← Quay lại trang sách

20 Tháng Mười Hai

Chim sẻ ức đỏ.” Mẹ chỉ tay vào cửa sổ sân trong, về phía vườn ngập tuyết. “Kia kìa, đậu trên cán mai ấy.”

“Như từ trên một tấm thiệp Giáng Sinh bay về,” Nigel đáp.

Bố đang nhai món hoa lơ xanh. “Sao đồ nghề của tôi lại ở ngoài nhà kho thế kia?”

“Là con,” tôi nói. “Khi nãy con đi xúc thêm chậu than. Để đấy con cất vào. Nhưng, trước hết, để con cất đĩa của Alex vào lò cho ấm: mải tán chuyện và yêu iếc cũng không đáng bị ăn đồ nguội.” Tôi đem đĩa ăn của ông anh đặt vào chiếc lò nướng đốt củi mới coong, cẩn thận lấy nắp xoong đậy lên trên. “Trời đất. Lò này muốn nướng cả mụ phù thủy cũng được.”

“Nếu có gắn bánh xe nữa,” Nigel nói, “thì thành con Austin Metro.”

“Con đấy,” xe rởm là một trong những chủ đề yêu thích của bố tôi, “đúng rởm.”

“Tiếc thật, con sẽ không gặp dì Helena dịp năm mới này,” mẹ nói với tôi.

“Tiếc quá” tôi ngồi xuống, tiếp tục ăn trưa. “Cho con gởi lời thăm dì.”

“Thôi đi,” Nigel nói. “làm như anh thà bị kẹt ở Richmond vào năm mới, còn hơn phải đi trượt tuyết ở Thụy Sĩ. Anh đúng là đồ dẻo mồm.”

“Bố bảo bao nhiêu lần rồi?” Bố lên tiếng. “Biết…”

“Biết gì không quan trọng bằng biết ai,” Nigel nói. “Chín nghìn, sáu trăm lẻ tám lần, kể cả vừa rồi.”

“Vì vậy mà phải vào cho được trường có tiếng tăm,” bố tiếp. “Để còn chơi với ông to bà lớn trong tương lai, chứ không phải cặp kè với bọn tép riu.”

“À quên,” mẹ nhớ ra. “Julia lại lần nữa khoác áo vinh quang. Nó vừa giành được học bổng theo học luật nhân quyền ở Montreal.”

Tôi vốn khoái cô em họ Julia, nghĩ đến cô nàng khoác áo gì cũng thật là dễ mất tập trung, theo kiểu thơ ca Byron.

“May là nó giống bên nhà ngoại, Alice nhỉ,” bố nói, ý bỉ bôi ông chồng cũ của dì tôi, vụ ly dị cũng đã mười năm, ông dượng ngủ với thư ký, có con riêng, rất “đúng bài”. “Jason học gì nhỉ?”

“Hình như tâm lý – ngôn ngữ học gì đó,” mẹ đáp, “ở Lancaster.” Bố nhướng mày. “Tại sao anh cứ nghĩ nó học lâm nghiệp nhỉ?”

“Hồi nhỏ nó muốn trở thành kiểm lâm,” tôi nói.

“Nhưng giờ thì lại muốn thành bác sĩ chuyên khoa chữa tật nói,” mẹ nói.

“Bác sĩ nói-nói-nói lắp-lắp,” Nigel góp chuyện.

Tôi vặn cối xay tiêu lên món bí đỏ ghiền. “Vừa trẻ con, vừa vớ vẩn, Nige à. Còn ai hợp hơn người đã bị nói lắp đi làm bác sĩ chữa tật nói? Nhóc không nghĩ thế sao?”

Nigel làm vẻ mặt chắc-vậy, thay vì thừa nhận tôi nói đúng.

Mẹ nhấp rượu. “Rượu tuyệt vời, Hugo à.”

“Còn không tuyệt nữa, Montrachet bảy mươi tám kia mà,” bố nói. “Anh không nên phí tiền mua rượu cho bố mẹ, Hugo à. Thật đấy.”

“Con chi tiêu rất kỹ, bố yên tâm. Việc con làm bên văn phòng luật sư cũng để dành được chút đỉnh. Mà bố cho con bao nhiêu thứ rồi, chai rượu tử tế một chút có đáng gì.”

“Nhưng bố mẹ không muốn con phải túng thiếu,” mẹ nói.

“Hay việc học bị ảnh hưởng,” bố thêm vào, “vì đi làm thêm.”

“Vậy nên con phải nói cho bố mẹ biết,” mẹ tiếp, “nếu có thiếu thốn gì. Nhớ đấy?”

“Yên tâm, con sẽ về nhà chìa tay ngửa nón đàng hoàng. Con nhớ mà.”

“Con đang túng đây,” Nigel lên tiếng, vẻ hi vọng.

“Anh chưa phải ra đời phức tạp như Hugo.” Bố nhướng mày nhìn đồng hồ. “À, mà hi vọng là phụ huynh Fräulein[15] Alex biết là cô nàng đang gọi sang Anh quốc. Lại đang giữa ngày nữa.”

“Dân Đức mà bố,” Nigel đáp. “Deutschmark đầy túi.”

“Nói vậy nhưng vụ tái thống nhất nghe có vẻ tốn kém. Khách hàng của bố ở Frankfurt vẫn đang giật mình thon thót đấy.”

Mẹ cắt một củ khoai bỏ lò. “Hugo này, Alex kể gì với con về Suzanne?”

“Không một lời.” Tôi dùng dao nĩa tách phần thịt cá hương khỏi xương. “Hai anh em suốt ngày nạnh nhau, mẹ không nhớ sao.”

“Nhưng dạo này con với Alex thân nhau nhất kia mà.”

“Miễn là,” Nigel tiếp, “không ai mở miệng nói năm tiếng ‘Chơi Cờ tỷ phú không?’”

Tôi làm mặt giận. “Chẳng lẽ không thể thua được là có tội à?”

Nigel cười đểu. “Chỉ vì không ai biết anh ăn gian kiểu gì…”

“Mẹ, bố, hai người nghe nó vu khống vô căn cứ, tàn nhẫn chưa kìa.”

“… đâu có nghĩa là anh không ăn gian.” Nigel vẫy con dao ăn. Cậu em tôi vừa biết tí mùi đời: vậy là các thể loại tạp chí chơi cờ và máy trò chơi Atari bị tống ra, đĩa KLF và các món chải chuốt được rước vào. “Có thể biết được ba điều về Suzanne, chỉ bằng suy luận. Nếu cô ta thấy Alex hấp dẫn, thì cô ta (a) có mắt như mù, (b) quen chơi với trẻ con chập chững, và (c) không có khứu giác.”

Alex bước vào: “Ai không có khứu giác kia?”

“Mang bữa ăn của Đại thiếu gia trong lò vào đây,” tôi lệnh cho Nigel, “nếu không anh sẽ khai hết cho nhóc biết mùi lễ độ.” Nigel làm theo, cũng khá sợ sệt.

“Suzanne sao rồi?” mẹ hỏi. “Hamburg thế nào?”

“Vâng, ổn cả.” Alex ngồi xuống. Ông anh tôi vốn kiệm lời.

“Con có nói cô ấy học dược lý, đúng không?” mẹ tiếp tục.

Alex xiên một mẩu hoa lơ trắng trông như bộ não tí hon, nhấc khỏi đĩa. “Ừm.”

“Nhà mình sẽ được gặp cô ấy chứ, con nghĩ sao?”

“Cũng khó nói,” Alex đáp, rồi tôi nghĩ đến Mariângela tội nghiệp của tôi, cô ả vẫn nuôi hi vọng hão huyền.

Nigel đặt bữa trưa của Alex trước mặt ông anh lớn.

“Bố vẫn không thể tin,” bố nói, “rằng khoảng cách đã được thu hẹp như thế nào. Bạn gái ở Đức, đi trượt tuyết ở dãy Alps, đi học ở Montreal: ngày nay là chuyện thường cả. Lần đầu tiên bố đi khỏi nước Anh là đi Rome, khi bố bằng tuổi Hugo. Bạn bè lúc đó chưa có ai đi xa thế. Bố và một cậu bạn lên tàu Dover-Calais, đi xuống Marseille, rồi qua Turin, rồi Rome. Sáu ngày. Cứ như đi đến tận cùng thế giới.”

Nigel trêu, “Thế giữa đường xe ngựa có bị rơi bánh không?”

“Anh hài nhỉ. Mãi đến hai năm trước bố mới trở lại Rome, khi bên New York quyết định tổ chức hội nghị thường niên châu Âu ở đó. Mọi người bay đến kịp ăn bữa trưa trễ, dự vài cuộc họp, giao lưu nọ kia đến nửa đêm, rồi ngày hôm sau đã trở lại London kịp giờ…”

Có tiếng chuông điên thoại ngoài phòng khách. “Chắc là của mấy anh giai nhà này,” mẹ nói. “Chắc chắn.”

Nigel lướt qua lối sảnh, vào phòng khách: con cá hương trên đĩa giương mắt nhìn tôi, vẻ thất vọng. Một lát sau, Nigel trở lại. “Hugo, Diana gọi anh – Diana gì ấy nhỉ, Sồn-sồn, Sồ-sề, Spencer gì đấy, quên mất. Bảo anh ghé qua Cung điện, chồng bà ấy đang đi công du Khối thịnh vượng chung… Nhắc anh vụ Tantra tan triếc gì đó? Bảo là cứ nói vậy, anh hiểu hết.”

“Trên đời có một loại phẫu thuật, nhóc à. Làm xong nhóc sẽ đỡ bị ám ảnh vụ kia. Nghe đâu bác sĩ thú y làm rất rẻ.”

“Ai gọi đó, Nigel?” Mẹ hỏi. “Nói ngay, không lại quên.”

“Bà Purvis ở Riverside Villas. Bảo là nhắn Hugo ông Chuẩn tướng hôm nay đã đỡ mệt, nếu anh ấy vẫn muốn ghé thăm ông chiều nay, tốt nhất là đến từ khoảng ba giờ đến năm giờ.”

“Tuyệt. Nếu bố không phiền…”

“Anh đi đi. Bố mẹ rất vui vì anh vẫn đến đọc sách cho Chuẩn tướng, phải vậy không hả Alice?”

Mẹ đáp, “Đúng thế.”

“Cảm ơn bố mẹ,” tôi nhún vai bối rối, “nhưng Chuẩn tướng Philby thật tốt với con, hồi con đến gặp ông ấy ở Dulwich để thực hành môn giáo dục công dân, Chuẩn tướng kể bao nhiêu là chuyện hay. Con có làm được gì nhiều cho ông đâu.”

“Ôi lạy Chúa.” Nigel rên. “Cứ như đang bị nhốt trong một tập phim Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên.”

“Vậy để bố thả ra nhé,” bố nói. “Nếu Hugo đi thăm Chuẩn tướng, anh đi lấy cây thông với bố.”

Nigel nhăn nhó. “Nhưng Jasper Farley với con định chiều nay đi phố Tottenham Court mà!”

“Để làm gì?” Alex ghim thức ăn vào nĩa. “Bọn các chú chỉ mỗi trò ngắm mấy bộ hi-fi loa liếc đắt đỏ rồi thèm nhỏ dãi.”

Có tiếng rầm nhẹ ngoài sân. Tôi loáng thoáng thấy một vết đen. Một chậu hoa bị đổ trượt ngang sân, cái mai ngã xuống và vết đen hóa thành con mèo ngậm con chim sẻ ức đỏ trong miệng. Cánh chim vẫn còn đập. “Ôi.” mẹ run giọng. “Kinh quá. Mình không làm gì được sao? Con mèo trông đắc chí quá.”

“Mạnh được yếu thua mà,” Alex nói.

“Vậy để con kéo rèm xuống nhé?” Nigel đề nghị.

“Để tạo hóa làm nốt việc vậy,” bố nói.

Tôi đứng dậy, đi ra bằng cửa sau. Không khí lạnh tràn lên da thịt khi tôi xua “Xuỵt xuỵt” về phía con mèo. Con ác thú nhảy lên nóc nhà kho trong vườn. Nó nhìn tôi. Đuôi nó ngo ngoe thách thức. Con chim máu me vẫn còn giật giật trong miệng.

Tôi nghe có tiếng máy bay ầm ầm.

Một cành cây gãy. Tự dưng tôi thấy tràn trề sinh lực.

“Theo như ông chồng tôi,” y tá Purvis bước chân rầm rập khí thế trên lớp thảm không thấm nước, thẳng tiến đến thư viện của viện dưỡng lão Riverside Villas, “thanh niên ngày nay hoặc chỉ biết ăn trợ cấp, hoặc đồng tính, hoặc ích kỷ.” Mùi thuốc khử trùng hương gỗ thông khiến tôi cay mũi. “Nhưng chỉ cần Anh quốc có những thanh niên như cậu, Hugo à, thì lo gì xã hội suy đồi, nhỉ?”

“Xin bác đấy, Y tá Purvis, mũi cháu nở to lắm rồi, khéo mà không đi qua nổi cửa thư viện.” Cả hai rẽ qua góc, một cư dân viện dưỡng lão đang đứng bám vào tay vịn. Bà lão nhướng mày nhìn ra khu vườn mùa đông, như thể đã để quên gì ở ngoài đó. Một vệt dãi dớt nhỏ từ môi dưới xuống chiếc áo len màu xanh bạc hà.

“Nề nếp, bà Bolitho,” Y tá lên tiếng, rút khăn giấy từ trong cánh tay ra. “Mình phải giữ gì nhỉ? Nề nếp của viện, đúng không?” Bà y tá hứng lấy giọt dãi rồi vứt khăn giấy vào thùng rác. “Bà nhớ Hugo chứ, bà Bolitho – anh bạn trẻ của Chuẩn tướng ấy.”

Bà Bolitho quay đầu lại: nhìn bà lão, tôi nhớ đến con cá hương bữa trưa. “Rất vui gặp lại bà, bà Bolitho,” tôi vui vẻ chào.

“Chào Hugo đi bà Bolitho. Hugo là khách đấy.” Bà lão hết nhìn tôi đến nhìn y tá Purvis, rồi rên ư ử.

“Gì kia? Tivi đang chiếu phim Chitty Chitty Bang Bang ở phòng khách. Phim có chiếc xe bay đấy. Mình đi xem nhé?”

Đầu sói treo trên tường nhìn xuống, như khẽ mỉm cười.

“Bà đợi đây nhé,” y tá Purvis dặn bà Bolitho, “để tôi đưa Hugo ra thư viện. Rồi mình cùng đến phòng sinh hoạt chung.”

Tôi chúc bà Bolitho Giáng Sinh vui vẻ, nhưng khả năng ấy rất thấp.

“Bà lão có bốn đứa con trai,” y tá Purvis dẫn đường, “ở London cả, nhưng không bao giờ ghé thăm. Cứ như tuổi già là tội phạm, chứ không phải là chuyện sớm muộn ai cũng trải qua.”

Tôi cân nhắc, định nói ra ý nghĩ của mình, rằng con người chúng ta chống chọi với cái chết bằng cách cố quên nó đi, chôn vùi nó dưới chủ nghĩa tiêu thụ và đủ loại hỉ nộ ái ố ở đời; rằng những viện dưỡng lão Riverside Villa trên thế giới chính là những tấm màn giúp ta tự che mắt, rằng thực ra người già có tội chứ: tội đã chứng minh cho ta thấy rõ bản chất của sự tự lừa dối ấy.

Nhưng, thôi, đừng phức tạp hóa quan điểm của y tá Purvis về tôi. Cả hai ra đến thư viện, người dẫn đường của tôi tiếp tục nói, thì thầm: “Tôi biết cậu sẽ không phiền, Hugo, nếu Chuẩn tướng không nhận ra cậu.”

“Không sao cả. Ông ấy còn… còn hoang tưởng mất tem gì đó nữa không?”

“Thi thoảng lại trở cơn, vẫn còn. Ồ, Mariângela đây rồi – Mariângela!”

Mariângela tiến lại gần, tay ôm một chồng ga trải giường gấp gọn. “Yugo! Chào Y tá Purvis! Y tá có nói hôm nay anh tới. Nor-witch sao rồi?”

“Hugo học ở Đại học Cambridge, Mariângela.” Y tá Purvis giả vờ rùng mình. “Cambridge. Không phải Norwich. Khá là khác đấy.”

“Xin lỗi, Yugo.” Đôi mắt Brazil tinh quái của Mariângela làm trỗi dậy hi vọng, và cả những thứ khác nơi tôi. “Tui vẫn chưa rành địa lý Anh quốc lắm, còn dở lắm.”

“Mariângela, hay cô mang cà phê đến thư viện cho Hugo và ông Chuẩn tướng. Tôi phải trở lại với bà Bolitho.”

“Vâng ạ. Hôm nay được gặp bác thật hay quá, Y tá Purvis.”

“Nhớ ghé chào tạm biệt trước khi cậu ra về đó.” Rồi bà y tá lại rầm rập bước đi.

Tôi hỏi Mariângela, “Làm việc dưới quyền bà ấy như thế nào?”

“Người xứ tui từ lâu đã quen với độc tài.”

“Buổi tối bà ấy có ngủ không, hay cắm vào ổ điện để sạc?”

“Bà ấy không phải là sếp tồi, nếu mình biết nghe lời. Ít ra bà ấy rất dễ đoán. Ít ra nghĩ gì nói nấy, thiệt lòng mà nói.”

Tôi thấy Mariângela có vẻ phụng phịu, chứ chẳng châm chích gì. “Nghe này cưng, cả hai ta cần có không gian riêng.”

“Tám tuần, Yugo. Hai lá thư, hai cuộc điện, hai tin nhắn trên máy điện thoại ở chỗ tui. Tui cần anh gọi, chứ không cần không gian riêng.” À hiểu rồi, ả đang giữa ‘phụng phịu’ và ‘bị ngược đãi’. “Anh sao biết tui cần gì.”

Nói với ả mọi thứ đã chấm dứt, Hugo Khôn Ngoan khuyên tôi, nhưng Hugo Hứng Tình lại rất mê gái mặc đồng phục. “Anh làm sao biết cưng cần gì, Mariângela. Cũng đâu biết ai khác cần gì. Hoặc chính anh cần gì. Trước cưng anh chỉ có hai, ba bạn gái gì đó – nhưng… cưng rất khác. Đến cuối mùa hè năm ngoái, bên trong mí mắt anh như màn hình tivi, chiếu mỗi Mariângela Pinto-Pereira, suốt ngày suốt đêm. Anh hoang mang tợn. Anh chỉ còn biết tránh đi một lúc. Vậy là có nhiều khi, anh muốn gọi lắm… nhưng… nhưng… anh còn trẻ người non dạ, Thiên Thần à, không phải anh có ý gì đâu.” Tôi mở cửa thư viện. “Cám ơn cưng vì những kỷ niệm tuyệt vời. Anh xin lỗi vì anh thiếu tế nhị, đã làm cưng tổn thương. Thực lòng đấy.”

Một chân của ả đã đặt qua cửa. Phụng phịu và nóng nảy. “Y tá Purvis bảo tui mang cà phê cho anh và ông Chuẩn tướng. Vẫn cà phê đen, một viên đường chứ?”

“Đúng rồi, xin cưng. Nhưng làm ơn đừng chơi bùa vùng Amazon, làm teo tóp hết cả hàng họ, nhé.”

“Xài dao thiệt sắc lẹ hơn nhiều, bùa làm gì.” Ả cong cớn. “Cho sữa hay bột Coffee-mate, như anh vẫn uống ở đại học Came-bridge sao?”

“Cà phê sữa hay làm anh nổi mẩn.”

“Vậy nếu… nếu… tui pha cà phê Brazil thứ thiệt cho anh, anh uống chứ?”

“Ôi Mariângela. Đúng là một khi đã biết mùi đồ thật rồi, mọi thứ khác chỉ là hàng nhái rẻ tiền.”

“Gần hết rồi, thưa Chuẩn tướng,” tôi nói với ông lão, rồi lật trang sách. “Nhưng với tôi hết thảy Đông phương như gói gọn trong cái nhìn tuổi trẻ. Chính là khoảnh khắc khi tôi mở đôi mắt thanh xuân. Tôi bắt gặp tuổi trẻ trong cuộc giằng co với biển cả – và tôi hãy còn trẻ – và tôi thấy tuổi trẻ đang nhìn lại mình. Rồi đây là tất cả những gì còn lại! Chỉ là một khoảnh khắc; một khoảnh khắc của sức mạnh, của lãng mạn, của đắm đuối, của tuổi trẻ… Tia nắng lấp lánh trên một bến bờ xa lạ, để mà nhớ nhung, để mà thở dài, và… giã biệt! Đêm rồi – Giã biệt…” Tôi nhấp cà phê chỉ còn hơi âm ấm: tách của Chuẩn tướng Philby vẫn chưa được đụng đến. Người đàn ông mạnh mẽ, tinh quái mà tôi quen năm năm trước đây với cái xác không hồn ngồi xe lăn này là một. Hồi năm 1986 ông bảy mươi mà như năm mươi, sống trong một ngôi nhà cổ rộng lớn ở Kew với Hatter, bà chị góa bụa chu đáo. Ông Chuẩn tướng là chỗ bạn cũ với thầy hiệu trưởng của tôi. Mặc dù tôi chỉ đến để giúp cắt cỏ khi ông chờ bên chân gãy bình phục, Chuẩn tướng kịp nhận ra nơi tôi một tâm hồn đồng điệu, vậy là những giờ thực hành môn giáo dục công dân trở thành giờ luyện chơi xì tố, kipbi và xì lát. Ngay cả khi chân ông đã khỏi tôi vẫn ghé qua mỗi tối Thứ Năm. Bà Hatter “vỗ béo” cho tôi rồi hai ông cháu ra bàn chơi bài, nơi ông dạy tôi các ngón bài bạc “làm sao để Cô thương” mà đến thằng Cóc cũng không đoán ra được. Ăn vận bảnh bao, thời trẻ khá là đào hoa, ông Chuẩn tướng còn là một tay chơi tem có hạng, một nhà ngữ học, một người hoạt ngôn. Sau ly port ông thường kể chuyện thời còn ở Đội Tàu Đặc Biệt tham chiến ở Na Uy, rồi sau đó là chiến tranh Triều Tiên. Ông nằng nặc khuyên tôi đọc Conrad và Chekhov, và dạy tôi làm hộ chiếu giả bằng cách tìm một cái tên trong nghĩa địa, rồi viết thư gởi cơ quan Hộ tịch ở Somerset House xin cấp giấy khai sinh. Tôi đã biết tỏng trò đó nhưng cứ giả vờ không biết.

Bây giờ Chuẩn tướng Philby dường như không động đậy. Thi thoảng ông ngả đầu về một bên, như Stevie Wonder ngồi bên đàn piano, bụi gàu rơi xuống những nếp gấp áo khoác. Có một y tá nam giúp ông cạo râu, anh này rõ là vừa làm vừa nghĩ ngợi tận đâu đâu, và ông còn phải mặc bỉm do không chủ động được việc tiểu tiện. Đôi khi ông cũng ú ớ được vài từ, nhưng hầu như không nói năng gì. Tôi chẳng biết ông có còn thích nghe truyện ngắn Tuổi trẻ của Conrad như trước chăng, hay nó chỉ khiến ông thêm đau đớn, khi phải nhớ đến những ngày hạnh phúc hơn. Mà có lẽ ông chẳng biết tôi đang nói gì, có khi còn không biết tôi là ai nữa ấy chứ.

Thì đã sao. Mariângela nói rằng khi tiếp xúc với bệnh nhân mất trí, tốt nhất là cứ cư xử như con người mà ta biết vẫn còn ở trong cái xác ấy. Nếu sai, nếu người ấy thực sự không còn đấy nữa thì cũng chẳng hại gì mà lại giữ được chuẩn mực chăm sóc bệnh nhân, còn nếu ta đúng, con người ta biết vẫn bị nhốt trong đấy, thì ta thành phao cứu sinh của người ấy. “Đến trang cuối rồi, Chuẩn tướng à. ‘Tuyệt vời vô cùng là biển cả, tôi tin vậy, chính biển cả – hay chính chỉ bởi tuổi trẻ? Ai mà biết được – đời các anh ai cũng đã có phước phần: tiền tài, tình yêu – bất cứ thứ gì người ta tìm thấy trên bờ – nhưng, nói tôi nghe, chẳng phải khi ấy mới là lúc tuyệt vời nhất, khi ta còn trẻ ở biển khơi; trẻ và không có gì cả, lênh đênh trên biển, biển cả không cho ta thứ gì trừ thử thách khắc nghiệt – và đôi khi là một cơ hội để cảm nhận sức mạnh chính ta – chỉ có thế – các anh còn hối tiếc gì?’”

Cần cổ ông Chuẩn tướng khẽ rung lên.

Một tiếng thở dài? Hay chỉ là không khí, gảy lên thanh quản?

Qua khoảng không giữa cây cối cuối khu vườn tôi thấy sông Thames sáng ánh bạc, xam xám như màu thép súng.

Một con thuyền năm người nhẹ trôi từ trái qua phải. Chớp mắt là nhỡ ngay.

Người làm vườn đội mũ phớt đang gom lá bằng bừa cào.

Đoạn cuối cùng trong ánh nắng đang dần tắt: “Rồi tất cả gật đầu nhìn ông ấy: kẻ có tiền, tay kế toán, gã luật sư, chúng tôi đều gật đầu với người đàn ông đang ngồi bên kia mặt bàn đánh bóng, tựa mặt nước màu nâu tĩnh lặng phản chiếu gương mặt năm người, hằn nét, nhăn nheo; những gương mặt ghi dấu bao nhọc nhằn, lừa lọc, thành công, tình yêu. Đôi mắt mỏi mệt vẫn mải nhìn ngắm, lúc nào cũng nhìn, lúc nào cũng đi tìm kiếm thứ gì đó bên ngoài cuộc đời, khi đang đợi nó đến thì nó đã đi khỏi – đã đi mà không ai thấy, trong tiếng thở dài, trong ánh chớp – đi cùng tuổi trẻ, cùng sức mạnh, cùng những mơ mộng hư ảo.”

Tôi đóng sách lại, rồi bật đèn lên. Đồng hồ trên tay báo 16:15. Tôi đứng dậy, kéo rèm. “Vậy,”- cứ như tôi đang nói với căn phòng trống, “Chắc cháu không nên làm ông mệt thêm nữa.”

Bất chợt, gương mặt ông Chuẩn tướng căng ra, tỉnh táo, ông mở miệng, rồi mặc dù giọng ông nghe thì thào như ma, thứ giọng đã nhịu đi sau cơn đột quỵ, tôi vẫn nhận rõ từng tiếng: “Mấy con tem… chết tiệt… của tao…”

“Chuẩn tướng Philby – Hugo đây, thưa ông. Hugo Lamb.”

Bàn tay run rẩy cố nắm lấy tay áo tôi. “Cảnh sát…”

“Tem nào kia, thưa Chuẩn tướng? Ý ông là sao?”

“Bộn… tiền...” Trí tuệ lướt qua đôi mắt ấy, rồi, trong một khoảnh khắc tôi nghĩ ông lão sẽ lên tiếng buộc tội, nhưng khoảnh khắc ấy tan ngay. Ở hành lang bên ngoài một chiếc xe đẩy kẽo kẹt đi qua. Ông Chuẩn tướng mà tôi biết đã rời khỏi gương mặt tàn tạ ấy, để lại tôi một mình với chiếc đồng hồ, những kệ sách thanh nhã mà chẳng ai đọc nữa, và một sự thật chắc chắn: rằng tôi có làm gì với cuộc đời của mình đi nữa, có được bao nhiêu quyền lực, của nả, trải nghiệm, tri thức hay gái đẹp, thì rồi tôi cũng sẽ có kết cục như ông lão yếu ớt này. Khi nhìn Chuẩn tướng Reginald Philby, tôi thực đang thấy chính mình dưới ống kính viễn vọng của thời gian.

Chiếc bùa mơ treo đầu giường của Mariângela đu qua đu lại khi tôi quờ quạng quệt phải, rồi tôi thấy mặt dây chuyền thập giá của ả người tình giữa những lọn tóc bồng bềnh. Tôi ngậm Con của Chúa Trời trong miệng, tưởng tượng hình nhân tan ra trên lưỡi. Tình dục có thể là liều thuốc giải cho cái chết nhưng nó chỉ mang trường sinh đến cho cả giống nòi, chứ không phải mỗi cá thể. Từ chiếc máy đĩa, Ella Fitzgerald đang quên lời bài hát “Mac The Knife” trong một đêm nóng nực ở Berlin, bốn mươi mùa hạ trước. Con tàu tuyến District Line rầm rập chạy bên dưới. Mariângela hôn chỗ thịt dưới cánh tay tôi rồi cắn, thật mạnh. “Ui,” tôi càm ràm, nhẩn nhơ tận hưởng chút tê tái. “Tiếng Bồ Đào Nha đó sao, ‘thiếp sướng đến tưởng đất trời rung chuyển, thưa Ngài, còn Ngài thì sao?’ phải không? “

“Không phải, mà là ‘tui hận anh, đồ dối trá, lừa phỉnh, đồ ác quỷ, tâm thần cà chớn cà chán, đi chết đi, đồ chó.’”

Tên giám mục cương cứng của tôi đang từ từ đội mồ đứng dậy: cơn hứng khởi khiến cả hai bật cười, làm tôi bắn ra hơi sớm. Tôi dọn bao cao su trước khi nó kịp đổ ruột, gói gọn trong mẩu khăn giấy để khỏi vấy bẩn ga giường màu tím của ả. Nhập cuộc khi nào cũng gấp gáp hối hả, nhưng đến hồi tàn cuộc thì chẳng khác gì trò hề. Mariângela trườn đến, nhìn tôi, rồi tôi tự hỏi tại sao đàn bà trở nên xấu xí hơn sau khi ta đã no xôi chán chè. Ả ngồi dậy, nhấp nước từ chiếc ly đặt cạnh tượng Chúa cứu thế. “Uống không?” Ả kề miệng ly vào môi tôi. Mariângela cầm tay tôi đặt lên tim ả. Yêu yêu yêu yêu yêu yêu, trái tim ả đập liên hồi. À, giá mà tôi chịu nghe lời Hugo Khôn Ngoan…

“Yugo, khi nào tui gặp gia đình anh được?”

Tôi mặc quần lót vào, tôi muốn đi tắm ngay nhưng đại lý Aston Martin sắp đóng cửa nên phải đi gấp. “Tại sao cưng muốn gặp gia đình anh?”

“Thường mà. Quen nhau sáu tháng rồi. Hai mốt tháng sáu, lần đầu tiên anh tới đây. Ngày mai là hai mốt tháng Mười Hai.”

Lạy Chúa, ả ưa trò kỷ niệm. “Đi ăn một bữa vậy, Thiên thần nhé, nhưng đừng lôi gia đình anh vào làm gì, được không?”

“Tui muốn gặp ba mẹ anh, anh em trai của anh…”

Chẳng nhẽ: Mẹ, Bố, Nigel, Alex; xin giới thiệu đây là Mariângela, quê ở ngoại thành Rio, y tá lão khoa ở viện dưỡng lão Riverside Villa, sau khi đi thăm Chuẩn tướng Philby, con phịch ả tưng bừng. À, tối nay nhà mình ăn gì? Tôi tìm thấy áo thun vứt dưới đất cạnh giường ả. “Anh không quen đưa bạn gái về nhà, thật tình.”

“Vậy thì tui sẽ là người đầu tiên. Hay mà.”

“Những mảng khác nhau trong đời anh…” mặc quần jean, kéo khóa, thắt lưng “…anh giữ riêng cả.”

“Tui là bạn gái anh, không phải là ‘mảng’ gì hết. Tui làm anh xấu hổ sao?” Còn bày đặt giở trò tống tình nữa. “Cưng biết là không phải vậy mà.”

Trí não của Mariângela thừa biết nên dừng ở đây, nhưng trái tim ả đã chụp lấy vô lăng. “Vậy, gia đình làm anh xấu hổ?”

“Cũng không xấu hổ gì hơn một thằng trai thứ trong một gia đình có ba con thông thường.”

“Vậy… anh xấu hổ vì tui lớn hơn anh năm tuổi?”

“Cưng mới hai mươi sáu, Thiên thần à. Có già dặn gì.”

“Vậy… tui không phải là dân da trắng, cha mẹ anh không ưa?”

Tôi gài nút áo sơ mi Paul Smith. “Không có chuyện đó.”

“Vậy tại sao tui không thể gặp gia đình bạn trai của tui?”

Bít tất thứ nhất, bít tất thứ hai. “Mình… vẫn chưa tới giai đoạn đó mà.”

“Nhảm nhí, Yugo. Trong quan hệ, đâu chỉ có chia sẻ thân xác, đúng không? Khi anh ở Cambridge, uống thứ cà phê thúi với mấy đứa con gái da trắng học tiến sĩ, tui đâu cần ngồi đây, cầu mong anh gọi, đợi anh viết thư. Không. Có cha bác sĩ bên phòng khám tư, chả mời tui đi ăn nhà hàng Nhật dưới Mayfair. Bạn tui nói, ‘Mày khùng mới nói không!’ Nhưng tui đã nói không, chỉ vì anh.” Tôi cố nén cười, ả quá non tay.

“Vậy tui là gì? Chỉ để làm tình mỗi khi anh nghỉ học sao?”

Ô kê, áo khoác của tôi treo gần cửa, đôi giày cao bồi cũng thế; ả vẫn trần truồng như người tuyết và không có vũ khí nào trong tầm tay với. “Cưng là một người bạn, Mariângela à. Hôm nay cưng là bạn rất thân. Nhưng anh có muốn giới thiệu cưng với ông bà già không? Không. Dọn vào ở chung với cưng? Không. Lên kế hoạch tương lai, cùng gấp quần áo, cùng nuôi mèo? Không nốt.”

Một con tàu chạy qua bên dưới cửa sổ, màn khóc lóc ỉ ôi bắt đầu: xưa như trái đất. Ngay lúc này, trên khắp hành tinh, nơi đâu cũng có màn đấy, bằng đủ thứ ngôn ngữ. Mariângela lau mặt rồi nhìn ra xa, những tên Olly Quinn trên thế gian quỳ xuống, hứa hẹn sẽ sửa đổi. Tôi mặc áo, mang giày. Ả trông thấy, nước mắt dừng bặt. “Anh đi sao? Ngay bây giờ?”

“Nếu đây là màn chia ly thống thiết của hai ta, Thiên thần à, thì can cớ gì phải kéo dài nỗi đau đớn?”

Thương tổn chuyển thành thù hận trong vòng năm giây. “Sai da minha frente! Vai pra puta que pariu!”[16]

Tốt. Kết cục sẽ sạch sẽ hơn nếu ả ghét tôi. Một chân đã đặt ngoài cửa, tôi nói với ả, “Nếu tay bác sĩ của cưng muốn học vài bài về Mariângela Pinto-Pereira, nói với hắn anh sẽ chỉ cho vài chiêu.”

Mặt ả tối sầm, cánh tay săn chắc vung lên, bộ ngực Brazil phơi phới thoáng qua, rồi Chúa cứu thế bay thẳng về phía tôi bằng tốc độ của sao băng: Tôi phản ứng kịp, chỉ dư có một phần mười giây, rồi Chúa đâm sầm vào cánh cửa, trở thành cơn mưa hàng nghìn mẩu vụn thạch cao.

Sáu giờ chiều ảm đạm, như sắp có tuyết. Tôi lấy mũ lông thú ra đội. Những con phố hẹp sung túc ở Richmond yên tĩnh và bình lặng. Các gia chủ kéo rèm che những căn phòng trung lưu, kệ sách kín tường, tranh pháo treo khắp, phòng nào cũng có cây thông sáng đèn. Tôi rẽ qua phố Red Lion. Cô gái ở quầy Lễ tân của hiệu xe Aston Martin hàng họ cong cớn, cũng như đường nét của thứ xe ấy, nhưng gương mặt thì rõ là người ngoài hành tinh. Cô nàng mải tám chuyện trên điện thoại khi tôi lướt qua – tôi khẽ gật đầu, ra ý sếp-cô-đang-đợi-tôi rồi băng qua sàn khu trưng bày đến cánh cửa mở sẵn của VINCENT COSTELLO, PHÒNG KINH DOANH. Người trong phòng chừng ba mươi non, để tóc có đuôi sau vuốt keo, mặc complet hàng may sẵn hạng trung, đang vụng về gói hộp xe mô hình Scalextric. “Chào anh,” hắn ta lên tiếng. “Tôi giúp gì được cho anh?” Giọng ngang phè lấc cấc, kiểu người phía Đông London; trên bàn có đặt bức hình chụp hắn với một cậu bé con, nhưng không có hình người mẹ, cũng không có nhẫn cưới.

“Anh Vincent Costello, phải không?”

“Đúng thế. Trên cửa có ghi đấy.”

“Tôi muốn hỏi giá bán lại của một con Aston Martin Coda. Nhưng trước hết,” tôi nhìn cái hộp gói dang dở, “anh cần thêm một ngón cái cho dễ gói.”

“Không, không, anh cứ ngồi đó, không sao đâu.”

“Tôi thì không sao rồi, nhưng anh thì có đấy. Để tôi giúp.”

“Được rồi, cảm ơn. Quà cho thằng con năm tuổi.”

“Fan của xe Công thức Một sao?”

“Mê xe hơi, xe máy, bất kỳ thứ gì có động cơ. Thường mẹ nó lo phần gói quà nhưng…” Miếng keo dán xé rách một dải giấy gói quà, Costello suýt buột miệng “Chết mẹ,” nhưng sửa kịp thành “Khỉ thật”.

“Quấn giấy quanh hộp theo đường chéo.” Trước khi hắn kịp đôi co, tôi đã kịp chen vào. “Xé sẵn keo dán, khéo léo gấp vào rồi…”Một vài giây sau, một hộp quà được gói hoàn hảo đã chễm chệ trên bàn hắn.

“Xong rồi.”

Vincent Costello rõ choáng. “Anh học đâu ra thế?”

“Dì tôi có một chuỗi cửa hàng quà tặng cao cấp. Thằng cháu dở hơi này vẫn xuống giúp một tay.”

“Dì anh may mắn thật. Vậy. Aston Martin Coda, phải không?”

“1969, mới đi được một trăm mười nghìn dặm, chủ nhân rất cẩn thận.”

“Xe tuổi đấy mà chỉ có chừng đó dặm thì thấp thật.” Hắn ta lấy ra một tờ giấy A4 chi chít số má từ hộp bàn. “Vậy ông chủ cẩn thận này là ai thế? Vì rõ là anh không thể nào lái xe từ năm 1969 được.”

“Không, là của bạn tôi, ông cụ để lại. Tôi là Hugo, Hugo Lamb, còn bạn tôi là người nhà họ Penhaligon ở Penzance.” Hai bên bắt tay. “Khi qua đời, ông cụ để lại một mớ tài chính rối ren và món nợ thuế thừa kế muốn gãy cổ.”

Vincent Costello nhăn mặt ra vẻ thông cảm. “Rõ rồi.”

“Bà cụ quen tôi là người rất tốt, nhưng không hề biết tính toán gì cả. Rồi, chưa hết, tay luật sư kiêm tư vấn tài chính cho gia đình vừa bị bắt vì tội lừa đảo.”

“Trời, đúng là họa vô đơn chí, nhỉ?”

“Đúng thế. Số là, lần vừa rồi gặp Jonny, tôi hứa sẽ nói chuyện con Aston Martin với nhà buôn gần nhà – là anh đấy. Bố mẹ tôi ở phố Chislehurst. Ở ngạch xe cổ này thì chả biết ai vào ai được, tôi đoán một nhà buôn London như anh đây có thể giữ kín kẽ cho bạn tôi mà nhà buôn dưới Devon hay Cornwall không làm được.”

“Anh đoán chính xác, Hugo à. Để tôi đi tham khảo bảng giá mới nhất…” Costello mở một tập hồ sơ. “Ông cụ nhà anh có phải khách hàng chỗ này không?”

“Hiện giờ ông cụ đang chơi BMW, nhưng có thể sẽ muốn tìm thứ gì đó bảnh hơn chút. Xe ấy bây giờ toàn bọn tre trẻ đi cả, chẳng ra làm sao. Tôi sẽ nói với ông cụ anh rất mát tay.”

“Cảm ơn nhé. Được rồi Hugo à. Nói với bạn anh rằng giá của con Aston Martin Coda 1969, đã chạy khoảng một trăm nghìn dặm, nếu mọi thứ ổn cả, sẽ chừng…” Vincent Costello di ngón tay xuống một cột số trên giấy “…độ hai mươi hai nghìn. Tuy nhiên bán ở London thì thêm chút lợi thế – Tôi đang nghĩ đến một tay sưu tập người Ả Rập trong danh sách khách hàng, tay này sẽ trả hơn một tí, vì biết rõ tụi tôi chỉ bán hàng ngon, vậy nên tôi có thể cố ra giá hai lăm nghìn. Thợ cơ khí bên tụi tôi sẽ phải tự tay khám xe, và anh Penhaligon phải đích thân đem giấy tờ đến.”

“Đương nhiên bên phía tụi tôi cũng muốn làm đến nơi đến chốn.”

“Danh thiếp của tôi đây… anh ấy gọi lúc nào cũng được.”

“Tuyệt.” Tôi bỏ danh thiếp vào ví da rắn, cả hai bắt tay rồi tôi ra về.

“Giáng sinh vui vẻ nhé, anh Costello.”