Chương 33
Socrate ở trong phòng làm việc. Một mình. Ông đi đi lại lại, nói to lên về phía hai chiếc ghế bành lớn bằng da kê ở trước bàn giấy ông. Đôi khi tay phải ông thọc vào trong túi quần, nắm lấy tập giấy bạc. Ông hùng biện lưu loát, khẳng định, chứng minh, châm biếm. Ông điểm cho bài diễn văn của ông bằng những quả đấm hùng hổ nện vào những đồ vật nằm trong tầm với của ông. Nhưng không có một ai trong những chiếc ghế bành cả. Socrate tập dượt. Mỗi lần sắp sửa chơi một canh bạc, ông đều lường trước mọi khả năng và cao giọng nhái cái cảnh sắp diễn ra với những người đối thoại vắng mặt. Ông đóng vai trò của họ, tự tiến công và tự bảo vệ trong những câu hỏi bắn chéo cánh sẻ lần lượt được ông tìm ra giải đáp. Bây giờ ông đã nói hết ý rồi, những người đối thoại vô hình của ông đã bị thuyết phục rồi, ông bèn cầm máy nói nội bộ lên:
- Achille! Bố chờ con và Maria ở buồng làm việc của bố.
Ông ra chỗ ngồi, lấy hai tay ôm đầu và tập trung tinh thần suy nghĩ. Hai đứa anh em sinh đôi bước vào, Achille, mặc áo pun bằng da dê và quần xanh, giống như một sinh viên ngoan ngoãn. Giữa hai lông mày anh có một đường hằn cố chấp nằm chắn ngang. Maria thì mặc váy ngắn đánh quần vợt, áo sơ-mi trắng, giày và tất trắng.
- Các con ngồi xuống!
Maria buông mình xuống một chiếc ghế bành. Achille ngồi lên tay vịn chiếc ghế đó. Trong khi đó, Socrate quên béng mất lời mào đầu ngẫu hứng khá là hay ho của ông. Mỗi khi gặp chuyện liên quan đến tình cảm của ông, ông đều lúng túng hậu đậu. Không sai bao giờ: ông không còn biết vào đề như thế nào nữa lúc này. Ông nói:
- Bố có một cái tin lớn cần báo cho các con.
Achille và Maria mặt vẫn như không. Socrate nói tiếp.
- Đã nhiều lần, đúng hay sai, các con đã tưởng rằng các con cần phải can thiệp vào đời sống riêng của bố. Các con đã có cách cư xử đáng ghét đối với một người đàn bà mà bố yêu và luôn luôn tử tế với các con.
Ông đưa mắt dò hỏi hai anh em sinh đôi. Chúng vẫn không tỏ một thái độ gì.
- Vì các con, bố đã cắt đứt với Olympe. Nhân đây, bố phải khen phục lòng kiên nhẫn của bà ta đối với các con. Hôm nay bố có một tin quan trọng cần nói với các con... Bố sẽ lấy vợ. Và lần này, các con không thể nào không đồng ý được.
Achille và Maria nhìn bố như muốn nuốt lấy. Ông có vẻ hoan hỉ. Maria là người đầu tiên nhận ra. Cô ôm choàng lấy cổ ông:
- Ôi bố! Thật kỳ diệu! Bố sắp lấy mẹ!
Achille nhảy quẫng lên:
- Hoan hô! Hu-ra! Bố ghê gớm thật!
Anh cũng nhảy vào, ông bố đang cố gạt hai anh em ra. Ông cảm thấy ông sắp làm cho chúng thất vọng lắm, đến nỗi ông không dám nói gì với chúng nữa. Mặt nghiêm lại, ông nói toạc:
- Ai bảo các con là mẹ?... Bố sắp lấy Peggy Baltimore!
Đấy, thế là phóng ra rồi, muốn ra sao thì ra!
Lập tức hai anh em sinh đôi rời ông ra như thể ông là bệnh dịch hạch vậy.
Achille kinh hãi nhìn ông. Mắt Maria ướt đẫm. Cô nói:
- Ai cơ? Bố nói lại!
Socrate ngó ngoáy:
- Peggy Baltimore! Các con nghĩ xem trên đời này còn ai hơn được bà ta không?
Achille làm ra vẻ không nghe thấy gì hết. Tất cả cái chuyện này không còn làm anh bận tâm nữa:
- Đi chứ, Maria! Anh sẽ đánh với em một xét quần vợt.
Socrate tức đỏ mặt lên:
- Thôi cho đủ nhé! Các con không phải dạy bố sống! Bà ta là số một! Số một!
Nhưng hai anh em sinh đôi đã ra khỏi gian phòng.
Đúng lúc chiếc Boeing đến điểm cố định của nó để cất cánh thì ông trưởng đoàn thi hành nhận được bức điện: “Lệnh của công ty... quay lại nơi đậu xuất phát và cho hành khách trở xuống đất”.
Ông cảm thấy đằng sau lưng mình sức đẩy ghê gớm của hàng nghìn sức ngựa đang sắp đứt ra khỏi mặt đất chiếc Boeing nặng những một trăm ba chục tấn của ông. Ông chỉ việc buông cái nút bấm nho nhỏ là đủ cho những cỗ máy phản lực xổ tung ra tất cả sức mạnh của chúng. Ông cầm lấy mi-crô:
- Chỉ huy trưởng gọi đài kiểm soát... Xin nhắc lại...
- Hãy quay về chỗ đậu xuất phát... Cho hành khách xuống đất...
- O.K... Rõ...
Ông nhấc một lông mày lên về phía người cùng lái:
- Cục cứt! Chắc lại có một quả bom trên máy bay! Ta không bay nữa các cậu ạ!
- Cậu có muốn tớ báo với các cô phục vụ không?
- Chưa báo vội!
Trên chuyên máy bay thường kỳ này, có một trăm ba chục hành khách từ New York đi Athènes thẳng một lèo. Điện đài lại cất tiếng:
- Vào đường bay số sáu, đến chỗ đậu số mười một, đỗ ở đó, tắt máy, ở lại tại buồng lái và chờ lệnh. Nói đi!
- Rõ.
- Bob, cậu bảo Lily báo cho hành khách biết đi!
- Cô ta nói với họ thế nào?
- Không biết! Tớ cóc cần. Nói gì cũng được.
Được biết tin, Lily thông báo bằng cái giọng ấm áp của chị:
- Thưa quý bà, thưa quý ông!... Một sự cố kỹ thuật buộc chúng ta phải quay lại điểm xuất phát. Việc cất cánh sẽ chậm lại một chút xíu. Xin quý bà, quý ông hãy cầm sẵn hành lý chờ công ty hàng không Hy Lạp lấy một chiếc máy bay mới hầu quý bà, quý ông. Cám ơn!
Hành khách ngạc nhiên nhìn nhau trong khi chiếc Boeing quay vòng trở lại để đến một chỗ đậu. Một số người phản đối. Lily nói thêm:
- Thưa quý bà, quý ông đừng cởi thắt lưng an toàn trước khi máy bay đỗ hẳn. Cám ơn!
Chị quá bối rối, không nghĩ đến cả nói câu công thức nghi lễ. Chị nhào vào buồng lái:
- Tại sao lại cho hành khách xuống?
Hiệu thính viên nhún vai như chịu thua số phận:
- Nếu mà lại biết được nữa...
Chỉ huy trưởng tắt máy. Chiếc Boeing mửa ở bụng và đuôi ra cái tải trọng người của nó đang được những chiếc xe ca đón ở đường băng. Những người mặc quần áo thợ có dấu công ty G.A.L [1] ở lưng chuyển hành lý từ khoang máy bay sang một đoàn xe chở hàng. Khi tất cả đã biến đi, chỉ huy trưởng nhận được một bức điện mới:
- Đài kiểm soát gởi G.A.L. 112... Cho nổ máy. Cất cánh sau mười phút, nơi đến như cũ... Nói đi...
- G.A.L. 112 gởi đài kiểm soát. Nhận rõ lệnh.
- Họ điên hay sao? - Lily hỏi.
Đáp lại câu hỏi của chị, chị thấy lớn dần ra ba chiếc xe hơi ở trên đường băng. Chúng lao thẳng đến chiếc máy bay rồi phanh rít lên, đỗ lại ở dưới cánh.
- Ai thế? - Một người phục vụ hỏi.
- Muốn gì cũng không phải hành khách bố lếu rồi! Hành khách đang bực điên lên kia. Có hai người nói là sẽ kiện...
- Pat, một phục vụ viên khác, thì thào. Chị mở to mắt để đặt một cái tên cho cái hình thù xinh đẹp của người đàn bà đang xăm xăm leo lên cầu thang, mỗi tay dắt một đứa bé kia:
- À kìa, Peggy Baltimore!
Đi thoăn thoắt ở sau Peggy là mẹ cô ta, bà Beckintosh và Nut. Rồi hai bảo mẫu và một chị quản gia. Bốn vệ sĩ khỉ đột đi sau rốt, hình như đóng khung cho một người cao gầy có lẽ là một viên thư ký. Số lượng va-li của họ thì kinh khủng! Gần bằng của một trăm ba chục hành khách bình thường.
Điện đài lại nói:
- Trông nom hành khách của các anh chị như chưa từng trông nom ai như thế bao giờ. Lệnh của công ty. Nói đi!
- Nhận rõ lệnh! - Chỉ huy trưởng máy bay càu nhàu.
- Đi may mắn?
Ông cắt mi-crô của ông rồi cho chiếc Boeing lăn tới điểm cố định:
- Nhanh lên! Không, nhỡ họ lại quên mất con chó của họ thì khốn...
- Ngày mai ông ta lấy bà ta đấy mà!
- Kệ xác họ! Thế này thì quảng cáo rất hay cho công ty đấy!
- Chà!... Dính quái gì đến chúng mình? Dẫu sao công ty là thuộc về lão Hy Lạp cơ mà...
Pat chuẩn bị các khay ăn, trứng cá ca-vi-a và sâm banh Dom Pérignon...
- A! Không phải là vì tôi mà một người cho cả một trăm ba chục hành khách xuống đất để lấy chỗ cho tôi! Đẹp thật đấy, tình yêu!
Tiếng chị bị tiếng máy bay phản lực rít lên che lấp. Chiếc máy bay chồm cưỡng lại rồi rung rung trước khi lao vọt lên trời.
Sáng hôm sau làm lễ cưới, đảo Rắn giống như một pháo đài. Từ ngày Menelas bị con rắn làm cho hoảng hồn đến giờ, hòn đảo đã thay đổi rất nhiều! Một đạo quân những người trồng hoa, kỹ sư nông nghiệp, nhà tạo phong cảnh và kiến trúc sư đảo lộn hoàn toàn hòn đảo. Tất cả phần phía Tây, nơi dựng lên những ngôi nhà, đã trở thành một thảm cỏ trồng hoa, điểm lốm đốm những cây chanh, cây cam, cây ô liu và cây khinh diệp được chở đến hàng tàu một. Trong nhiều tháng các máy ủi đã làm bật tung đi các mỏm đá và san phẳng tất cả, rồi người ta phủ lên trên đó hàng nghìn tấn đất màu. Rải rác đây đó người ta đã đào những bể chứa khổng lồ và mỗi tuần một lần các chuyến tàu lại đến đổ đầy nước ngọt vào. Mặc dù các nhà địa chất học và các nhà nghiên cứu nguồn nước hợp sức với nhau, người ta vẫn không tìm ra được một hột nước nào. Nhưng suốt ngày, những tia nước vẫn lắc quay trong một luồng hơi nước tươi mát và óng ánh màu sắc cầu vồng và bể bơi thì được một dòng thác thực sự cung cấp nước cho. Trước khi các thợ xây nền bắt đầu thi công, những máy bay chở hàng đã rắc xuống đảo vô thiên lủng thuốc diệt chuột và thuốc trừ sâu, nhiều đến mức bây giờ không sao tìm ra nổi một con muỗi, con bò cạp, hay con nhện nào.
Duy chỉ còn có vài tổ kiến là được hai trăm người tha chết, hai trăm người đó thường trực trông coi cho sự hoàn chỉnh của thiên đường này: người làm vườn, xà ích có sáu con ngựa thuần chủng để cưỡi đi chơi - người tẩm quất, thợ làm đầu tóc, nhà bếp, người coi máy hói, đầu bếp, thư ký, phiên dịch, người coi quầy rượu, người nuôi ngựa, hầu phòng, chị quản gia, nữ y tá, tài vụ, thầy dạy bơi, giáo sư thể dục thể thao, chuyên gia rượu; không nên quên một kíp ba chuyên gia pháo hoa nữa - Socrate vốn nghiện pháo hoa.
Thường kỳ, bất cứ có hội hè nào người ta lại điều một dàn nhạc từ Paris hay từ Roma tới, một chiếc chuyên cơ đi đến tận nơi dàn nhạc đang ở mà đón về bên trên cái dốc thoai thoải buông trượt vào trong mặt biển xanh lục và trong leo lẻo, là ngôi nhà của vị chủ, một kỳ quan về xây dựng theo kiểu Hy Lạp. Satrapoulos cuối cùng đã ngã theo luận điểm của các kiến trúc sư và chính các con ông, trái với ý ông, họ không muốn các cột trụ dorique mà ông đề nghị cho vào cái nền điện Parthénon thu nhỏ bằng đá hoa cương. Phần còn lại hòn đảo thì người ta vẫn bảo tồn vẻ hoang dại của nó, bách, thông có tán, tây hà liễu, long đờm, khổ ngãi. Khi Socrate ở trong phòng làm việc, ông có thể nhìn ra tứ phía đều thấy biển, cái biển đã làm nên cơ nghiệp của ông kia. Bên tay trái ông, chính nam, được chắn gió thổi vào mùa rét và tháng Tám là bến cảng có thể tiếp nhận được những tàu có sức trọng tải lớn. Một chục du thuyền đỗ ở đấy. Trên một nền đất hình tròn đổ bê-tông, là chỗ lên xuống của máy bay lên thẳng mà các gian nhà chứa chúng đã được khoét vào trong một mô đá. Và ở khắp nơi hàng nghìn con chim thả xổng hót líu lo suốt ngày, đêm thì có họa mi tiếp sức.
Trong một thửa đất đặc biệt nuôi gà, vịt, dê, công, nai, chó và mèo.
Tôn giáo đã được thực hiện dưới hình thức một ông linh mục sống trong một cánh cửa tòa nhà thờ chính giáo nho nhỏ, ở đầu một dãy cây bá tùng được một vị tăng viện trưởng cầu phúc và làm phép cho. Khi các nhà báo của toàn thế giới hay tin có cái địa đàng này, họ đã từ ngoài khơi đổ xô vào để chụp ảnh. Nhưng Socrate canh giữ. Lúc bình thường, không ai có thể lại gần mà không phải cho khám xét. Những đội thủy thủ biệt động, được huấn luyện để không trả lời những câu người ta hỏi họ, đi tuần cảnh giới ở trên những tốc hạm khá là mạnh có thể đuổi kịp một chiếc tuần dương hạm. Những tay nhà báo táo tợn nhất đã phải nản chí sau khi đã thử mọi phép, lấy lòng, hối lộ, đe dọa, ép nạt: không thể nào biết được thật sự những gì đang xảy ra ở trên đảo Rắn. Và những ai biết thì đều không nói bao giờ.
Hôm ấy, hôm hôn lễ, người ta tăng gấp đôi việc canh phòng trên đất và trên biển. Những thủy thủ mặc đồ trắng, dùi cui trong tay, đi sục hết vùng bờ biển từ sáng tinh mơ để xua đuổi những dân quấy rầy không ngại mặc cả bộ áo quần người nhái. Những nhà báo của tờ Life nhảy dù đêm xuống nhưng đã bị ngay một đội phó cảnh sát đi tuần đánh hơi thấy. Thủy thủ đã vất xuống biển hai tay phóng viên và đập nát trang bị của họ. Chính phủ Hy Lạp ra lệnh cho mọi máy bay, dân sự hay quân sự, của bất kỳ quốc tịch nào cũng đều không được bay qua đảo, qua biển trong một bán kính năm dặm. Hai máy bay khu trục và một máy bay lên thẳng của đội cảnh sát mặt biển trông nom việc thực hiện lệnh này.
Socrate vỗ ngực không để lọt qua mắt bất cứ cái gì, đã - chỉ quen có mỗi một điều: dành một máy bay cho Peggy tùy nghi sử dụng! Ông cảm thấy tóc trên đầu dựng ngược khi ông giám đốc công ty ông từ New York gọi dây nói báo cho ông biết tin thảm hại: Peggy và đoàn tùy tùng đã đến sân bay mà chưa có gì được sửa soạn để đón cô cả!
- Thưa ông, tôi phải làm gì bây giờ ạ?
- Trời, tìm ngay cho tôi một chiếc Boeing!
- Tôi đã cố rồi! Tất cả đều không bay!
- Thế máy bay thường kỳ của ta?
- Hôm nay chỉ có một chuyến. Hai phút nữa nó cất cánh.
- Giữ nó lại, đồ nhà thổ!
- Thưa ông, vâng. Nhưng nó đầy khách... Các hành khách thì tôi làm thế nào đây... ơ hơ... nếu có thể được...
- Cho họ xuống hết. Hết, ông nghe thấy không?
- Nhưng, thưa ông... khó đây...!
- Ông muốn giữ chức vụ ông không?
- Dĩ nhiên là muốn ạ...
- Vậy thì, nếu cần thì dùng súng phun lửa mà quét sạch chiếc Boeing chết dấp ấy đi, tôi cóc cần, mặc! Tôi lấy vợ, tôi ấy, ông hiểu không, đồ ngu! Thực hiện! Sau khi thu xếp xong lập tức lại gọi cho tôi!
Sau đó một lát, một cú dây nói đã làm cho yên tâm. Peggy đã bay đi rồi! Khi cô ta đến Athènes, Socrate đón cô ta, một bó hoa trong tay, nhút nhát như một cậu học sinh trung học. Ông đã chỉ thị cho người ta giấu giới báo chí trong vài hôm, nổ ra một trận la ó kịch liệt ở mọi nơi.
Một tờ báo Anh thậm chí đặt đầu đề cho bài xã luận ở trang nhất như sau:
PEGGY! BÀ KHÔNG XẤU HỔ Ư?
Các bài báo khác của tờ nhật báo cũng cùng giọng ấy, gây gổ, ác ý, cay chua, theo kiểu: “bà ta lấy một người có thể là bố của bà ta được” hay “thần tượng đã đi xuống bệ thờ” hay nữa “Bà vợ góa của Scott Baltimore đang làm nhục nước Mỹ”. Những câu nói ấy, có đến hàng trăm ở trong các tờ tạp chí của thế giới. Chỉ có vài ba tờ, nghĩ rằng dầu cho đám cưới này là công chuyện của người trong cuộc, họ không việc gì phải thưa gởi với ai hết. Peggy hôn vụng về lên hai má của Socrate:
- Em có thể giới thiệu mẹ với anh không?
Socrate tuy cùng tuổi với bà mẹ vợ tương lai, chợt thấy mình lùi lại đến mười tuổi. Ông không sao buông được bàn tay của Margaret Beckintosh đang nghiêm khắc soi rọi vào tận đáy tâm hồn ông. Cuối cùng, nhìn thẳng vào mắt ông, bà nói:
- Ông có thề với tôi là làm cho con tôi hạnh phúc không?
Cảm động một cách vớ vẩn, Socrate gật gật đầu nhiều lần trước khi nói:
- Vâng... tôi xin thề với bà!
Đến lượt bà hôn ông. Peggy đẩy hai con của cô ta ra đằng trước:
- Các con hôn Socrate đi!
Socrate cúi xuống thằng lớn đứng cứng nhắc như một cái gậy nhưng để cho ông hôn. Khi Socrate muốn nhắc lại việc đó với thằng bé thì nó khóc và rúc trốn vào chiếc váy cực ngắn của mẹ.
- Kìa, Christopher! Con làm sao thế?
Nhưng thằng bé bám riết lấy đùi Peggy, úp mặt vào hai tay khóc nức nở. Peggy cố làm cho nó nín:
- Con sẽ thấy con vừa đến đất nước đẹp nhất thế giới đấy! Con sẽ rất sung sướng!
Socrate thử bế lấy nó. Thằng bé nhảy nhót lên và gào to:
- Không! Không! Tôi không thích! Tôi không thích. Mẹ ơi!
Một cô bảo mẫu muốn xen vào, Socrate giơ tay ngăn cô lại. Peggy bĩu môi với ông, vẻ ngán ngẩm và nghịch ngợm. Socrate nói:
- Để cho tôi quen với cháu... Tôi yêu cháu lắm, rồi cuối cùng cháu sẽ nhìn tôi thôi...
Ở đầu cùng đường băng, hai chiếc máy bay lên thẳng chờ họ để đưa họ về đảo Rắn. Họ đi trong ba chiếc xe hơi đến đó, khi hai chiếc máy bay lên cao, các hành khách nhìn thấy được toàn cảnh sân bay: Nó đang bị một hàng rào cảnh sát bao bọc đẩy lui một đám người rất đông. Phía xa, người ta trông thấy biển. Peggy trìu mến nắm lấy tay Socrate và thì thầm với ông:
- Anh sẽ thấy... Em cũng sẽ làm cho anh hạnh phúc...
Buổi tối, sau bữa ăn gia đình, Socrate đưa Peggy đến phòng làm việc của ông. Hai người đang chờ họ ở đó: con lềnh đềnh dài ngoằng và gầy gò cùng đi với cô và một ông to béo thấp lùn đeo kính trắng. Con lềnh đềnh là cố vấn của Peggy, viên bi tròn thì bảo vệ lợi ích của Socrate. Dù mệt, viên bi và con lềnh đềnh đều đứng dậy đón tiếp cặp vợ chồng chưa cưới: từ hai tháng nay, mỗi người đều đã lao đao vất vả cùng với kíp luật gia quốc tế của mình để sửa cho thật chính xác bản hợp đồng hôn nhân kỳ lạ nhất, ngông ngược nhất xưa nay.
Tất cả đều được tính trước, thậm chí cả đến cái không thể lường được: chết chóc, tai nạn, tạm thời ly thân, ốm đau, việc học của các con, số lượng vệ sĩ, quốc tịch của các cô bảo mẫu, tiền tiêu pha vặt của người làm, mọi khả năng tật nguyền, điên, tàn phê - kể cả liệt dương - các dinh thự mà vợ chồng đến nghỉ hè và khi nào đến nghỉ hè, các giới hạn tự do của hai vợ chồng, các thầy thuốc cần khám xét trong trường hợp bị thương, tiền chi cho tẩm quất xoa bóp, săn sóc chân cẳng, thẩm mỹ hình thể, mỹ phẩm, giày dép, quần áo lót, tóm lại, chín mươi trang đánh máy không cách hàng và đầy chi chít những đoạn, những phụ chú, ghi chú, sửa đổi, ken xin xít như hàng song sắt cửa nhà tù. Trong một bảng đính kèm theo, trên những tờ riêng lẻ, gồm ba mươi trang, là của cải của từng người, vợ và chồng: Riêng của Socrate Satrapoulos là hai mươi tám trang, tượng trưng cho toàn bộ sở hữu mà một người, trở thành Thượng đế, có thể nắm giữ trong tay, dưới hình thức công ty, bất động sản vàng, tham góp vốn, trọng tải tàu chở dầu, ngân hàng, công ty hàng không, đất đai, tranh của các bậc thầy và các kho dầu. Thậm chí tính trước cả tiền điện, khí đốt, thuế, máy nói, vận chuyển, sưởi ấm, bảo dưỡng các dinh cơ khác nhau, không kể đến số lượng tem thư mỗi tháng Socrate chi cho Peggy là bao nhiêu.
Tóm lại thành 1.327 điểm cụ thể đề cập từ chiếc du thuyền đến đôi nịt bít tất.
Peggy không muốn đọc, nhưng Socrate nài quá thể, đến mức con lềnh đềnh phải lật giở cho cô các trang của bản hợp đồng, chỉ ngón tay vào những cái xem là chủ yếu, thí dụ, trong trường hợp chồng chết, Peggy sẽ được lĩnh một trăm năm chục triệu đô-la. Tiền trợ cấp hàng năm cho cô ghi thêm ở trên khoảng “tiêu vặt”, lên tới một triệu đô-la. Một đoạn khác: quyền tuyệt đối được mua ở ba nhà kim hoàn châu Âu, Paris, Luân Đôn, Athènes, tất cả những gì cô thích, nói cách khác là một tấm ngân phiếu khống chỉ khổng lồ dùng cho những sản phẩm đắt nhất trên đời, đồ nữ trang.
- Nếu bà vui lòng ký. - Viên bi nói.
Dưới dòng chữ “Đã xem và đồng ý”, Peggy áp chữ ký dứt khoát và con trẻ của cô ta vào đó. Cô kêu lên:
- Socrate! Còn số ngày mỗi tuần chúng ta cần ngủ riêng nữa chứ?
- Trang 72, đoạn 827. - Con lềnh đềnh vênh vang. Lềnh đềnh bắt tay viên bi. Socrate âu yếm hôn Peggy.
- Đừng lo, em yêu... tất cả, tuyệt đối là tất cả đều đã được tính trước hết rồi.
Trừ cái sắp sửa xảy ra.
Socrate nom buồn cười quá đến nỗi ông trở thành đáng thương hại vì thế. Hơn bao giờ hết, ông có vẻ như là vừa mới ở hàng bán quần áo cũ đi ra. Bởi một sự mê tín lờ mờ, con người không vứt một thứ gì đi bao giờ này đã cứ cố mặc lại cho buổi hôn lễ bộ alpaga đen này mà ông từng mặc ngày cưới Lena, đúng hai mươi năm trước đây. Ông sung sướng vì vẫn giữ được thân hình như xưa. Duy bộ mặt thì mang đến vết của thời gian trôi đi. Tóc hiếm hoi hơn, ngả trắng, bên dưới mắt sưng mọng, vết nhăn ở khóe miệng sâu hơn.
Nhưng khi ông cười thì vết nhăn mất đi như nhờ phép lạ và hai con mắt màu nâu của người đàn ông đào hoa thì lấp lóa sắc thanh xuân và quyến rũ. Ông đã già đi bởi vì ông không tin vào con người nữa - tin làm sao được khi họ gục ngã ở trước mặt anh? - nhưng ông vẫn còn trẻ bởi vì ông không chỉ tin vào đồng tiền mà còn tin vào cái đẹp xác thịt, vào thần thánh, vào phép lạ, vào may rủi, vào sự bất tử của ông, vào những xoay sở của thiên mệnh và vào một vài giá trị quá cũ kỹ ở trong trí nhớ ông đến nỗi ông không thể nói được là chúng từ đâu mà tới với ông nữa.
Ông đòi đám cưới của ông làm theo nghi lễ chính giáo. Người ta ngột ngạt trong ngôi nhà thờ nho nhỏ mà mùi hương thắt nghẹt lấy cổ họng. Chỉ có hai chục người được vào đó, cố lèn chen vào hai dãy tường dọc. Socrate đứng ở trước bàn thờ, một ngọn nến thắp ở trong tay trái, tay phải nắm lấy tay của Peggy cũng đang cầm một ngọn nến. Linh mục đảo Rắn phụ lễ cho ông tăng viện trưởng Corfou. Sau lưng Peggy là hai đứa con, Christopher và Michaël, hơi sợ hãi, ngơ ngác vì lễ cưới, vì những bài tụng ca hát bằng Hy Lạp, râu của những vị cha đạo, vàng của những pho tượng, sự bất động của những người dự lễ, tiếng dặng hắng khe khẽ khi ông tăng viện trưởng ngừng hát, bắt đầu lầm rầm đọc kinh, Peggy cũng cảm động như Socrate tuy cô ta im lặng suy tưởng vẫn cứ bị ý nghĩ ám ảnh quấy đảo: Chiếc váy chật và trắng cô đang mặc có ngắn quá không? Bất giác cô đưa tay kéo nó như để hạ nó xuống dưới đầu gối hở hang của cô, do đó lôi theo cả tay Socrate mà cô đang nắm chặt. Đầu ngón tay chạm bờ đùi cong cong của Peggy, ông gạt đi những ý nghĩ bất kính đang xô vào nhân sự tiếp xúc đó. Kallenberg nép vào trong cùng nhà thờ, một mình, đồ sộ, quá cao so với nhà thờ. Vì khiêu khích, ông đã đến, theo lời mời của Socrate, và Socrate mời ông cũng vì lẽ đó. Không hề thốt ra lời với nhau, Socrate đã nói: “Cậu hãy đến đám cưới của tớ, cậu sẽ thấy tớ lấy ai, tớ sướng như thế nào và tớ bôi cứt lên cậu đến đâu!” Bằng sự có mặt và vì ông đã nhận lời khiêu chiến, “Con yêu râu xanh” đáp lại: “Tớ đến đấy, tớ không sợ cậu đâu, hạnh phúc của cậu chẳng bằng hạnh phúc của tớ và tớ cũng bôi cứt vào cậu!” Dĩ nhiên là Irène không đến. Cô cảm thấy việc cô được mời dự chẳng khác nào một cái tát, một lời chửi rủa cô và một sự công kích toàn diện dòng họ Mikolofides vậy. Herman nhận dự vào cuộc vui, đó chỉ là thêm một sự phản bội nữa về phần ông mà thôi.
Maria và Achille, ông bố đã đe dọa cẩn thận để bắt dự buổi lễ, thì đứng trong hậu tẩm nhà thờ, đầu cúi xuống, tựa như hai anh em muốn làm những con người xa lạ với cảnh tượng này. Lúc giới thiệu, hai anh em lạnh lùng và xa cách nghiêng mình chào Peggy, không bắt bàn tay cô hồn nhiên chìa ra. Không xa hai anh em lắm là Nut, kinh dị trong bộ váy trắng mút-xơ-lin trắng mua ở hàng Givenchy, người đang bị những tình cảm hỗn tạp và trái nghịch giằng xé, chị vui thích là đã góp phần se duyên cho người bạn gái thân nhất và người tình xưa của chị, nhưng cũng có phần chua chát vì đã buông bỏ Socrate, người mà chị từng mơ hồ hy vọng có một ngày nào đó biến được thành chồng cho chị sử dụng. Còn mẹ Peggy, bà Arthur Erwin Beckintosh, bà cứ phô hoài ra một nụ cười men sứ tuyệt vời không thể rời bà suốt từ hôm qua, nói rất chính xác là từ lúc con gái bà ký vào bản đồng cưới xin thần kỳ kia.
Vẫn nắm tay nhau, Peggy và Socrate trao nến cho những người phụ lễ. Ông tăng viện trưởng đưa cho họ những chiếc nhẫn cưới đặt trên quyển kinh thánh. Theo truyền thống thì nhẫn cưới được trao làm ba lần. Ông giám mục sau đó tuyên đọc công thức nghi lễ chính giáo:
- Kẻ bày tôi chúa, Socrate đã được nối dây hôn nhân gắn bó với kẻ bày tôi chúa, Peggy, nhân danh Cha, Con và Thánh Thần!
Trong vòng ba giây đồng hồ, ông giơ lên trên đầu cặp vợ chồng mới những vòng hoa và cành lá gài quấn quýt vào nhau. Sau đó Socrate và Peggy uống ba ngụm rượu vang, đi vòng quanh bục trên đặt cuốn sách thánh ba lần: bây giờ thì họ thật sự thành vợ thành chồng.
Trước cửa ra vào nhà thờ, ngay giữa nắng, đám khách được những chuyến chuyên cơ chở từ khắp nơi trên thế giới đến đang xô đẩy nhau, Dodino nhăn mặt lại, vờ phát hiện ra Raph Dun:
- Kìa... Một hành khách lậu vé!
- Trái lại, không còn ai chính thức được hơn!
- A! Thế tốt... tớ độ chừng cậu là thuộc vào số những tình cũ của cô dâu, đúng không?
- Không hề! Tớ là khách mời riêng của con gái ông chồng tương lai. Với tư cách người tình tương lai.
- Cậu lại có thể vớ lấy khúc dồi nhồi đô-la ấy được ư?
- Sao lại không chứ?
- Đã đánh đĩ với đại tư sản thì tớ thích thà là lấy thằng anh còn hơn. Nó chơi khỏe hơn!
Tiếng râm ran vui mừng kéo dài đón tiếp cặp vợ chồng mới ở trong nhà thờ đi ra. Cuối cùng, các vị khách nhanh nhẹn ném lên người họ những vốc gạo và hạnh nhân tẩm đường dính nham nháp ở trong tay họ. Biểu tượng cổ xưa của Hy Lạp: đường là hạnh phúc, gạo là cho sinh đẻ dồi dào. Hạnh phúc thì cho qua được! Nhưng còn sinh đẻ dồi dào...? Không ai trong bọn khách được biết đến khoản 9 của bản hợp đồng cưới xin: “Trong bất cứ trường hợp nào, Peggy Satrapoulos cũng không được cho chồng mình có người thừa kế. Một chi tiết cho thấy chỗ khác nhau giữa việc đặt nước Mỹ nằm giữa tênh hênh ra với việc chứ còn bao giờ có thể đặt chân trở lại nước Mỹ nữa. Mặc dù không khí long trọng của giờ phút này, “tên rậm râu”, viên thư ký riêng của Socrate vẫn đến cạnh ông, đi mấy bước rồi luồn vào tay ông một mẩu giấy nho nhỏ. Không hề có ai để ý thấy, Socrate lùa nó vào trong túi. Chờ lúc Peggy bị nuốt chửng vào trong đám đông bè bạn chúc mừng cô, ông mới kín đáo liếc đọc nó. Đó là một bức điện gồm chín chữ:
CHÚC MỪNG CẢ HAI RẤT NHANH CHÓNG NGOẺO SỚM
Không có chữ ký. Với một đôi chút nhớ tiếc, Socrate nghĩ rằng Menelas đã chẳng quên ông.
Chú thích:
[1] Viết tắt chữ Grecian Air Line: Hàng không Hy Lạp (T. Anh).