả một chiến dịch tàn nhẫn tiến hành dữ dội hàng nhiều tháng đó, dư luận quần chúng tưởng đã tìm ra được tiếng nói của mình, đã có thể hóa thân vào chàng trai cao lớn cuồng nhiệt mà những bài diễn văn như thể thổi cháy bùng trí tưởng tượng của người nghe. Lòng tin yêu đã hướng đến với Scott. Đến hơi quá nhanh! Từ nay những cố vấn của anh tự hỏi làm thế nào để duy trì được nó ở mức cao nhất, cho đến ngày những lá phiếu của cử tri chồng chất lên nhau trong hòm phiếu? Mười lăm ngày trước đây, kết quả đã xem như nằm trong túi rồi! Scott đã được bầu cả hai tay, hiện nay anh vẫn là người được chuộng nhất. Nhưng, đúng thế, những kẻ đối địch với anh đã hồi sức lại. Pust Belidjan ngày đêm húc vào vấn đề hóc búa này. Ông nói:

- Phải tìm ra một cái gì...

Belidjan là bộ óc của công ty não. Khi không ai có thể nghĩ ra điều gì nữa, thì ông nghĩ hộ cho người khác. Và khi ông ngừng suy nghĩ thì lúc đó, ông tìm ra những ý hay nhất của ông. Ông có thể đọc thuộc lòng con số cử tri của từng bang, ông nắm vững đến từng chi tiết hồ sơ lý lịch của tất cả các thượng nghị sĩ từ các ngày đầu của Hiến pháp Hoa Kỳ, gây dựng và phá hoại, lắm kẻ mẫu mực cho những nguyên thủ quốc gia, lật ngược một chính kiến như người ta lộn trái một chiếc găng tay! Scott đã kéo ông ra khỏi một trung tâm thăm dò về chính trị, ở đó ông lừng khừng đi trước những người điều tra tình hình trong kết luận và trong những câu trả lời của máy tính điện tử! Từ trước đến nay, chưa bao giờ ông được chăm sóc một con ngựa hay như chàng thanh niên Scott này. Thế nhưng ông vẫn nghi ngờ cái chức Tổng thống Hoa Kỳ quá đẹp! Cách ngày bầu cử hai mươi hôm, chưa có gì đối với ông là chắc chắn cả! Cái tài đánh hơi của ông cũng không làm cho ông yên tâm được: quá dính líu đến thắng lợi của Scott, ông khó có thể nhìn từ xa và có khái niệm về sự tương đối:

- Các cậu cứ nghĩ đi. Tớ thì tớ xả hơi một lát!

Hai chân đặt lên mặt bàn ngổn ngang những giấy tờ nhàu nát, ông nhắm nghiền mắt lại. Điều đó cũng không ngăn cản được ông cầm một chai bia rót vào cốc. Những người cộng tác với ông ngẩn ra xem, chờ ông đổ rượu ra ngoài cốc: chẳng hề một giọt nào! Họ tất cả là sáu người mặt hốc hác, mắt đỏ ngầu, cổ sơ-mi trắng mở rộng dưới những chiếc cà vạt, vặn xoắn như mở nút chai. Đã từ bao tuần lễ nay, trung bình mỗi đêm họ chỉ ngủ có ba tiếng, ở bất cứ chỗ nào có thể ngủ được, trong phòng đợi nhà ga, trong phòng khách sạn những vùng hẻo lánh, nằm vật xuống giường chẳng bỏ cả chăn ra, cạo râu trên ô-tô, tàu hỏa hay máy bay, đứng vững được nhờ những liều thuốc amphetamine, và những tách cà phê đen, tất cả họ đều đeo đuổi một mục đích chung: đưa Scott lên nắm chính quyền.

Khi sự im lặng đã kéo quá dài, Pust thét to lên:

- Thế nào? Các cậu đã ngáy cả rồi hay sao?

Quá mệt mỏi, Scott để mặc cho người ta dẫn ông sang phòng bên. Tối nay, ông phải thắng một cuộc khác, ông phải xuất hiện là người có sức chinh phục, không ai cưỡng lại được sức hẫp dẫn của ông... Tối nay...

- Tớ, tớ sẽ nói với các cậu rằng chúng ta sẽ mất tất! - Pust nói.

Trendy, người lớn tuổi nhất đám bẻ lại:

- Thế cậu, cậu muốn làm gì tốt hơn nào?

- Tớ không biết! Các cậu tự gỡ lấy với nhau.

- Anh ta đã hứa hẹn tất cả rồi mà!

- Tớ mắc kẹt! Các cậu tìm cái khác đi. Tớ muốn là một ý mới toanh, vừa chín tới, các cậu hiểu chưa? Tớ thì tớ có một ý...

Tất cả các bộ mặt cùng một lúc đều quay lại phía ông. Như một diễn viên kịch tài tình, Pust lỉnh ngay:

- Không! Không đến nỗi là khó chống đỡ nhưng mà quá liều lĩnh. Vả lại, nếu biết, Scott có thể sẽ từ chối cái mẹo này.

- Nói đi! Gì vậy?

Pust không trả lời trực tiếp vào câu hỏi:

- Đám Đảng Dân chủ làm tớ khó chịu. Trật tự và luật pháp chúng nói như vậy cho người ta yên tâm! Nếu chúng ta thất bại, cũng vì họ. Những cử tri khác không làm cho tớ lo ngại. Chúng ta đã nịnh tán người da đen nhiều lắm rồi nên sẽ không được một phiếu nào của cử tri Đảng Dân chủ đâu! Tự do! Đồng ý, kêu lên như thế dễ thôi! Nhưng ai muốn tự do chứ? Chúng ta đã làm cho Đảng Dân chủ sợ co vòi lại, sự thật là thế!

- Hay cậu muốn chúng ta làm lùi. - Trendy bẻ lại, vẻ ngờ vực.

- Chỉ còn cách mục tiêu hai chục ngày nữa ư? Không! Lùi lại là ngu xuẩn. Quá chậm rồi. Nhưng chúng ta có thể gây ra một vụ gì đó! Bởi vì chúng ta đã đi quá đà sang phe tả, bây giờ ta hãy làm một cú phóng tin vịt, nó sẽ kéo ta về ở giữa và đám trưởng giả sẽ cắn câu.

- Cậu hãy nói rõ ra!

- Ví dụ, chúng ta thử giả thiết là tám ngày trước cuộc bầu cử, Scott bị ám sát... Con khỉ các cậu! Tớ đã nói là giả thiết mà! Không phải mắt công trợn tròn con mắt lên nhìn tớ như thế... Chúng ta giả thiết là tay ám sát Scott là một tên được xem như là ở trong cánh tả... và hắn thú nhận... Các cậu có nghĩ rằng những cái mặt l... thuộc cánh giữa và cánh hữu liệu còn do dự khi bầu cho Scott vì cái cớ Scott quá tự do nữa không?

- Khoan, cậu nói lại đi. Đừng nói nhanh quá!

- Cậu điếc hay sao? Muốn kéo lấy những lá phiếu của cánh tả, chúng ta đã công khai đánh đĩ với cánh tả đến hết hơi rồi! Được rồi! Cái đó không vừa lòng một số cử tri và dội một gáo nước lạnh vào một số cử tri khác. Nếu một tên cánh tả định hạ Scott thì những con người hiền lành kia sẽ có cảm tưởng việc Scott trúng cử sẽ đe dọa cánh tả: Các cậu xực ra chưa?

- Ý của cậu hoàn toàn ngu xuẩn... - Trendy trả lời - Tất cả việc cậu làm cũng chẳng qua chỉ để đẩy cuộc tranh cử của chúng ta từ phe này sang phe khác mà thôi! Nếu một tên cánh tả xơi tái Scott, có thể ta giành giật được một số phiếu ở phía bên kia thật, nhưng chúng ta sẽ mất đi từng ấy phiếu tương đương trong cánh tả, thành ra việc đó chẳng giúp gì hết!

- Có chứ! - Bosteld trả lời một cách mỉa mai. Bosteld là nhà phân tâm học trong nhóm, phụ trách nghiên cứu những động cơ tập thể thúc đẩy các đám đông hành động. Bosteld tiếp:

- Ngay sau khi Scott chết đi, người ta sẽ có thể giải tán các công ty não của anh ta, nhờ dịp ấy chúng ta đi ngủ!

Pust lắc đầu một cách chán nản:

- Các cậu chẳng hiểu một tí gì trong đó cả! Với những cử tri sẵn sàng dồn phiếu cho ta thì chẳng có gì phải bàn nữa! Tôi nhắc lại với các cậu rằng cuộc bầu cử này chỉ trông cậy vào những cái khác nhau chút xíu thôi mà thắng hay bại đấy! Các cậu quên rằng quần chúng hay thích những nạn nhân, những anh hùng, những kẻ tử vì đạo ư? Nếu vài ngày trước giờ G, chúng ta đem lại cho Scott một vòng hào quang, thì kết quả xem như đã bỏ vào túi. Cái cần cho quần chúng là rung cảm lớn!

Bosteld ngập ngừng:

- Thật ra là...

Anh là một trong những cố vấn chính trị hiếm hoi không nói tới những cái trừu tượng như “tả” hay “hữu” khi mà chưa hiểu rõ ý nghĩa sâu xa của chúng. Từ đầu chiến dịch bầu cử, anh nhẫn nại cắt nghĩa cho bạn bè anh là “chính trị” và “cảnh sát” đều cùng một gốc chữ Hy Lạp “polis” là thành phố. Vậy là chính trị là nghệ thuật quản lý và cai trị một thành phố, một nước với sự giúp đỡ của cảnh sát. Người ta đã ngán ớn mà nhìn anh chằm chằm: sao anh lại dám nói với họ những điều dĩ nhiên ấy? Không một chút lúng túng, Bosteld tiếp tục dẫn giải:

- Nếu tôi bắt đầu bằng những cái sơ đẳng như thế là để cầm chắc các am hiểu được những điều về sau.

- Chúng tôi không thuê một nhà phân tâm học để dạy chúng tôi trong một địa hạt mà chúng tôi sành hơn hắn ta! Anh chỉ cần biết cái gì làm thay đổi được dư luận quần chúng và dễ cho chúng tôi làm những việc còn lại... - Trendy đã phản đối như vậy.

Bosteld chặn lại bằng một nụ cười:

- Chính thế! Tôi sắp đến điểm ấy đấy! Đã bợm như vậy thì anh thử cắt nghĩa cho tôi nghe sự khác nhau về “tả” và “hữu” xem nào.

Trendy nhìn các bạn như để làm chứng là có một tên lạc hậu đã hỏi một câu quá trẻ con như thế:

- Không! Trendy ạ! Tôi hỏi rất nghiêm túc đấy! Hãy trả lời tôi đi!

- Tất cả mọi người đều biết rằng cánh tả là hệ thống xã hội chủ nghĩa hay cộng sản, chống lại một hệ thống tư bản chủ nghĩa, phản động hay phát xít. Rút cục nói tóm lại...

- Tôi không hỏi những anh hệ thống đó là gì. Tôi chỉ hỏi anh tại sao người ta lại dùng những chữ “tả” và “hữu” để định nghĩa cho hệ thống ấy?

Trendy nổi cáu hỏi lại:

- Cái đó thì thay đổi cái gì nào?

Bosteld trả lời một cách dịu dàng:

- Tất cả!... Anh vừa mới hỏi tôi cái gì làm cho dư luận quần chúng thay đổi đó phải không?

Hôm đó, Scott ngồi chủ tọa cuộc tranh cãi. Anh hiểu Bosteld quá nên không hề nghĩ là hắn đã làm mất thì giờ của nhóm. Anh tò mò ngồi đợi cuộc tranh cãi tiếp tục không hề phật ý khi thấy Trendy, con cáo già đang bị lúng túng bởi một anh trí thức ngang tuổi con ông. Anh nói với nhà phân tâm học, giọng vui vẻ:

- Nào! Cho ra đi!

- Người ta rất lầm khi tưởng tượng rằng trong chính trị là hai hệ thống chính quyền đối chọi nhau! Nhưng đâu không phải là vấn đề ý thức hệ. Trên bề mặt và ở bề ngoài, có thể là như thế. Còn bề sâu thì không. Đây là vấn đề tình cảm.

Trendy bực dọc kêu lên:

- Nói rõ ra nào!

Bosteld nhìn ông một cách hóm hỉnh:

- Trendy! Anh yêu ai hơn, bố anh hay mẹ anh?

- Hai cái xác rữa ấy ư? Chúng hãy ở với quỷ!

Mọi người cười ầm lên. Bosteld không phật ý, cũng cười theo. Anh hỏi tiếp:

- Và anh, Scott, bố hay mẹ?

Scott không muốn người ta đem mình ra làm vật chứng minh dẫn giải. Scott tránh đòn một cách khôn khéo:

- Tôi chỉ trả lời khi có mặt người trạng sư của tôi. Cậu hãy hỏi John xem!

- Vậy thì John?

- Bố mình ngày xưa là một tên say bí tỉ. Mình yêu mẹ mình một ngàn lần hơn.

- Từ đó tôi kết luận anh là một người của cánh tả.

- Thế à? Vì sao vậy?

- Bởi vì trong phân tâm học, có một biểu tượng cơ sở, từ đó dẫn đến phần lớn những lựa chọn trong tương lai của chúng ta. Tả là người đàn bà, là mẹ. Hữu là người đàn ông, là bố.

- Vậy thì có liên gì?

- Nếu anh yêu mẹ anh hơn, anh chống lại bố anh, nghĩa là chống lại trật tự đã an bài, luật pháp, quy tắc mà sức mạnh của giống đực đã áp đặt cho anh.

- Anh định tìm tòi ra những thứ gì vậy?

- Về cánh hữu thì trái lại. Vì họ yêu bố hơn có lẽ vì họ sợ bố cho nên họ đi đôi giày của bố, họ chọn theo trật tự và họ chịu luật pháp của bố.

Scott lẩm bẩm:

- Không đến nỗi nghệt lắm!

Trendy nhún vai:

- Nếu cậu nghĩ rằng những trò chơi vốn có của cậu lại làm cho chúng ta nhích được lên!

Nhưng từ ngày đó, ông già không còn dám đụng tới anh nữa! Cho nên ông cũng không ngắt ngang lời của Bosteld khi anh có vẻ tán thành Belidjan.

Nhà phân tâm học hỏi tiếp:

- Pust! Anh nhìn việc ấy như thế nào?

- Rất giản đơn! Chúng ta làm giả một vụ ám sát, anh dân hiền lành la ó lên vì ghê tởm và căm phẫn, sẽ biếu cho ta những lá phiếu ngon lành và đáng lẽ họ đi bỏ vào nơi khác!

- Và Scott, có nên nói với anh ta không?

- Các cậu điên à? Anh ta sẽ không bao giờ chịu đâu! Không, vì lợi ích của anh ta, phải làm chuyện đó sau lưng anh ta!

- Cậu đã nắm được người cần thiết trong việc này chưa?

- Có thể nhưng không nhanh quá được! Trước khi bàn xa hơn, tớ muốn biết chắc là tất cả chúng ta sẽ làm như một người. Trước hết tớ muốn các cậu thề độc rằng dù bất cứ chuyện gì xảy ra, không bao giờ có một ai trên trái đất nay được biết quyết định của chúng ta hôm nay, trong gian phòng này. Không một lời hở hang nào!

- Và về sau có thể cho Scott biết không? Có thể không?

- Nhất là đối với anh ta, chỉ bảy người chúng ta thế thôi! Đồng ý không, hay cứt! Tớ không đùa đâu!

Họ ngập ngừng một lát rồi cuối cùng, họ đều theo ý kiến của Belidjan: mục đích cần có phương tiện. Họ đã long trọng thề với nhau. Sau đó, Pust cung cấp những tên người và họ đã cùng nhau sắp xếp công việc đến tận chi tiết. Họ chỉ còn có mười ngày nữa để thực hiện ý đồ của họ. Scott trúng cử hay không là tùy thuộc vào sự thành công của ý đồ đó.

Trong lúc ấy, nạn nhân giả của tương lai đang ngủ một giấc ngon lành trong phòng bên cạnh.

Peggy giận dữ siết chặt ống nói. Mặc dù đã cố gắng trong nửa tiếng đồng hồ, cô vẫn không gọi được khách sạn Missouri, nơi mà cô đoán Scott đang trọ ở đó. Không phải vì cô có điều cần thiết và gấp gáp để nói với anh, mà chỉ vì muốn biết chắc là anh đang ở cái nơi mà anh cần phải ở. Trong một tiếng đồng hồ nữa, Peggy có cuộc hẹn hò với người tình mới nhất trong đám người tình của cô. Đó là một tùy viên trẻ tuổi trong Đại sứ quán Pháp. Anh chàng này hai mươi tám tuổi tên là Pierre, và khi anh chàng mỉm cười người ta có cảm giác răng của anh đều là giả vì chúng rất đẹp. Họ đã gặp nhau trong một cuộc đón tiếp mà Peggy đến đó chỉ với mục đích để cho người ta khâm phục chiếc áo dài cô mới nhận được ngay chính hôm đó từ Paris gửi sang. Khi đi gần bên một nhóm đàn ông, trong đó có Pierre, người thiếu phụ nghe được mấy chữ bằng tiếng Anh “Hôn kiểu Pháp” và cô ta đã không ngăn được tỏ ra thú vị. Rất xấc xược, Pierre đã đến đứng trước mặt cô ta:

- Câu “Hôn kiểu Pháp” làm chị mỉm cười phải không? Chị biết hả?

Câu hỏi nguy hiểm! Hiểu theo cách này cũng được, theo cách kia cũng được.

- Ông tưởng rằng cần thiết phải là người Pháp mới biết được ư?

Bắt đầu từ những cơ sở nảy lửa như thế, câu chuyện chỉ có thể đưa đến những kết quả ngựa phi mà thôi. Trong thực tế, nó đã được tiếp tục ngay ngày hôm sau, trên một chiếc giường ngủ. Pierre thầm hỏi làm sao một người đàn bà cỡ thế lại có thể tự thả cơ dễ dàng như thế được, trong khi chồng của cô ta đang là đứa con cưng của tất cả Hoa Kỳ? Bí mật!

Anh chàng có nghe người ta nói rằng đôi vợ chồng nổi tiếng ấy đang trên đà tan vỡ, rằng mỗi người sống riêng một phận.

Sau ngày cưới, Peggy đã trung thành với Scott suốt một năm ròng. Say sưa bởi thế lực hùng mạnh của chồng, cô phải mất một thời gian mới nhận ra rằng, song song với việc leo cao của chồng, cô chỉ là một “quy ước” mà thôi: một chính khách tương lai phải đáp ứng với một số tiêu chuẩn