← Quay lại trang sách

Phần Thứ Năm - Chương 34

Ngoài khơi Mykonos, mất hút trong vùng biển Cyclades có một hòn đảo nhỏ đẹp đến làm cho nghẹt thở. Nó tên là Ixion. Mười năm trước Kallenberg đã mua nó ở chính phủ Hy Lạp hai triệu đô-la. Để thu dọn theo thị hiếu của ông, ông chi cho nó bốn triệu nữa. Nhìn từ trên máy bay, hòn đảo phảng phất có hình thù một miếng xương, một hình chữ nhật hẹp dài phình ra ở hai đầu.

Lúc mua nó, do mê tín, Irène đã nài nỉ cho đặt tên lại cái đảo đá hoang dại này. Vì khiêu khích cũng như vì muốn làm trái ý vợ, Kallenberg đã từ chối. Đầu óc ngang tàng hay ít ra thì muốn làm ra như thế, ông đã cười giễu câu chuyện dã sử có tính huyền thoại cổ lỗ, biến nơi này thành một chốn ma làm quỷ ám, bị cánh ngư dân đi ngang qua ở ngoài khơi lảng tránh. Câu chuyện dã sử cho rằng Ixion, vua xứ Lapithes đã từng chịu đựng ở trên đảo sự trừng phạt dành cho những kẻ vong ân bội nghĩa dưới hỏa ngực. Thần Hermès đã lấy rắn rết trói ông vào một bánh xe quay không ngừng ở dưới đáy Tartare, cái vực sâu vô cùng tận được bảo vệ bằng “lớp rào đồng thau” mà Homère đã tả trong cuốn Iliade kia.

Nhưng Kallenberg mặc xác Homère, coi như chiếc sơ-mi đầu tiên của ông thôi. Ông đã làm thành công điều ông mong muốn: Biến hòn đảo thành một thiên đường, bằng hay hơn về mọi mặt Serpentella, hòn đảo của Socrate:

Khách khứa chung quanh của hai ông chắc sẽ rất lúng túng nếu người ta bảo họ chọn lấy một trong hai kỳ quan ấy. Cho nên họ đều cố thủ trong một thái độ khôn ngoan: trước mặt Satrapoulos họ không bao giờ nhắc đến Ixion và trước mắt Kallenberg thì chữ Serpentella, đảo Rắn, bị coi như một câu chửi độc địa.

Tối hôm ấy, Irène ở một mình trong tòa nhà trắng mênh mong đầy những tranh của các bậc thầy và đồ vật quý hiếm, nghĩa là một mình với ba chục gia nhân trông nom cho bộ máy chạy được êm ru. Cô đã nốc cạn nửa chai uýt-xki để đánh tan nỗi phiền nho nhỏ xâm chiếm cô từ sau khi hai đứa con cô lên đường đi Luân Đôn.

Chưa đến một giờ trôi qua từ lúc chiếc máy bay lên thẳng của hai đứa trẻ cất cánh thì một chiếc khác đã hạ xuống trong tiếng nổ ầm ầm của động cơ bị người ta hành hạ. Irène kéo tấm mành buông ra và trông thấy Herman nhảy xuống đất, lịch sự chìa tay ra cho cô gái tóc vàng, dài và mềm mại cô chưa gặp bao giờ. Cô vội chải lại đầu tóc, sửa sang lại phấn son, khoác vào một chiếc áo dài Trung Quốc mặc ở trong nhà, nằm lên giường và cầm lấy một quyển sách ca ngợi thánh Thomas d’Aquin, vờ đọc với một vẻ tập trung sâu xa và thành kính. Vài giây sao, Kallenberg đẩy cánh cửa và đánh rầm vào tường...

Thấy Irène, ông bĩu môi ngán tởm:

- A, cô ở đây à?

- Kìa, anh đã về...

Ông nhún vai:

- Làm như cô không nghe thấy máy bay ấy! Trẻ con đi rồi à?

- Đi rồi, lúc nãy. Anh có một mình?

- Việc đó bận gì đến cô?

- Không gì cả... Hỏi để làm cơm tối!

- Tôi sẽ ăn với một cô bạn.

- Không có em ư? - Cô õng ẹo.

- Ừ, không có cô. Cô làm cho tôi ăn hết ngon.

- Ai thế?... Cô bạn ấy?

- Dính gì đến cô? Một chị giúp việc mới nói bốn thứ tiếng. Kích thước người: 90-52-92, vòng ngực, vòng eo, vòng mông.

- Anh tìm thấy ở trong nhà thổ à? - Irène hỏi, giọng hết sức ngọt ngào.

- Đúng, ở cái nơi mà tôi chẳng bao giờ sẽ gặp được cô ả. Cô xấu quá, cô không kiếm ra nổi xu nào đâu!

Thánh Thomas d’Aquin bay đến đập vỡ những chai lọ trên bàn trang điểm và Irène nói, giọng lạnh băng:

- Anh hãy đi yêu cầu con đĩ ấy ra khỏi nhà tôi lập tức! Nếu anh không làm thì tôi sẽ ra đuổi nó!

- Marina ăn riêng với tôi. Chúng tôi có việc phải giải quyết. Bây giờ nói thêm một câu nữa là tôi nhốt cô ở trong buồng cô ấy!

Ông giật mạnh chìa ở trong ổ khóa ra, nhảy một cái ra hành lang, và tra lại khóa từ bên ngoài. Để không bị nhốt, Irène xô ra. Mỗi bên lấy hết sức kéo cánh cửa lại phía mình, Kallenberg chắc thắng, bật phì cười thì Irène chẹt bàn chân vào khe cửa “Con yêu râu xanh” cứ kéo tiếp... Irène hét lên:

- Ngừng tay! Anh làm gãy mắt cá tôi rồi! Đồ vũ phu!

Ông bị lừa, nới tay ra, Irène bèn lợi dụng cơ hội thò chân qua khe cửa hở, đá một cái kinh khủng vào hạ bộ ông:

- Này! Cùng với lời chúc mừng Marina của anh!

Herman càu nhàu đau đớn và giận dữ. Ông mở toang cửa ra. Irène không kịp tránh, ngã lăn quay lơ giữa buồng...

- Con đĩ! Mày rồi trả nợ tao!

Ông đi đến bên cô, mặt đỏ lên vì đau, hai tay ôm lấy bộ phận sinh dục. Irène cười khẩy, vừa sướng, vừa sợ lẫn lộn, lẩm bẩm:

- Đáng đời! Bây giờ đi mà đéo nó đi, đi đi!

Hai tay vẫn co quắp ở bụng dưới, Kallenberg đã tới tấp vào bụng, mỏ ác, mạng sườn, vú, đùi cô. Vừa lăn lộn cô vừa chửi:

- Đáng đời! Đáng đời! Thằng tồi!...

Herman ngưng đánh, e cô ngất đi. Ông cúi xuống cô, đồ sộ, rồi tát cho hai cái vào giữa mặt cô. Cô mở một con mắt ngơ ngác ra. Ông quay gót, ra khỏi phòng và khóa cho hai vòng khóa. Irène vẫn nằm đó, im lìm, hơi thở ngắn gấp và giật đoạn, hai mắt long lanh mở đăm đăm. Cô quay mình nằm sấp xuống, để mũi gí một lúc vào tấm thảm. Rồi cô bò lết lại chiếc tủ ngăn kéo.

Vẫn nằm dài trên thảm, cô cầm lấy chai uýt-xki - thực tế là một bình nước hoa Pháp mang nhãn Guerlain - và tu ngấu nghiến một ngụm dài. Lúc đang say đòn, cô không cảm thấy gì.

Bây giờ cô thấy các cơ bắp đau đớn. Rên rỉ, cô cầm lấy hộp thuốc đổ hết vào lòng bàn tay, dốc cả vào trong mồm rồi chiêu một ngụm uýt-xki Scốt-lơn nữa. Cô cảm thấy sắp ngất đi. Cô gắng gượng đậy lại nút bình Guerlain - Không ai có thể biết rằng cô giấu rượu của cô ở trong đó. Trước khi mê đi, ý nghĩ cuối cùng của cô là về ông chồng:

- Lần này, Herman đã đi quá trớn!

Peggy lên sáu và là bà hoàng. Cô ta ra lệnh, người ta vâng theo. Cô ta đòi hỏi, người ta cúi mọp xuống trước mặt cô ta. Cô ta mong muốn thì liền được ngay. Lấy Socrate, cô không hề tưởng tượng được rằng thiên hạ lại có thể quỳ mọp ở dưới chân cô đến mức này bao giờ. Để đi lại, cô có một chiếc Boeing cho riêng cô. Những nhà cắt may nổi tiếng nhất lập tức đến ngay cùng với khung cốt người mẫu, hành lý một khi cô ngỏ ý muốn xem sưu tập của họ. Cô muốn có một đồ nữ trang thì những nhà kim hoàn châu Âu hay châu Mỹ liền đổ xô đến. Bất cứ cái gì cô làm, bất kỳ chỗ nào cô đến, bất kỳ cái gì cô muốn, cô chỉ có việc ký là xong. Socrate trả tiền theo hóa đơn.

Dĩ nhiên, đôi khi cũng có những vụ đụng độ nho nhỏ. Nhưng nói chung, chồng nhượng bộ, và cô thắng. Khi ông giận quá thì ông biến đi trong nhiều ngày mà chẳng ai hay là ông đến đâu. Phải nhờ các nhà đưa tin về xã hội thượng lưu nhắc tới mới biết được là người ta trông thấy ông tại Paris, ở hàng Régine hay ở Castel, tại Roma với một cô tóc vàng, tại Munich hay tại Luân Đôn, trong một tiệm ăn thời thượng. Kỳ trăng mật của họ kéo dài một năm. Tuy nó bị những nhà báo thường xuyên bám sát theo gót họ làm cho kém vui đi một phần. Anh phóng viên nhiếp ảnh ngây thơ nhất cũng không lạ gì một loại ảnh về cặp vợ chồng nổi tiếng nhất thế giới sẽ có thể mang lại cho anh cái làm cho anh sống được nhiều năm bằng lãi suất tiền gửi ngân hàng của anh. Cho nên những hoạt động, rất đơn giản đối với những người trần mắt thịt như đi xem một buổi chiếu bóng, một trận đấu quyền Anh hay một quán rượu thú vị thì đối với Socrate và Peggy thường thường lại biến ra thành một cuộc chạy trốn - đuổi bắt kết thúc bằng đấm đá vật lộn. May sao họ không luôn ở bên nhau!

Hôm sau ngày cưới, trước bất bình của Peggy, Socrate đã phải đến Tokyo vì một áp phe hai triệu đô-la. Vừa mới trở về đảo Rắn, ông lại đi ngay Copenhague. Không chờ ông về, Peggy bay luôn đi New York, nơi hai đứa con về lại quê cha đất tổ vài giờ sau lễ cưới, gọi dây nói báo cho mẹ rằng: “Chúng nhớ mẹ”. Sau khi làm trọn nghĩa vụ người mẹ, cô lại hạ cánh xuống Luân Đôn, theo lời hẹn của Socrate. Họ đã qua hai ngày tuyệt vời, hẹn tuần sau gặp lại nhau ở Nassau. Tuy là vợ chồng, họ đối với nhau như người tình, định các cuộc gặp gỡ theo thời khắc biểu của họ, trốn tránh để gặp nhau vì đám nhà báo, bay từ thủ đô này đến thủ đô kia như người ta đến hàng chạp phô vậy. Xô xát bắt đầu một cách chính xác ngày hai người sống chung ở bên chiếc Phi Mã. Peggy tự làm cho nhân viên và đám đầy tớ nhất loạt thù ghét trong một thời gian kỷ lục. Cô không ngại ngùng đánh thức người hầu phòng dậy lúc bốn giờ sáng để bảo thay chai sâm-banh vĩnh cửu chưa được lạnh lắm. Cô có một sở thích mãnh liệt đối với trang trí khiến cho cô bất kể đêm ngày lúc nào cũng đảo lộn tanh bành lên cả những đồ đạc trong phòng. Cô lắm trò tưởng tượng. Phật ý cô là bằng chịu một sự khép tội không kháng cáo mà ngày giờ hành án xa hay gần trông vào sự kháng cự của Socrate đối với những cơn động cỡn của cô. Một chị sen quá xinh đẹp: đuổi việc! Một món ăn không hợp khẩu vị cô, người ta thay luôn đầu bếp, điều làm cho Socrate tức tối - vì sợ béo, Peggy chỉ nhấm qua quýt rau xà lách và một miếng thịt rán, ngửi hay nếm phất phơ những món ăn phức tạp chính cô yêu cầu làm. Đặc biệt ở trên du thuyền, những cuộc cãi cọ mới dữ dội. Bị giằng xé giữa nỗi e ngại làm vợ phật ý và nỗi lo âu bị các đầu bếp coi ông như một người hèn yếu, đôi khi Satrapoulos quát lác rầm rầm lên, điều chỉ duy nhất mình ông lừa mà thôi.

Trong thực tế, Peggy nhiếp chính tất cả, và chồng cô ta, như Napoléon, chị còn có một chước là cao chạy xa bay. Ông đã lén lút gặp lại Menelas để “giải thích” với chị về việc ông cưới vợ. Đều kỳ, họ hẹn gặp nhau ở Milan hay Paris và đi ăn tối như “bạn hẩu” ở các quán ăn gợi lại cho họ quá khứ. Gặp lại luôn các bạn trai ở New York, Peggy cũng không ngặt lắm với ông về chuyện này.

Tự biết cô là duy nhất, và đang là thế thật, cô cư xử như một nữ thần đứng ở bên ngoài, không đối thủ. Chẳng ngày nào mà lại không có hàng trăm tờ báo trên thế giới bàn về họ. Việc thiếu tin tức không hề bó chân tay người ta: người ta bầy đặt ra tin tức! Vợ chồng Satrapoulos không hề phản ứng gì hơn nữ hoàng nước Anh vốn không đáp lại bất cứ một công kích nào bao giờ. Có thể là giống như một bà nữ hoàng, họ cũng cảm thấy họ mang trong người giọt máu thánh thần. Cùng một tối, họ có thể mỗi người riêng rẽ ở một dạ hội liên hoan ở một nước khác. Khi gặp lại nhau, họ khen nhau về những phim hay ho của hội vui lọt đến tai họ. Đều kỳ, người ta báo tin họ ly dị, điều làm cho số phát hành của các tạp chí leo vọt lên cao. Đối với họ, công chúng có cái phản ứng giống như các đứa trẻ mà người ta đã kể cho hàng trăm lần cùng một câu chuyện: Ô, lại thế! Các cuộc ly dị bố vờ của họ và những thai nghén hão của Peggy là món ăn béo bở của báo chí quốc tế từ ngày họ lãy nhau gần bốn năm nay. Với đôi chút suôn sẻ, điều này có thể kéo dài đến ba mươi năm nữa, vì lẽ các đứa con riêng của họ, những kẻ thừa hưởng gia tài mênh mông của họ, sẽ chẳng mấy chốc lại kế tục họ, cái ngày mà họ đã quá tàn tạ hay lăn quay ra ngoẻo!

Nhưng số phận đã định rằng sự việc sẽ không xảy ra theo cách đó. Một guồng máy của định mệnh sắp làm chuyển động một dây chuyền những sự kiện khác thường. Nhìn bề ngoài, sự kiện đầu tiên của loạt sự kiện đâu có dính dáng đến Socrate, lại càng không dính dáng hơn đến Peggy. Vậy mà, khi nó nổ ra như một quả bom, thì những kẻ chua cay, những kẻ ghen tị, những kẻ mê tín, đều có linh cảm rằng những hậu quả của nó rồi sẽ chẳng có dè nể một ai hết đâu.

Tựa hồ, ở một nơi nào đó, có một chủ sòng vô hình đã xướng to lên các công thức nghi lễ báo cho các con bạc biết rằng quả cầu đã chạy rồi, và nó đang điên loạn [1] lên kia kìa: “Thôi thế là chịu phép!”

Sau khi ăn xong bữa tối với người giúp việc mới của ông - Hoa khôi 90-52-92, Kallenberg về phòng làm việc. Ông đang cơn cáu kỉnh và ở chỗ bị chân Irène đá vào thì đang đau nhoi nhói. Người ta gõ cửa. Đó là Alain, người hầu riêng của ông:

- Thưa ông, ông cần đến ngay ạ! - Jeanine nhìn thấy bà nằm ở dưới sàn trong buồng bà.

- Thế nào, ở dưới sàn?

Kallenberg đứng dậy đi theo tên đầy tớ.

- Thưa ông, ta lên nhanh ạ... Jeanine rất lo ngại...

Khi họ đến, Jeanine đứng dậy. Chị đang ngồi xổm cạnh Irène nước mắt vòng quanh:

- Mau mau, thưa ông! Phải làm gì đi thôi... Một bác sĩ...

- Thôi, thôi! Không phải lần đầu tiên bà váng vất thế này đâu!

Herman bế xốc Irène lên và quăng cô xuống giường. Ông thấy người cô lạnh toát. Nhưng ông có cảm tưởng mạch cô đang đập khe khẽ. Rất khẽ.

- Đi lấy muối ngửi... Tôi thử cố làm cho bà tỉnh lại... Irène!... Irène!... Có nghe thấy không? Jeanine, chị giúp tôi... Nâng bà lên một chút...

Ông tát khẽ vào hai má vợ, không kết quả nào khác là làm cho đầu cô ngật sang bên trái, sang phải.

- Irène!... Kìa, Irène!... Tỉnh lại... Alain, muối ngửi!... Jeanine, cô y tá đâu?

- Bà cho cô ấy nghỉ sáng nay...

- Trời đất!... Khoan... Nâng bà ta lên nữa đi... Irène!...

Mí mắt Irène như cô chấp chới...

- Các anh chị xem kìa, ăn thua đấy! Khá hơn rồi!... Đặt bà ta nằm xuống, ta để cho bà nghỉ ngơi... Alain, anh gọi giáo sư Kiralles... đến mau... tôi cho máy bay lên thẳng đi đón ông ấy... Ông ấy quen rồi...

Mười phút sau, Alain quay lại.

- Gọi được chưa?

- Giáo sư chưa về ạ, thưa ông. Người ta đang chờ ông ấy... Tôi đã yêu cầu ông ấy về thì gọi ngay cho ông. Ông có muốn tôi báo bác sĩ Salbacos không?

- Tôi muốn trước hết là người ta kín miệng và không làm lộ cái chuyện này ra, hiểu chứ? Vì ông bạn Kiralles của tôi sắp trở về rồi thì thôi chờ ông ấy. Để tranh thủ thời gian, anh bảo người lái cất cánh bay đi Athènes.

Jeanine ngập ngừng:

- Còn bà, thưa ông?

- Chúng ta ở lại đây với bà. Chị còn đề nghị gì nữa không?

- Thưa ông, không.

- Nếu bà cựa mình thì gọi tôi nhá! Tôi lại thử đi gọi giáo sư Kiralles xem...

Kallenberg để chị sen lại đấy, chị vội xuống cầu thang, quay số máy nói riêng của giáo sư... Kiralles vẫn chưa về. “Con yêu râu xanh” bèn thử tiếp xúc với bác sĩ Salbacos: ông vừa mới đi xong.

Sau bốn mươi lăm phút tìm gọi không có kết quả, Kallenberg trở lên phòng Irène để trông thay cho Jeanine. Ông thấy chị đang khóc.

- Sao?

- Ông ơi, bà chết rồi!

Chị sen ngây ngây ngô ngô nhìn ông, lấy ông làm nhân chứng cho một sự kiện đối với chị ta hình như không thể quan niệm nổi. Kallenberg đi vội đến bên giường nhìn mặt Irène nhợt nhạt rồi đặt tay lên trán cô. Dưới nhà, chuông máy nói réo lên. Chắc Alain cầm máy vì tiếng chuông cùng lúc lại im. Jeanine bật khóc nức nở, đứng dậy rồi đi ra. Chị gặp Alain đang lên gác...

- Gọi được bác sĩ rồi... Ông ấy sắp đến...

- Muộn quá rồi... Quá muộn rồi...

Chị khóc nghẹn ngào. Một giờ sau, bác sĩ Salbacos bước vào phòng khách.

- Bà đâu?

Jeanine vẫn nức nở, có hai chị nấu bếp và một quản gia dìu đỡ. Chị ngơ ngác lắc đầu, không nói ra được điều chị muốn nói, nhưng vẫn đi vào cầu thang, dẫn mọi người lên gác. Salbacos hiểu rằng ông không cần phải làm gì nữa. Không cả bắt tay Kallenberg, ông cúi xuống người Irène, lộn một mi mắt lên, bắt mạch và không thiết ghé tai lên ngực nghe ngóng: Tất cả điều ông có thể nói được, qua mắt ông nhìn, là người đàn bà.

- Xảy ra như thế nào?

“Con yêu râu xanh” chỉ vào hộp thuốc rỗng không.

- Thuốc ngủ? - Salbacos hỏi.

“Con yêu râu xanh” gật đầu.

- Trong hộp có nhiều không?

- Nhà tôi uống suốt ngày.

- Ông không thử làm cho bà nôn ư?

- Ông biết đấy... Xảy ra nhanh quá... Tại sao nhà tôi lại tự sát cơ chứ?... Tại sao?...

- Ông Kallenberg... Ông thấy các vết ở trên mặt bà đấy chứ? Đó là những vết bị đánh. Ai thấy bà Kallenberg bất tỉnh?

- Jeanine, chị sen của nhà tôi.

- Bà nhà trước khi chết có cãi cọ với ai không? Với ai?

Kallenberg có vẻ bối rối:

- Ông muốn nói đến những vết tát? Tôi tát mà! Jeanine và Alain sẽ bảo ông... Tôi thử làm cho nhà tôi tỉnh lại...

Jeanine và Alain hăng hái gật đầu. Alain nói rõ:

- Ngay khi Jeanine thấy bà như thế, ông đã làm mọi cách để cho bà tỉnh lại.

- Đúng thế! - Jeanine tán đồng - Hoàn toàn thế!

- Ông Kallenberg! Tôi có thể gọi máy nói được không đây?

- Alain, dẫn bác sĩ đến phòng khách.

Trong khi Salbacos gọi dây nói, một chiếc máy bay lên thẳng đỗ xuống không xa ngôi nhà lắm. Vén rèm cửa sổ, “Con yêu râu xanh” nhẹ người nhìn thấy đó là giáo sư Kiralles. Kiralles là một trong những người bạn thân nhất của ông: Ông còn góp tiền cả cho bệnh viện của Kiralles.

- Bạn thân mến!... Hình như tôi đến chậm!

- Than ôi!...

Đến lượt Kiralles xem qua loa Irène, thấy những vết tát nhưng không bình luận gì cả. Ông cầm lấy hộp thuốc rỗng và có vẻ phiền muộn:

- Irène tội nghiệp... Chắc là chị ấy không vượt qua được cơn suy sụp thần kinh.

- Nhà tôi thần kinh lôi thôi lắm. Các con chúng tôi vừa mới đi Luân Đôn mà!

- Giáo sư! - Bác sĩ Salbacos bước vào, chào.

- Thật là buồn - Kiralles đáp, liếc nhìn Irène. Rồi nói với Kallenberg:

- Ông bạn tội nghiệp... Tôi chia buồn với anh... Khốn thay, đối với việc tự sát, tất cả chúng ta đều bất lực cả thôi.

Salbacos nhếch một lông mày lên:

- Thưa giáo sư, ông có thấy những vết tát trên mặt bà Kallenberg không?

- Tôi đã nói với ông là tôi tát để cho nhà tôi tỉnh lại rồi mà! - “Con yêu râu xanh” xen vào - Các người làm nhà tôi cũng nói với ông như thế!!!

- Ông bạn đồng nghiệp thân mến ơi, - Kiralles nói với một đôi chút giễu cợt - thuốc ngủ không độc hại bằng một cái tát đâu. Nếu ông vui lòng đi với tôi thì chúng ta sẽ thảo bản chứng nhận khai tử và ký giấy cho phép chôn cất.

- Được lắm, thưa giáo sư. Tôi xin theo giáo sư.

- Tại sao anh không lấy em?

- Người ta sẽ bảo là anh lấy tiền của em mất.

- Tiền nào? Để ngăn em sống với anh, bố đã cắt hết nguồn cung cấp cho em rồi cơ mà.

- Nhưng có ngày em sẽ được thừa hưởng gia tài. Con người ta tởm lợm lắm, em biết đấy...

- Ta mặc kệ mọi người! Ta sống cho ta, đúng không?

- Anh già quá so với em.

- Thôi, ngừng vở kịch của anh lại đi, Raph! Em lại tìm thấy hai bức thư của các cô mê anh ở trong tập thư mới đến sáng nay đấy!

- Ở tập thư?

- Không, trong túi anh...

- Tại sao em lục túi anh?

- Anh bảo em lấy bật lửa...

- Đáng đời anh. Lần sau, anh sẽ nhét một bao diêm ở rốn mới được.

- Raph...

- Hử, Maria...

- Tại sao anh không thử... với bố em?

- Ông ấy sẽ bảo em là đáng tuổi con gái anh!

- Thì đã sao? Tất cả đám đàn bà ông ấy lăng nhăng đều có thể là con gái ông ấy hết thôi! Kể cả mẹ nữa!

- Có khác. Ông ấy giàu! Anh thì không.

- Raph, em xin anh, anh hãy thử xem, hỏi ông ấy cho anh cưới em đi.

- Để làm gì? Như thế này không hay rồi sao? Cho đến nay ta có cần gì phép tắc của ông ấy đâu!

- Em muốn xây dựng cuộc đời với anh, Raph...

- Thì chính là em đang làm đấy thôi!

- Không như thế này đâu!... Chính thức cơ!

- Em tưởng là quan hệ của chúng ta chưa được thiên hạ biết một cách “chính thức” hay sao?

- Em muốn có một đứa con với anh, Raph...

- Thì ngay lập tức đi, thưa bà! Cởi quần áo ra!

- Không, Raph, rất đứng đắn đấy!

Raph Dun có một cử chỉ bực dọc:

- Nghe này, Maria, xin đủ đi! Em biết rất rõ là nếu anh đến gặp bố em thì anh sẽ bị tống cổ như một thằng xin việc. Trong con mắt ông ấy, anh chỉ là một thằng nhà báo thảm hại, không kiếm nổi ra được mười triệu đô-la một năm, như mọi người.

- Được... vậy thì em sẽ nói với bố... Nếu em hẹn với anh, anh có đi không?

- Sao lại không chứ?

- Tốt lắm, em lo cho cái khoản ấy!

Dun cười thầm trong bụng. Cô bé này, Maria, rất ly kỳ. Cô yêu anh. Từ hai năm nay, anh sống với cô bé, từ khách sạn lớn này sang khách sạn lớn khác, hy vọng Socrate ớn lên vì sự dai dẳng đó, sẽ van xin anh chính quy hóa và trở thành con rể của ông. Anh lại cần phải gắp gáp lên mới được: số vốn của anh đang tụt xuống một cách nghiêm trọng, mặc dù khoản chu cấp không thể chối cãi mà lòng say mê không giấu diếm của cô gái thừa kế giàu nhất thế giới đã mang lại cho anh. Đối với những chủ nợ giục giã anh, Raph có một nụ cười bí ẩn phối hợp với cái câu khó hiểu sau đây: “Các ông hãy chờ chút xíu... Có thể là các ông đặt một khoản đầu tư ghê gớm cũng nên cơ đấy?”

Cho đến bây giờ, mọi sự ổn cả. Ngoài ra, anh đang làm một vụ buôn đi bán lại ra trò có thể mang lại cho anh một món rất lớn - dĩ nhiên nếu trúng quả. Dù sao thì Maria vẫn gánh vác hết, tuy cô đã tặng anh một chiếc xe hơi Aston Martin và nhiều đồ nữ trang khác nhau rất quý giá mà nếu bán đi anh sẽ có thể bù đậy lại được những khoản đầu tư đã được cô bé thỏa thuận với danh nghĩa là tiền chi trước cho việc nuôi sống anh. Anh hết sức biết rõ là, không bao giờ Socrate lại muốn anh làm rể ông cả. Nhưng có ai biết được thế nào nữa. Anh nhớ lại câu châm ngôn cũ: Nghề báo dẫn đến mọi sự, chỉ cần xoay sở giỏi.

Ngoài Maria, cái két lưu động dùng làm bạn đường của anh ra, nghề báo vẫn chưa đưa được anh tới đâu cả. Nhưng anh lại cần phải gấp gáp. Anh đã năm mươi.

- Anh tưởng là bác anh buồn vì vợ bác anh chết à?

- Anh chẳng rõ nữa. Ông ta cũng chẳng tồi hơn hay kém hơn người khác đâu.

- Thì hơn bố anh chứ?

- Ngang nhau. Thật ra, ở mức tiền bạc và thế lực này, các khái niệm truyền thống đều bị hiểu sai hết cả rồi. Trong áp phe, người ta không dùng chữ tồi. Người ta dùng chữ “hữu hiệu”.

- Thế anh, tại sao anh không là một thằng tồi?

- Anh cũng tồi như họ thôi, vì anh không thể sống ở ngoài hệ thống của họ được. Tất cả những gì anh có thể biết, là Kallenberg không yêu gì anh.

- Vậy thì ông ấy yêu cái gì?

- Yêu bản thân ông ấy. Yêu cái ông ấy tưởng là ông ấy! Và yêu tiền. Vì bản chất, bố anh cũng thế. Giữa công việc làm ăn, con cái và vợ thì ông ấy yêu công việc làm ăn hơn.

- Nào anh có thiếu một cái gì bao giờ đâu.

- Thiếu quá chứ! Tình yêu, khi còn bé, chiến đấu chết đi được ấy chứ.

- Anh thấy rõ là anh có chết đâu!

- Một cách nào đó thì là có chết đấy. Đôi khi anh đã thầm hỏi là liệu anh có còn đang sống không đấy! Anh biết mười mươi là anh chết sớm.

- Đồ ngốc! Anh định làm em sợ hử?

- Không, đấy là một cảm nghĩ. Em xem đấy, bọn người của thế hệ này, khi còn là trẻ con, họ đã phải chửi rủa khá là độc địa đấy! Ở điểm này mà lại muốn chứng tỏ, phô phang sức mạnh của mình ra thì là chuyện không bình thường.

- Bố anh vào đời như thế nào?

Achille ghì chặt hơn cánh tay anh vào quanh cổ Gioan. Chị hôn hai bàn tay anh.

- Bí ẩn. Loại đề tài kiêng kỵ trong gia đình. Nhiều người biết các chuyện của bố anh. Nhưng anh là con ông, anh lại gần như không biết gì hết.

- Ông anh có là chủ tàu không?

- Không. Thương nhân thì phải.

- Thế bà anh?

- Bà chết khi anh mới lên hai hay ba tuổi. Ở chỗ này cũng lại là một điều bí ẩn... Em biết nhé, về phía mẹ anh, người ta biết hết từ ông bà ông vải. Nhưng ở họ Satrapoulos, khi người ta không giàu thì người ta không tồn tại. Bố không nói đến ông và bà bao giờ. Tựa như ông ấy đẻ ra đã mồ côi vậy.

- Anh đã thử hỏi ông ấy chưa?

- Chưa.

- Tại sao?

- Không biết. Ngày một ngày hai rồi cũng sẽ cần phải...

- Anh không muốn biết à?

- Có chứ. Nhưng đồng thời nó cũng lại làm anh hoảng. Nếu người ta không nói gì với anh cả thì là vì chẳng có gì đáng để tự hào hết.

- Nhưng nhìn bên ngoài thì hình như các thành viên họ anh có đủ mọi cái để mà sung sướng đấy chứ.

- Chắc chắn là không phải rồi! Các thắng lợi của họ làm cho họ thèm khát. Họ đói khát thắng lợi. Đó là những kẻ ăn thịt người ở trong một cái vòng luẩn quẩn. Họ luôn luôn phải xơi một cái gì hay một ai đó. Khi không có người nào để cho họ nhá thì họ xơi lẫn nhau.

- Có từng ấy tiền rồi xỏ lá lẫn nhau, anh có thấy điều ấy đáng sợ không?

- Không nên có những cái ấy quá nhiều. Đây là một sự lựa chọn. Đời sống hay tiền, tình yêu hay đạn [2]. Các cái đó không đi cùng với nhau. Thôi, tán phét đủ rồi, ta sẽ bay qua các hòn đảo, em sẽ điên lên vì chiếc máy bay mới của anh!

Achille lái máy bay từ năm mười sáu tuổi. Đôi khi, ở trên mặt biển, anh để máy lái tự động, rồi làm tình với chị ở ngay giữa trời.

- Em chải lại đầu rồi em đến ngay!

- Nhanh nhanh lên! Anh không muốn để lỡ mất buổi mặt trời lặn!

- Thưa ông, tôi tiếp ông vì con gái tôi đã năn nỉ. Tôi không giấu ông là tôi tiếp ông với sự kinh tởm. Ngoài ra, ông hiểu rằng với những điều đang xảy ra hiện nay, tôi có rất ít thời giờ.

Dun thật sự là bị sự tiếp đón hung hãn và nhục mạ này dội cho gáo nước lạnh. Chắc chắn anh không hề chờ đợi Socrate ôm anh vào lòng mà nói: “Con rể ta ơi, lại đây cho bố ôm nào”. Nhưng dẫu sao anh cũng hy vọng có được đôi tí lịch sự. Muốn thế nào, dù lão già hợm hĩnh này muốn hay không, thì anh cũng đã có phần nào là người trong gia đình cơ mà, và không dễ để cho người ta lừa phỉnh.

- Tôi có thể biết ông không bằng lòng tôi chỗ nào không?

- Bằng thực tế chứ, thưa ông! Tình cảm tôi không liên quan gì đến chuyện này cả. Ông muốn gì ở tôi?

Dun ngày càng hoang mang...

- Maria không nói với ông?...

- Nói gì? Rằng nó ngủ với ông ư?... Tôi buồn thay cho nó nhưng ông bảo tôi làm gì được trong chuyện ấy cơ chứ? Nó luôn luôn mê những cái ảo, một anh đấu bò, một anh lái xe đua, một tùy viên Đại sứ quán... và bây giờ thì ông!

- Tôi không để ý tới quá khứ!

- Khi người ta hiểu quá khứ, người ta có thể học biết được nhiều điều cho tương lai.

- Các bài học của ông, tôi cũng chẳng chú ý gì tới. Tôi đến để hỏi cưới con gái ông. Trước thái độ của ông tôi chỉ báo ông hay là tôi sắp cưới cô ta.

- Hết lời chúc mừng ông. Tôi giả định là ông đến để vay tiền tôi sắm váy cưới cho nó, phải không?

- Thưa ông, tôi không cho phép ông...

- Đừng vờ vịt làm người tự trọng, đồ ngu! Ông chỉ là một thằng trai - lỡ sa cơ lỡ vận bây giờ tìm chốn gửi gắm những ngày già nua của mình mà thôi.

- Thôi đủ rồi! Ông đã ngắm ông chưa?

Socrate hầm hầm lấn lại Raph Dun, túm lấy cổ áo anh (một kỳ công của hãng Ciffonelli ở Roma mà hóa đơn anh vừa mới nhận tháng trước).

- Tôi nói cho ông biết... Vì ông sắp lấy con Maria tội nghiệp thì ông cần phải biết... Ông là một thằng lừa đảo thảm hại, một thằng nhà báo cỏn con nhòm lỗ đít và lỗ khóa... Một thằng đĩ đực... Nếu hai mươi năm trước tôi đã không cho bắn một phát vào đầu ông, khi ông gián tiếp làm cho mẹ tôi chết, thì đó là vì tôi không muốn làm tay tôi vấy bẩn máu của một thằng thối rữa, biết không?

Raph cảm thấy cái máu được nhắc nhở đến kia nút hết cả mặt anh... Làm sao Socrate lại biết rằng anh là đầu têu bản báo cáo của Kallenberg về mụ già Athina?... Anh lắp bắp:

- Ông nói cái gì thế?... Ông bảo gì vậy?... Mẹ ông?...

- Cút, thằng điếm! Nó, Maria ấy, còn ở với mày thì nó sẽ không hòng lấy được một xu của tao. Không xu nào hết! Không một xu! Còn mày, mày liệu thần hồn mày!... Điều trước kia chưa xảy ra với mày thì điều ấy sẽ có thể xảy ra với mày hôm nay, ngày mai, bất cứ lúc nào!... Một tai nạn! Với tất cả các trò đĩ điếm của mày thì còn ai luyến tiếc mày nữa hả?...

Về Socrate, Raph chỉ biết đến truyền thuyết ông là một người đào hoa và một người ăn chơi lịch lãm của “xã hội máy bay phản lực!”. Thình lình trước mắt anh bây giờ là một con cọp, một tay găng-xtơ diễn đạt nói năng như chàng lưu manh ở bến tàu, bến xe vậy... Anh cố giở một mẹo cuối cùng ra để cứu vớt chỗ tự trọng còn sót lại:

- Thưa ông,... về bà mẹ ông...

- Xéo!

- Về Maria...

- Cút!

Trước vẻ mặt Socrate, Dun hiểu rằng thà câm họng còn hơn là để bị giết ngay tại trận. Anh ra khỏi phòng làm việc. Sau này, khi Maria hỏi anh cuộc gặp mặt đã diễn ra như thế nào thì anh trễ nải trả lời rằng bố cô “hình như không bình tĩnh, căng thẳng và rõ ràng là họ phải có một cuộc nói chuyện lần thứ hai mới được”. Maria biết rằng phương diện chính thức của câu chuyện tình lãng mạn của cô thế là đi tong dứt khoát mất rồi.

Chú thích:

[1] Một thứ cò quay do một quả cầu nho nhỏ dược bắn ra chạy trong một vòng tròn, nó dừng lại ở con số nào thì ai đặt tiền ở con số đó sẽ được cuộc.

[2] Tiếng lóng: Tiền.