Chương 31
Tòa nhà đó nằm bên cạnh ga Azabu-juban. Bên ngoài có treo tấm biển đề chữ KONAMO. Leo hết cầu thang bên ngoài là đến cửa ra vào. Có lẽ tên quán ăn bắt nguồn từ chữ konamono*. Quán này chuyên phục vụ món monjayaki và okonomiyaki.
Chỉ các món ăn làm từ bột.
Kusanagi ngước lên thì thấy một thanh niên trẻ tuổi vừa bước ra khỏi quán. Cậu ta đeo chiếc tạp dề màu đỏ, chắc là nhân viên của quán. Sau khi lật tấm bảng treo ngoài cửa, cậu ta quay trở vào trong.
Kim đồng hồ chỉ hơn hai giờ. Hai cô gái, hẳn là những vị khách cuối cùng của quán bước ra. Thấy họ đi khỏi, Kusanagi mới bước lên cầu thang. Tấm biển ngoài cửa ghi dòng chữ Đang chuẩn bị.
Lúc Kusanagi mở cửa, chiếc chuông nhỏ treo ngay trên đầu anh phát ra tiếng kêu leng keng.
Cậu nhân viên trẻ khi nãy ngẩng đầu lên khỏi quầy thu ngân. “À, xin lỗi quý khách. Quán chúng tôi đã hết giờ mở cửa buổi trưa rồi ạ.”
“Tôi biết. Tôi không phải khách. Ông Muroi có đây không?” Kusanagi vừa hỏi, vừa nhìn xung quanh. Bên trong quán là một dãy bàn, bàn nào bàn nấy đều gắn một tấm vỉ sắt nướng.
Một người đàn ông đầu bạc trắng đang ngồi quay lưng đọc báo ở chiếc bàn ngay trước mặt Kusanagi. Nghe thấy giọng của anh, người đàn ông ngoảnh lại. Mặc dù nhiều nếp nhăn song làn da rám nắng khiến ông ta trông vẫn trẻ trung. Ông ta cũng đeo tạp dề đỏ.
“Anh là…?” Người đàn ông hỏi.
Kusanagi vừa giơ phù hiệu cảnh sát và chứng minh nhân dân, vừa bước lại gần. “Ông là Muroi phải không?”
Người đàn ông tỏ vẻ bối rối. “Đúng vậy, nhưng có việc gì thế?”
“Tôi muốn hỏi chút chuyện lúc ông còn ở Karuban.”
“Karuban ư? Chuyện xưa lắm rồi. Tôi ở đó từ cách đây hơn mười năm rồi kia.”
“Tôi biết. Tối qua tôi đã đến đó và có nghe chuyện về ông rồi.”
Quán Karuban nằm trong một tòa nhà ở bên rìa ngõ số 7 phố Ginza. Đồ vật trang trí bên trong quán đều sặc sỡ, với một hàng ghế sô pha bọc da trông có vẻ cao cấp nằm cạnh nhau, in đậm dấu ấn của thời kỳ nền kinh tế Nhật Bản vẫn còn thịnh vượng.
Đó chính là nơi Senba Hidetoshi và Miyake Nobuko đã cùng nhau uống rượu cách đây mười sáu năm. Sau hôm đó, Miyake Nobuko trở thành nạn nhân của một vụ án giết người mà Senba là hung thủ. Cảnh sát bắt được Senba nhờ vào lời khai của ông Muroi Masao, bấy giờ là chủ quán Karuban. Ông Muroi nhớ mặt cả hai người và còn biết cả tên Senba nữa.
Nghe Kusanagi nói muốn hỏi chuyện liên quan đến vụ án khi ấy, ông Muroi tròn xoe mắt kinh ngạc.
“Chuyện đó lại càng xưa hơn ấy. Sao giờ anh còn hỏi chuyện đó vậy? À, hay là…” Muroi vội vàng gấp tờ báo vào, đoạn sửa lại tư thế ngồi. “Anh ta… Senba ra tù rồi phải không? Hay anh ta muốn trả thù tôi?”
Kusanagi gượng cười.
“Không phải vậy. Senba Hidetoshi đã mãn hạn tù từ lâu rồi. Chắc ông ta chưa xuất hiện trước mặt ông lần nào phải không?”
“Quả đúng thế thật. Vậy à, ra tù rồi sao.”
“Ông biết rất rõ hai người đó phải không?”
“Không đến mức biết rõ đâu. Cũng khá lâu hôm ấy họ mới lại tới quán chúng tôi. Ai mà ngờ được ngày hôm sau lại xảy ra chuyện như thế.”
“Theo hồ sơ điều tra, hình như từ tối hôm trước bầu không khí giữa họ đã khá căng thẳng?”
“Nói là căng thẳng thì cũng không phải. Mặc dù đúng là không được như bình thường…”
Muroi hơi ngập ngừng, nói tiếp. “Senba lúc ấy đã khóc đấy.”
Khi Muroi hỏi Kusanagi trót nói mình còn chưa ăn trưa. Thành ra, Muroi liền đề nghị nướng bánh okonomiyaki cho anh. Kusanagi tỏ ra ngại ngùng, song Muroi nhất quyết không thỏa hiệp. Không còn cách nào khác, anh đành ngồi vào bàn theo lời mời của Muroi.
“Mặc dù tôi sinh ra ở đây nhưng đến khi học cấp hai, do chuyện gia đình nên tôi chuyển tới Osaka. Hồi đó, gần nhà tôi có một quán okonomiyaki ngon lắm, tôi cứ ước ao mãi, mong một ngày nào đó mình cũng có thể mở một quán ăn như vậy. Thế nhưng, mở quán okonomiyaki ở Tokyo mà không có monja* thì đâu có được. Vì thế, sau khi nghỉ ở Karuban, tôi đã làm việc ở Tsukishima để rèn giũa tay nghề. Riêng món okonomiyaki tôi khá tự tin vì đã nghiên cứu từ hồi còn nhỏ.” Muroi vừa hào hứng trò chuyện vừa bắt tay vào việc. Nhìn cách ông ta trộn nguyên liệu trong bát Kusanagi không khỏi trầm trồ.
Một món ăn nổi tiếng của Tokyo, nguyên liệu làm từ hỗn hợp bột mì pha với nước trộn cùng bắp cải thái mỏng và nhiều thành phần khác.
“Ông làm ở Karuban bao nhiêu năm?” Kusanagi hỏi.
“Vừa tròn hai mươi năm. Tôi được tuyển vào làm nhân viên pha chế năm ba mươi lăm tuổi. Trước đấy tôi đã nhảy việc hết quán này đến quán khác, nhưng Karuban là dễ chịu nhất. Có điều tôi cũng không thể đi làm thuê mãi được, thành ra mười năm trước mới mở quán ăn này đây. Nhìn thế này thôi nhưng vững vàng lắm đấy, không phải vay mượn gì nhiều đâu.” Muroi bắt đầu nướng okonomiyaki. Dầu bắn lên tí tách cùng với âm thanh xèo xèo.
“Senba Hidetoshi thường lui tới quán vào khoảng thời gian nào vậy?”
Muroi khoanh tay, tỏ vẻ ngẫm nghĩ.
“Khi nào nhỉ. Tôi nhớ là khoảng mười năm sau khi tôi bắt đầu làm việc tại Karuban thì phải, cộng lại chắc khoảng hai hai, hai ba năm trước gì đó.”
“Nghĩa là…” Kusanagi nhẩm tính trong đầu. “Khoảng sáu, bảy năm trước khi xảy ra vụ án nhỉ.”
“À, phải. Tôi nghĩ là khoảng đó đấy. Hồi ấy anh Senba phất lắm. Anh ta còn điều hành cả một công ty, tuy cũng nhỏ thôi.” Muroi gọi Senba là anh. Chắc có lẽ vì Senba đã từng một thời là khách quý của quán. “Thế rồi từ một dạo đột nhiên không thấy anh ta tới nữa, nói thế này không được hay cho lắm nhưng đến khi quay lại quán, trông anh ta bi đát lắm. Quần áo mặc trên người cũng toàn đồ rẻ tiền. Chính là cái đêm đó đấy.”
Công ty phá sản, tiền dành dụm hầu như bị đốt sạch vào chi phí chữa bệnh cho vợ. Thời điểm đó Senba quyết tâm lên Tokyo làm lại từ đầu giữa lúc đang tuyệt vọng, thế nên trông anh ta bi đát cũng không có gì là lạ.
“Còn Miyake Nobuko thì sao? Hình như cô ta cũng lâu rồi mới tới quán phải không?”
“Đúng vậy, nhưng không lâu như Senba. Tối hôm đó là lần xuất hiện sau khoảng hai, ba năm gì đó. Từ sau khi thôi không làm tiếp viên nhà hàng, cô Rie không tới quán chúng tôi nữa.”
“Cô Rie?”
“À, nghệ danh ấy mà. Chính xác là Rieko thì phải. Thời còn làm tiếp viên, cô ấy thường hay dẫn khách đến quán chúng tôi vào tăng hai. Anh Senba cũng là một trong số đó.”
“Ông có biết vì sao Rie…, à Miyake nghỉ việc không?”
Nghe Kusanagi hỏi, Muroi dừng tay khi đó đang kiểm tra độ chín của okonomiyaki, đoạn hơi rướn người ra phía trước. “Tôi có nghe người ta đồn.”
“Đồn gì vậy?”
“Không phải cô ta tự nghỉ, mà là bị đuổi vì đã gây rắc rối.”
“Ông nói rắc rối là sao?”
Muroi nhún vai cười.
“Theo tôi nghe được thì cô ta đã quỵt những khoản tiền nhỏ của rất nhiều người.”
“Thế thì căng phết nhỉ.”
“Cô ta vay mượn từ khách quen một trăm, hai trăm nghìn yên với những lý do như trên đường đi thu tiền của khách về thì gặp cướp, hay khách nợ tiền lặn mất tăm nên bị cửa hàng ép phải ứng trước. Giống mấy kẻ chuyên đi lừa người quen chuyển tiền qua ngân hàng thời nay ấy. Sau đấy rất nhiều người đến phàn nàn với quán, cuối cùng cô ta bị đuổi việc.”
“Thế sau khi nghỉ việc cô ta kiếm sống kiểu gì?”
“Chà, tính ra hồi đó cô ta cũng có tuổi rồi, hẳn là chật vật với vấn đề tiền nong lắm.”
Thời điểm bị sát hại, Miyake Nobuko đã bốn mươi tuổi. Giả sử câu chuyện của Muroi là thật, tức cô ta bị đuổi việc năm ba bảy, ba tám tuổi. Có nhiều khách sộp đã đành, nếu không khó mà tiếp tục làm nghề tiếp viên được.
“Hình như từ xưa cô ta vốn đã hay nhập nhằng chuyện tiền nong rồi. Thế nên khi nghe chuyện tôi cũng không lấy gì làm ngạc nhiên. Cái hồi Senba còn làm ăn được, anh ta cho Rie vay tiền cũng không có gì lạ.”
“Thế chuyện Senba khóc ông nói khi nãy thì sao…” Kusanagi hạ thấp giọng. “Chuyện đó có thật không?”
Muroi vừa kiểm tra độ chín của okonomiyaki, vừa nói: “Không chỉ mình tôi đâu, những nhân viên khác cũng thì thầm to nhỏ sau lưng mấy câu kiểu anh khách kia đang khóc kia, không biết hai người họ đang nói chuyện gì nhỉ. Nên tôi vẫn còn nhớ lắm.”
“Ông có nhớ họ đã nói chuyện gì với nhau không?”
“Ồ, không, chuyện đó thì…” Muroi phẩy tay trước khuôn mặt đang nở nụ cười gượng gạo. “Nếu người khác là một cô gái trẻ có khi người ta sẽ tò mò hơn. Đằng này đó lại là một cặp trung niên, người khóc là đàn ông nên chẳng ai muốn đến gần. Mọi người chỉ nghĩ đơn giản anh ta có tật say rượu là lăn ra khóc thôi.”
Kusanagi vừa gật đầu, vừa hình dung ra cảnh tượng đó. Một đôi nam nữ có tuổi lâu ngày gặp lại. Một bên là người từng rất thành đạt, nhưng kết cục giờ tay trắng. Còn bên này là cô tiếp viên vì gây chuyện mà không một xu dính túi. Rốt cuộc giữa họ đã xảy ra chuyện gì. Họ đã nói những gì trong lúc cùng uống với nhau, để đến nỗi người đàn ông phải rơi nước mắt và rồi đâm chết người phụ nữ ngay ngày hôm sau.
“Vậy ông có biết ai thân thiết với Miyake hoặc Senba không? Hay quán rượu nào họ thường lui tới ngoài Karuban cũng được?”
“Hừ…m, để tôi xem nào.” Muroi nghiêng đầu. “Nói gì thì nói đó cũng là chuyện xưa lắm rồi. Với lại dù họ là khách quen thật đấy nhưng tôi cũng không hay nói chuyện đến mức đó.”
“Vậy à.”
Kusanagi cất cuốn sổ ghi chép vào túi. Đột nhiên bị hỏi về chuyện cách đây hơn hai mươi năm thế này, Muroi nhớ ra ngay được gì mới là lạ ấy.
“Chà, chín rồi đây. Cậu ăn luôn đi không lại nguội mất.” Sau khi rưới nước xốt, rắc rong biển và cá ngừ bào lên trên, Muroi xắt miếng okonomiyaki ngay trên vỉ nướng. “A phải rồi. Tôi quên mất, cậu làm cốc bia tươi nhé.”
“Thôi, không cần đâu ạ. Vậy tôi xin phép.” Kusanagi cầm lấy đôi đũa dùng một lần, đoạn gắp một miếng okonomiyaki bỏ vào miệng. Nhìn bề ngoài trông miếng bánh có vẻ chín già, nhưng bên trong lại rất mềm và xốp. Anh có thể cảm nhận rõ mùi vị của từng loại nguyên liệu. “Ngon quá!” Bất giác anh thốt lên.
Muroi mỉm cười vui sướng, có lẽ vì câu nói của Kusanagi nghe không giống một lời khen xã giao.
“Mấy vị khách người Kansai cũng hay đến quán tôi lắm. Họ thường khen món này rất chuẩn vị, đúng là người ta vẫn luôn nhung nhớ những món ăn quê hương nhỉ.” Nói đoạn, khuôn mặt Muroi đột nhiên nghiêm túc trở lại, đôi mắt như đang nhìn xa xăm. “À, phải rồi…”
“Có chuyện gì vậy?”
“À, không…” Muroi lấy ngón trỏ ấn vào thái dương như thể muốn kìm nén cơn đau đầu. Hình như ông ta đang cố nhớ lại điều gì đó. “Hai người bọn họ cũng từng nói những chuyện như thế.”
“Hai người bọn họ là…?”
“Thì chính là Rie và Senba ấy. Họ rất hay nói chuyện về mấy món ăn quê hương. Có lần họ đã tặng tôi thứ gì đấy.”
“Tặng ông?”
“Đúng vậy, là đặc sản của vùng nào đó. Hừm, họ tặng tôi cái gì ấy nhỉ.” Muroi khoanh tay trước ngực, suy nghĩ một lát, cuối cùng ông ta lắc đầu từ bỏ. “Không được rồi, tôi không tài nào nhớ nổi. Tôi chỉ nhớ mang máng là đã nhận thứ gì đó thôi.”
“Nếu nhớ ra, hãy gọi vào số này cho tôi nhé.” Kusanagi viết số điện thoại di động của mình vào mảnh giấy, để bên cạnh tấm nướng.
“Tôi biết rồi. Nhưng anh cũng đừng hy vọng gì nhiều. Tôi không tự tin mình sẽ nhớ ra được đâu, vả lại nếu có nhớ chắc cũng không phải chuyện gì to tát.”
“Không sao. Vậy nhờ ông nhé.” Kusanagi lại đưa đũa gắp okonomiyaki. Đúng lúc đó, điện thoại để trong túi báo có tin nhắn đến. Anh lén nhìn màn hình, quả nhiên là tin nhắn của Utsumi Kaoru.
Kusanagi kiểm tra tin nhắn sau khi ra khỏi quán KONAMO. Nội dung tin nhắn là Tôi đã kiểm tra danh bạ của công ty Động cơ Arima. Quả nhiên ông Kawahata Shigeharu đã từng làm việc ở đây. Kusanagi gọi điện cho Utsumi.
“Vâng, tôi Utsumi đây.”
“Làm tốt lắm. Cô xác nhận bằng cách nào thế?”
“Phòng nhân sự của trụ sở chính công ty đóng ở Shinjuku đã cho tôi xem danh sách nhân viên.”
“Họ cho cô xem dễ dàng quá nhỉ.”
Không ít công ty giữ bí mật tuyệt đối danh sách nhân viên của mình. Vì họ cho rằng đó là thông tin cá nhân, nhất quyết không cho cảnh sát xem.
“Họ yêu cầu tôi ký tên vào bản cam kết với nội dung không sử dụng cho mục đích khác ngoài điều tra và không để lộ ra bên ngoài. Họ còn bảo tôi ghi tên cấp trên vào nữa nên tôi đã viết tên anh Kusanagi.”
“Không sao, chỉ thế mà được việc là cũng may lắm rồi.”
“Họ còn hỏi ngọn ngành chúng ta đang điều tra vụ án gì nữa.”
“Này…” Kusanagi xẵng giọng. “Cô không nói cho họ đấy chứ?”
“Tất nhiên rồi. Sao anh có thể nghĩ tôi non đến mức đấy nhỉ.”
“Nghe vậy tôi yên tâm rồi. Thế cô đã thấy tên của Kawahata Shigeharu à?”
“Có thấy. Trước khi nghỉ việc cách đây mười lăm năm, ông Shigeharu trực thuộc tổ dịch vụ kỹ thuật, phòng Kinh doanh kỹ thuật ở chi nhánh Nagoya. Hồi đó ông ta làm tổ trưởng.”
“Nagoya? Ông ta không ở Tokyo sao?”
“Theo danh sách đó thì đúng là như vậy. Tuy nhiên địa chỉ lại là Tokyo.”
“Tokyo? Thế nghĩa là sao?”
“Tôi không biết. Địa chỉ ở Ojihoncho, quận Kita. Ga gần nhất là ga Oji. Cuối địa chỉ còn mở ngoặc là nhà của công ty. Hình như đó là cư xá của Công ty Động cơ Arima.”
Địa chỉ nhà ở Tokyo nhưng nơi làm việc lại là Nagoya. Chắc là làm việc xa nhà rồi, Kusanagi suy luận.
“Trong bảng danh sách đó, ngoài địa chỉ và nơi làm việc ra còn viết gì nữa không?”
“Đầu tiên là mã số nhân viên. Nghe nói mã số đó được đánh theo năm vào Công ty. Danh sách cũng được xếp theo thứ tự mã số đó. Ngoài ra bảng danh sách còn ghi tên trường từng theo học, số điện thoại nhà riêng. Danh sách này được cập nhật hằng năm, vì thế đương nhiên cái tên Kawahata Shigeharu đã không còn trong bảng danh sách của năm tiếp đó.”
“Trong số những người vào Công ty cùng Kawahata, có người nào học cùng trường với ông ta không?”
Kusanagi hy vọng nếu có người như vậy biết đâu họ sẽ thân với Kawahata, song câu trả lời lại là Rất tiếc là không.
“Tóm lại tôi đã photo thông tin của khoảng năm mươi người vào Công ty cùng thời gian với Kawahata đây rồi. Ngoài ra, hồi đó ông ta có khoảng bốn người cấp dưới, tôi cũng đã photo thông tin của cả những người đó. Tuy nhiên, tất cả bọn họ đều đang sống ở tỉnh Aichi.”
“Tôi hiểu rồi. Vậy trước mắt cứ thử đến cư xá đó xem sao. Nhưng liệu cái cư xá đó còn không hay bị phá rồi?”
“Hình như vẫn còn, mặc dù cũ lắm rồi thì phải.”
“Ok, cô vừa bảo ga gần nhất là ga Oji nhỉ? Gặp nhau trước nhà ga nhé.”
Kusanagi cúp máy, đoạn sải bước. Chỉ mất một chuyến tàu điện ngầm để đi từ ga Azabu-juban đến ga Oji.
Lúc đang bước cầu thang xuống đường hầm, Kusanagi nhớ lại cuộc gọi của Yukawa lúc tối muộn ngày hôm qua. Anh ta yêu cầu Kusanagi điều tra về chủ nhân nhà trọ Lục Nham Trang và cả gia đình của ông ta. Theo suy luận của Yukawa nhiều khả năng họ có liên quan mật thiết tới vụ án này. Kusanagi có thể cảm nhận được sự tự tin của Yukawa vì khi anh hỏi “Tôi có thể coi đó là kẻ tình nghi không?”, Yukawa đã đáp “Cái đó tùy cậu.”
Song vẫn như mọi bận, đến giờ nhà vật lý đó vẫn không hề có ý định nói cho Kusanagi nghe suy luận của anh ta. Ngay cả căn cứ để điều tra về Kawahata Shigeharu, Yukawa cũng không hề đả động tới. Không những thế, anh còn nói với Kusanagi thế này.
“Sở dĩ tôi nói những chuyện này là vì tin tưởng các cậu, và tôi cũng cần các cậu góp sức để giải quyết vấn đề này, mong các cậu hiểu rằng chuyện này không giống với việc cung cấp thông tin cho cảnh sát.”
Kusanagi không hiểu ý nghĩa của câu nói vòng vo đó. Sau khi nói vậy, Yukawa còn đế thêm.
“Chắc chắn gia đình Kawahata có liên quan đến vụ án này. Tuy nhiên cậu đừng nói chuyện đó với cảnh sát dưới này vội. Nếu được, tôi muốn làm rõ chân tướng sự việc đã, chỉ mấy người chúng ta thôi. Với kiểu làm việc bát nháo của cảnh sát tỉnh, rất có thể sự thật sẽ bị vạch trần một cách khiên cưỡng, khi đó khó mà làm lại được.”
Thật là một lời giải thích kỳ quặc. Khi Kusanagi hỏi cái gì không thể làm lại và không làm lại được như thế nào, Yukawa trả lời rằng “Cuộc đời chăng”.
“Nếu vụ án này kết thúc không đúng cách, rất có thể cuộc đời một con người sẽ bị đảo lộn hoàn toàn. Chúng ta phải ngăn chặn chuyện đó bằng mọi giá.”
Đến cuối cùng Yukawa vẫn không chịu nói rõ người đó là ai. Thay vào đó, anh đã thủ thỉ thế này.
“Tôi xin lỗi vì toàn nói những điều tùy tiện. Nhưng riêng chuyện này thì tôi hứa với cậu. Nếu tìm ra chân tướng sự việc, nhất định tôi sẽ nói cho các cậu biết trước tiên. Còn việc làm gì với chân tướng đó là quyền của các cậu.”
Yukawa nói vậy ắt hẳn là có nội tình gì đó rất đặc biệt. Từ lâu Kusanagi đã biết trong những trường hợp thế này có cố gặng hỏi cũng chẳng ích gì. Anh chỉ đáp “Tôi biết rồi. Tôi sẽ điều tra về gia đình Kawahata xem sao,” rồi cúp máy.
Mặc dù vậy, Kusanagi hầu như không nhận được thông tin gì liên quan đến Kawahata Shigeharu từ phía Phòng Cảnh sát Hari. Ngẫm ra chuyện đó cũng không có gì lạ. Với họ, việc cung cấp những thông tin như vậy cho Sở Cảnh sát Tokyo chẳng có nghĩa lý gì cả. Thế nhưng, Kusanagi cũng không thể đi hỏi về Kawahata Shigeharu hay gia đình ông ta được. Vì nếu làm vậy, chắc chắn họ sẽ hỏi ngược lại tại sao anh muốn biết những chuyện đó. Tệ hơn là, rất có thể họ sẽ hướng sự nghi ngờ về phía gia đình Kawahata. Nếu thế anh sẽ phá vỡ lời hứa với Yukawa mất.
Trong lúc đang tính xem phải làm thế nào để điều tra về quá khứ của gia đình Kawahata thì sáng nay anh nhận được một thông tin hữu ích từ Yukawa. Theo những gì Yukawa nghe được từ cô con gái, trước đây ông Kawahata Shigeharu từng làm việc cho một công ty chế tạo động cơ tên là Động cơ Arima. Ngay lập tức, Utsumi Kaoru đã tới trụ sở chính của công ty ở Shinjuku.
Vừa lắc lư theo con tàu, Kusanagi vừa nghĩ “Chuyện này thú vị rồi đây.” Vụ án xảy ra ở vùng quê Harigaura, song chìa khóa để giải mã nó lại nằm hết ở Tokyo. Không những thế, người của tổ điều tra vốn dĩ đóng vai trò rất quan trọng thì hầu như chẳng ai nhận ra điều đó.
Rốt cuộc cậu ta đã gặp những ai và đang làm gì ở Harigaura không biết? Vừa nhìn chăm chăm vào bức tường xám chạy ngoài cửa sổ, Kusanagi vừa hình dung khuôn mặt của người bạn thân.